Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Diễn ngôn giới trong sáng tác của Y Ban (Nhìn từ quan niệm của Foucault)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.78 KB, 112 trang )

[Type text]

ĐỀ TÀI:
DIỄN NGÔN GIỚI TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN
(NHÌN TỪ QUAN NIỆM CỦA FOUCAULT)

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Thế kỉ XX là thế kỉ của lí luận phê bình văn học. Nhiều lí thuyết văn
học ra đời, mở ra những cách tiếp cận khác nhau đối với văn học: cấu trúc, thi
pháp học, phân tâm học, văn hóa học… Mỗi cách tiếp cận đều mở ra một góc
nhìn mới về thực thể nhiều chiều kích của đời sống và tác phẩm văn học. Sự ra
đời của lí thuyết về diễn ngôn đã tạo ra một cách tiếp cận mới mẻ và cũng gây
không ít tranh cãi. Diễn ngôn đã trở thành một trong những điểm tựa cho khuynh
hướng nghiên cứu văn học và văn hoá, nó là khái niệm trung tâm của các khuynh
hướng nghiên cứu đương đại như chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa thuộc địa-
hậu thuộc địa, lí luận nữ quyền.
1.2. Foucault được coi là triết gia lớn của Pháp, đồng thời cũng là một
ngôi sao sáng trong nền triết học hiện đại thế giới. Tư tưởng của Foucault về
diễn ngôn hiện đang trở thành một nền tảng cho rất nhiều các trường phái lí
thuyết hiện đại và gợi mở một con đường đầy triển vọng cho các nhà lí luận văn
học cũng như văn học sử. Trong thế kỷ XX, Foucault có thể được coi là một
trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng bậc nhất.
1.3. Vấn đề giới cũng là một vấn đề phức tạp. Nghiên cứu về giới không
chỉ có ý nghĩa văn học mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay- giai đoạn đánh dấu nhiều sự chuyển biến của văn học Việt Nam.
Trong khuynh hướng “đổi mới” nói chung của văn học, có một xu thế vận động
hình thành ngày càng rõ nét ở văn thơ nữ, đó là ý thức về giới nữ. Bắt đầu từ văn
xuôi, một loạt các tác phẩm ra đời cất lên tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ, quyết liệt;
nhiều cây bút đã tiếp tục dồn sức phá vỡ hệ thẩm mĩ truyền thống, buộc người



2
đọc phải tiếp nhận với thái độ và lối tư duy khác, tiêu biểu như Phạm Thị Hoài,
Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban.
1.4. Y Ban là một trong những nhà văn nữ đầy bản lĩnh và táo bạo trong
việc xử lí những vấn đề của đời sống hiện đại, đặc biệt là vấn đề về giới. Tác
phẩm của chị là những diễn ngôn về giới, thẳng thắn, tự do đối thoại lại những
quan niệm cũ về cách nhìn các nhà văn nữ và các nhân vật nữ; thẳng thắn đề cập
đến sự thức tỉnh cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị sống…của chính
mình và giới mình trên diễn đàn văn học nghệ thuật.
Nhiều cuốn sách của chị khi mới ra đời đã thu hút được sự quan tâm của
độc giả và giới phê bình, kích thích được cảm hứng tranh luận trên văn đàn. Đã
có không ít cuộc phỏng vấn, những bài viết trên các báo, tạp chí, không ít cuộc
trao đổi trên các diễn đàn bàn về tác phẩm của Y Ban. Song, sự quan tâm ấy mới
chỉ nằm ở phạm vi những bài viết, những bài phỏng vấn rải rác trên các báo, tạp
chí, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập riêng tới vấn đề diễn ngôn giới
trong sáng tác của Y Ban.
Tất cả sự khó khăn và hấp dẫn này của đối tượng, câu thúc người viết lựa
chọn luận văn với đề tài: Diễn ngôn giới trong sáng tác của Y Ban (nhìn từ quan
niệm của Foucault).
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Các bài viết về phong cách sáng tác của Y Ban.
Y Ban xuất hiện nổi bật từ giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội
(1989- 1990) với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đoạt giải cuộc thi truyện ngắn, đến nay
chị vẫn là cây bút viết khỏe và là gương mặt nữ tiêu biểu trong lĩnh vực truyện
ngắn.
Nhận định về sáng tác của Y Ban, nhà nghiên cứu văn học Bùi Việt Thắng
trong bài Một giọng nữ trầm trong văn chương đã chỉ ra những cái được và chưa
được của truyện ngắn Y Ban. Về lối viết của cây bút này, ông nhấn mạnh: “Y
Ban có lối viết riêng của mình, chị chú ý khai thác nhiều tâm trạng điển hình của



3
nhân vật trong những tình huống tiêu biểu”. Cũng trong bài viết, ông khái quát:
“Truyện của Y Ban có thể được xếp vào dạng truyện tâm tình- không đặc sắc về
cốt truyện và tình tiết song lại có khả năng lắng đọng trong lòng người đọc bởi
chiều sâu tâm lí của tính cách, da diết của tình đời, tình người”[73]. Vẫn là của
tác giả Bùi Việt Thắng, bài viết Khi người ta trẻ in trên báo Văn nghệ số 43/1993
là tản mạn về truyện ngắn của nhiều cây bút trẻ: Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh, Nguyễn Thị Ấm…, Y Ban cũng là một nhà văn nhận được nhiều lời
ngợi khen từ tác giả: “Y Ban quan tâm đến yếu tố thời gian nghệ thuật nên truyện
của chị đậm chất chiêm nghiệm, triết lí”[74].
Báo cáo kết quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội, giám đốc nhà xuất bản
Hoàng Ngọc Hà đánh giá cao tác phẩm của chị: “Y Ban (giải B) lại có một lối kể
chuyện thật thản nhiên, không bình phẩm mà dẫn người đọc vào những suy tư và
tự xem lại cách sống của mình” [30].
Tại Hội thảo khoa học Mười truyện ngắn hay báo văn nghệ 1998 do
trường Đại Học Hồng Đức tổ chức, truyện ngắn Sau chớp là bão dông của Y Ban
được nhiều nhà giáo và sinh viên quan tâm đưa ra ý kiến đánh giá, trong đó giảng
viên Vũ Thị Oanh đã có những nhận định không chỉ dành riêng cho một tác phẩm
mà là cái nhìn rộng hơn về sáng tác của Y Ban: “Sáng tác của Y Ban không đặt ra
những vấn đề to tát, cũng không đại ngôn mà thường chỉ là những điều mắt nhìn
và trái tim suy nghĩ nhưng thường để lại những ám ảnh có lúc xa xót như những
nhát cứa, có lúc bồi hồi dịu ngọt. Đã gặp một lần- những người có trái tim nhạy
cảm không dễ mấy ai quên”[61]
Mới đây nhất, khi nhà xuất bản Phụ nữ cho xuất bản tiểu thuyết Xuân Từ
Chiều (tháng 6/2008), trên báo mạng cũng liên tục có những bài viết về tác phẩm
này. Chưa có bài viết đi sâu mà chủ yếu là những tóm tắt về số phận của ba nhân
vật và đều thống nhất ở những nhận định chung về nội dung cũng như lối viết của
nhà văn.

Trang www.evan.vnexpress có bài viết Xuân từ Chiều của Thanh Huyền.
Tác giả nói về người đàn bà ẩn sau câu chuyện “Xuân Từ Chiều câu chuyện về ba


4
người đàn bà bị trêu ngươi. Hình bóng thứ tư hoặc nhoè lẫn vào ba con người đó
là dáng dấp của Y Ban- người viết có khuôn mặt cười nhưng đã không ít bận nuốt
nước mắt vào trong những khi mải mốt đi tìm hạnh phúc”. Cuối bài viết tác giả
nhận định thêm về kết cấu của cuốn tiểu thuyết: “Truyện không có một cái cốt
chặt chẽ mà như một ghi chép lộn xộn, ngẫu hứng những lời kể của người trần
thuật. Nhà văn dường như cũng chỉ kể một cách tự nhiên mà không quan tâm đến
việc kiến tạo cho câu chuyện của mình một cấu trúc. Lối kể đó phù hợp với
những việc vặt vãnh trong nhà, ngoài phố, nhìn đến đâu kể đến đó. Và vì thế mà
tác phẩm cuốn hút”.
Xuân Từ Chiều- chua xót vì nỗi con người là tên bài viết của Trần Thanh
Hà được đẩy trên trang báo www.antd.vn, tác giả không đi sâu vào phân tích tác
phẩm mà có tính chất tóm tắt nội dung và nhận diện lối viết mới mẻ của Y Ban
“nhà văn Y Ban vốn chuyên viết về đàn bà, lần này chọn một cách viết rất đàn bà,
là lối kể chuyện vô cùng ngồi lê đôi mách. Chính bởi cách viết này, mà tất cả
những câu chuyện to nhỏ trong đời sống của người đàn bà đều được chuyển tải
một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn… Mới đọc tưởng đây chỉ là chuyện ngồi lê đôi
mách của đàn bà nhưng càng đọc càng thấy chau xót vì nỗi đàn bà, nỗi con người
trong thời đoạn chúng ta”[28].
Bài viết Xuân Từ Chiều- một lát cắt mới về cuộc sống người phụ nữ của
Minh Văn Chất cũng là lời giới thiệu về nội dung của cuốn sách kèm theo những
cảm nhận rất riêng: “Đọc Xuân Từ Chiều độc giả dường như nín thở, hồi hộp lo
lắng cho những nhân vật của tác phẩm, mạch tiểu thuyết diễn tiến nhanh, liên tục
như cuốn hút độc giả từ trang đầu đến trang cuối của tác phẩm. Với kết cấu liền
mạch (không chia đoạn) có vẻ như Y Ban đã lấy một hơi dài để kìm nén cảm xúc
lòng mình, để viết và chỉ thở hắt ra khi đã tuôn trào hết. Chính điều đó đã tạo nên

sự hụt hẫng, lắng đọng trong lòng độc gải khi đọc hết tác phẩm”[17].
2.2. Các bài viết về đề tài phụ nữ trong sáng tác của Y Ban
Báo Văn nghệ số 25/2003, đăng bài Y Ban và những thân phận đàn bà của
Xuân Cang: “Y Ban là một người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm và chị cảm nhận


5
được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người”, “Y Ban đã khám phá mọi
ngõ ngách tâm hồn người phụ nữ”, “ở mỗi người thường thấy biểu hiện những vẻ
đẹp của những người phụ nữ Việt Nam như đức hi sinh, lòng vị tha”[16].
Bùi Việt Thắng đánh giá: “nhân vật truyện ngắn Y Ban tuyệt đại đa số là
nữ, người nữ và những nỗi đau, sự vượt lên làm chủ số phận hoặc chí ít thoát
khỏi những trớ trêu, ám ảnh của cuộc đời”[73].
Nhà báo Thu Hương cho rằng: “Nhân vật nữ của Y Ban luôn ám ảnh người
đọc. Đó là những cô gái lỡ dại, những người đàn bà luôn khát khao sự dịu dàng,
mải mê tìm kiếm mẫu đàn ông lí tưởng. Bề ngoài họ tỏ ra gai góc, chấp nhận
cuộc sống, nhưng ẩn sau đó là những tâm hồn thèm muốn được nâng niu, chiều
chuộng”.
Nguyễn Thị Thu Hà- K8 lại băn khoăn về những thân phận đàn bà của Y
Ban: “Nhà văn Y Ban viết nhiều về phụ nữ nhưng sao đến Xuân Từ Chiều vẫn
còn những đau đáu khôn nguôi về những số kiếp con người. Đến bao giờ họ mới
thoát khỏi những bể khổ ấy, đến bao giờ mới không còn những tiếng kêu đau đớn
của người phụ nữ”[29].
Trên tinh thần của người viết trên, Nguyễn Đức Dương cũng bị lay động
và day dứt bởi “những chuyện rất đời” của Xuân Từ Chiều “cũng ám ảnh và dữ
dội không kém I am đàn bà, Xuân Từ Chiều là câu chuỵên về cuộc đời của những
người phụ nữ mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp khuôn mẫu trong xã hội… Hãy
đọc tác phẩm để thấy được một phần của mình trong đó”[18].
Mở đầu cho bài phỏng vấn của mình với nhà văn Y Ban, nhà báo Hà Linh
cũng có những cảm nhận riêng của mình về những tác phẩm “vẫn viết về phụ nữ,

cuốn tiểu thuyết mới của Y Ban là câu chuyện về ba người đàn bà bị tạo hoá trêu
ngươi. Tác phẩm mở ra không gian của một cái chợ đời, nơi nhân vật buôn
chuyện buồn số phận, những mong mua lấy chút nhân tình”[44].
Trong bài viết Đọc sách I am đàn bà, tác giả Phạm Hồ Thu đã có một khái
quát cho toàn tập truyện: “…Mỗi truyện là một câu chuyện thú vị hoặc là nói về
vẻ đẹp đàn bà, hoặc là nói về nỗi đau đớn đàn bà (…). Đó là bài ca bi lụy và ngạo


6
nghễ về thế giới đàn bà trong nỗi khát vọng đi tìm một xã hội hoàn hảo hơn để
mỗi người đàn bà đều xứng đáng là người của phái đẹp”[80].
Gần đây nhất là bài viết với tựa đề Đọc truyện ngắn Y Ban, Lê Thị Hương
Thủy đã có những khái quát cơ bản về đặc điểm trong những tác phẩm của Y Ban
trên nhiều khía cạnh: đó là “sự trở đi trở lại của những nhân vật nữ”, là “xu
hướng khai thác những xung đột bên trong”, là những không gian sáng trong tác
phẩm…Nhận định một cách chung nhất tác giả viết: “Đọc truyện ngắn Y Ban,
người đọc như bị ám ảnh không dứt về những thân phận, những cuộc đời qua
từng câu chuyện kể…ngòi bút của Y Ban đã khơi sâu vào mạch nguồn cảm xúc,
vào thế giới tâm linh của con người để rồi lại đem đến cho người đọc những cảm
nhận, những nỗi niềm trước từng cảnh ngộ”[81].
2.3. Các bài viết, trao đổi về vấn đề tình dục trong sáng tác của Y Ban
Trên trang www.phunicali.com- trang tạp chí của người Việt Nam ở nước
ngoài- có đưa bài viết khá công phu về Tình dục và văn chương nữ giới trong
nước. Bài viết thể hiện một cái nhìn khá cởi mở về vấn đề tình dục trong văn
chương. Nguyễn Mạnh Trinh đã tìm hiểu khá kỹ lưỡng về phản ứng của dư luận
trong nước đối với một số tác phẩm mang yếu tố sex mà tác giả là các nhà văn
nữ: Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Tre rừng
(Năm con Ngựa Trời), I am đàn bà (Y Ban). Mở đầu cho việc cảm nhận tác phẩm
của Y Ban đã giới thiệu: “Năm 2006 cuốn sách I am đàn bà của Y Ban là một
hiện tượng của văn học trong nước. Truyện của Y Ban cũng đậm đặc dâm tính và

chân dung của một người đàn bà được phác họa để mô tả bằng những nét đen tràn
ứ cảm giác”. Sau những đoạn phân tích về cuộc đời nhân vật, ông kết thúc bằng
một nhận xét đầy sự chia sẻ: “Người đàn bà – nhân vật của Y Ban, dù là cái Tí,
cái Thanh, Thị… của giới nghèo khổ cùng đinh, hay “Tôi” (Tự) của giới có học
đều giống nhau, đều có cái ham muốn tự nhiên của con người và lúc nào cũng
lửng lơ, phân đôi giữa cái muốn và cái ngăn cấm. Để rồi những lựa chọn chỉ là
bất đắc dĩ của một tâm trạng rất đàn bà…”[85].


7
Không chỉ có những lời khen, tác phẩm của Y Ban cũng nhận được những
phản hồi trái chiều rất mạnh mẽ từ phái bạn đọc. Từng câu, từng dòng trong email
anh Hoàng Thành Nam đã gửi cho ban biên tập website thơ trẻ- diễn đàn văn học
trẻ đã cho thấy thái độ vô cùng bàng hoàng và phẫn nộ của anh trước việc nhà
xuất bản Phụ nữ cho phát hành cuốn I am đàn bà: “Tôi không thể nghĩ rằng hiện
nay các nhà xuất bản lại có thể cho xuất bản những cuốn sách có nội dung phản
tác dụng như thế này…
1. Về góc độ ý nghĩa tích cực(…) những ý nghĩa tốt đẹp của câu chuyện
hay những bài học triết lí mà tác giả có thể mang lại cho người đọc cũng chỉ ở
mức độ nông cạn thiếu sâu sắc và tầm thường.
2. Về góc độ giải trí cuốn sách có thể mang lại cho người đọc sự giải trí,
nhưng sự giải trí ở đây gắn liền với vấn đề nhục dục. Nếu tách vấn đề nhục dục ra
khỏi nội dung câu chuyện thì vấn đề giải trí ở đây cũng chẳng còn gì…
3. Về góc độ thương mại (…) cuốn sách dạng này hiện nay ó nhiều và
tương đối bán chạy, khách hàng của những cuốn sách dạng này là các cô, cậu học
sinh đang ở độ tuổi tò mò còn với những người trưởng thành thì rất ít mua vả lại
họ có mua thì cũng ít ai đọc đến truyện thứ hai và chẳng ai khen…”[51].
Nếu như anh Hoàng Thành Nam phê phán tác phẩm trên phương diện nội
dung coi đó là một sản phẩm văn hoá thiếu lành mạnh, phản tác dụng thì bạn đọc
Trần Hiếu- một thành viên của diễn đàn văn hóa học lại đánh giá tác phẩm trên

phương diện đề tài: “Tình dục trong văn học nói chung, trong văn Y Ban nói
riêng không có gì xấu”, nhưng anh kết luận: “Tôi có cảm giác rằng đây cũng chỉ
là một phong trào giống như bao phong trào khác đang diễn ra trong xã hội Việt
Nam chứ nó không phải là một hiện tượng mới (tự thân tác giả thấy nhu cầu, cảm
hứng sáng tác), nói trắng ra là ăn theo”[59].
Cũng trên diễn đàn này, thống kê cho thấy có tới hơn hai mươi bài viết của
các thành viên trao đổi xung quanh chủ đề Yếu tố tình dục trong văn Y Ban từ góc
nhìn văn hóa. Đa số các ý kiến đều đánh giá cao tác phẩm có chứa Sex của Y
Ban. Xin trích dẫn một vài đoạn trong những bài đó để chứng minh:


8
Mĩ Linh: “Yếu tố tình dục, những câu chuyện tình dục của Y Ban miêu tả
cũng có thể hiện hữu trong mỗi người, chỉ có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt
đạo đức giả nên cho rằng nó xấu, hoặc lâu nay không quen nói ra. Cái lâu nay chỉ
nói riêng thì nay có người nói toang toang ra cho mọi người cùng nghe. Cái lâu
nay chỉ nói trong nhà thì nay có người nói giữa thanh thiên bạch nhật… Có thể
nói rằng, không có ít người ngày ngày chờ post lên để vào xem đọan tiếp theo, rồi
vợ chồng cùng bàn tán với nhau, nhưng ngày hôm sau trước mặt bàn dân thiên hạ
vẫn tỉnh queo mà chê bai, mà “eo ôi khiếp” (…). Nếu không chứng minh được nó
là xấu thì ta nên chứng minh nó có giá trị như thế nào? …Có giá trị là có văn
hóa”[59].
Ngọc Diệp: “Nhân vật của Y Ban, văn của Y Ban vẫn rất Nữ tính và đằng
sau tất cả có lòng yêu thương con người, ao ước vươn tới những cảm xúc xứng
đáng với con người”[59].
Đó là những nhận định chung về tập truyện I am đàn bà. Còn riêng về tác
phẩm Tự trong tập truyện này cũng có những nhận định rất sắc sảo: “Tự đã tạo
được một cái nhìn trực diện vào chủ đề tình dục, đặc biệt hơn là tình dục với phụ
nữ… Tình dục ở Tự tuy có phần bản năng nhưng không phản cảm vì phần lớn tác
giả đã chăm chút nó bằng những từ ngữ thanh hơn và quan trọng là bà đã không

tách rời nhu cầu tình dục của nhân vật với nhu cầu tình yêu, hướng suy nghĩ của
độc giả đến phần người của nhân vật”, “riêng ở mảng văn viết về tình dục này…
Y Ban mạnh mẽ, sôi nổi theo lối hiện đại, trực tính mang dáng dấp tình dục
phương Tây[59].
Có thể nói, trong những sáng tác của Y Ban, I am đàn bà là tập truyện gây
nhiều chú ý nhất của dư luận. Như đã thấy ở trên có rất nhiều bài viết, cách đánh
giá nhưng không phải lúc nào cũng thống nhất, thuận chiều. Tuy nhiên, xu hướng
chiếm ưu thế hơn vẫn là xu hướng nhìn nhận và bình luận về tác phẩm của Y Ban
một cách bình tĩnh, khách quan, tìm thấy ở đó nhiều tầng giá trị tốt đẹp. Phần ít
còn lại là những phê phán, xu hướng này khi phê phán về sự phản tác dụng,
không lành mạnh của tác phẩm, họ cũng đưa ra lập luận và lí lẽ của riêng họ. Nó


9
không phải là không có chỗ xác đáng, song thay vì họ phải đặt nó trong hệ thống
những sự kiện, sự việc khác để thấy được toàn bộ những giá trị tác phẩm thì họ
lại cô lập và nâng cao nó lên. Thành ra tác phẩm được hiểu một cách phiến diện,
chủ quan ở khía cạnh dung tục tầm thường.
Nhìn chung, những bài viết về sáng tác của Y Ban chủ yếu mới chỉ được in
trên các báo và các tạp chí, trên các trang diễn đàn và báo mạng, chưa thực sự
phong phú về số lượng và chưa sâu về mức độ khảo sát. Đa số các tác giả chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu, nhận diện tác giả mà chưa có
những nghiên cứu cụ thể các bình diện của tác phẩm. Nhưng đây thực sự là
những gợi ý giá trị cho luận văn của chúng tôi.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là diễn ngôn giới trong sáng tác của Y
Ban.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tiến hành
khảo sát những tác phẩm tiêu biểu của Y Ban ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết, tập trung chủ yếu vào những tác phẩm đã làm nên tên tuổi của nhà văn

như:
Truyện ngắn: Người đàn bà có ma lực, Đàn bà xấu thì không có quà,
Cưới chợ, I am đàn bà …
Tiểu thuyết: Xuân Từ Chiều.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trước hết, người viết tiến hành tìm hiểu quan niệm của Foucault về diễn
ngôn, trong đó tập trung vào phương diện cơ bản là diễn ngôn về giới. Tiếp đó,
chúng tôi ứng dụng lí thuyết của Foucault để soi chiếu, khảo sát trên sáng tác của
Y Ban, chỉ ra sự tồn tại song song và tương quan giữa diễn ngôn tính nam và diễn
ngôn tính nữ. Từ đó, khẳng định những đóng góp mới mẻ và táo bạo của Y Ban
cho văn xuôi Việt Nam đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu


10
Để tiếp cận đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp lịch sử: chúng tôi nghiên cứu vấn đề diễn ngôn về giới
như là một vấn đề xã hội có tính lịch sử được đặt ra ở Việt Nam từ thế kỷ XX.
- Phương pháp hệ thống: Hệ thống lại những luận điểm, những vấn đề đã
được đặt ra trong các công trình nghiên cứu về diễn ngôn, về vấn đề giới, về Y
Ban và tác phẩm của chị.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: qua so sánh đối tượng với những người
cùng thế hệ, với các cây bút nữ và nam, người viết định vị vai trò cách tân của Y
Ban trong diễn ngôn về giới. Sự so sánh kết hợp giữa các chiều đồng đại và lịch
đại.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Từ sự phân tích cụ thể tác phẩm,
người viết tổng hợp khái quát để có những kết luận, nhận định, tránh áp đặt chủ
quan không bám sát văn bản tác phẩm.
6. Đóng góp của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu theo tinh thần tổng quan vấn đề diễn

ngôn về giới trong sáng tác của Y Ban, từ hệ thống quan niệm đến việc áp dụng lí
thuyết của Foucault trong việc phân tích một hiện tượng văn học cụ thể.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên trong vấn đề diễn ngôn giới trong
sáng tác của Y Ban.
7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung của luận
văn được triển khai theo 4 chương:
Chương 1. Quan niệm của Foucault về diễn ngôn.
Chương 2. Cấu trúc diễn ngôn “giới” trong sáng tác Y Ban.
Chương 3. Tính nữ trong sáng tác Y Ban- giải phóng quyền lực nam
và khẳng định thiên tính.




11






PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM CỦA FOUCAUL VỀ DIỄN NGÔN
1.1. Những cách tiếp cận cơ bản khái niệm diễn ngôn.
Thuật ngữ diễn ngôn là một thuật ngữ phức tạp bậc nhất bởi nó có một
lịch sử lâu dài, lại được sử dụng trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Chính vì
thế, khó có thể có một định nghĩa duy nhất về thuật ngữ này. Trong lịch sử
nghiên cứu diễn ngôn, có thể nói, có ba cách tiếp cận cơ bản về khái niệm này:
quan điểm của các nhà cấu trúc chủ nghĩa như R.Barthes, G.Gennette, dựa trên

nền tảng là ngôn ngữ học của Saussure cho diễn ngôn là cấu trúc văn bản; quan
điểm của nhà triết học, lí luận văn học M.Bakhin cho diễn ngôn là các thể loại
lời nói, và tư tưởng của Foucault với ba định nghĩa về diễn ngôn. Trong đó, tư
tưởng của Foucault về diễn ngôn hiện đang trở thành một nền tảng cho rất nhiều
các trường phái lí thuyết hiện đại và gợi mở một con đường đầy triển vọng cho
các nhà lí luận văn học cũng như văn học sử.
1.1.1. Diễn ngôn như là cấu trúc văn bản.
1.1.1.1. Cơ sở lí luận
Những luận điểm của F.de Saussure trong Ngôn ngữ học đại cương đã đặt
nền móng cho khuynh hướng nghiên cứu cấu trúc văn bản, một khuynh hướng
phát triển rầm rộ vào những năm 1960, 1970 ở châu Âu và Liên Xô. Ngôn ngữ
học đại cương ra đời đánh dấu một bước ngoặt trong nghiên cứu ngôn ngữ:
chuyển từ nghiên cứu sự biến đổi của ngôn ngữ qua các thế hệ sang nghiên cứu
bản chất của ngôn ngữ. Saussure phân biệt lời nói và ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một
hệ thống, một kết cấu tinh thần trừu tượng, khái quát, trong khi lời nói là sự vận


12
dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá nhân cụ thể. Ngôn ngữ
là bản thể xã hội, thuộc về cộng đồng trong khi lời nói thuộc về cá nhân. Ngôn
ngữ là những cấu trúc tiên nghiệm và bất biến trong khi lời nói là bình diện sinh
thành. Ông chỉ ra đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, sản phẩm
của xã hội kết đọng lại trong óc mỗi người chứ không phải là lời nói.

1.1.1.2. Diễn ngôn như là cấu trúc văn bản
Vào những năm 1960, ngôn ngữ học của Saussure và chủ nghĩa cấu trúc
của Bloomfield đã phát triển đến giai đoạn cực thịnh. Lúc này, người ta cảm thấy
sự chật chội và hạn hẹp của ngôn ngữ học lấy câu làm đơn vị lớn nhất để đề xuất
nghiên cứu đơn vị ngôn ngữ lớn hơn câu. Từ đây, nghiên cứu văn bản trở thành
một khuynh hướng nghiên cứu phát triển hết sức rầm rộ. Văn bản được coi như

sự nối dài của câu và người ta dùng những công cụ phân tích cấu trúc câu để
phân tích văn bản. Trong giai đoạn này, khái niệm diễn ngôn và văn bản gần như
chưa có sự phân biệt rõ ràng. Diễn ngôn có thể được coi như một đơn vị cấu trúc
văn bản. Và khi nghiên cứu văn bản, người ta không quan tâm đến phương diện
sinh thành, ngữ cảnh cụ thể, tính chất cá thể của nó, mà chỉ nghiên cứu cấu trúc
tĩnh tại, bất biến của nó mà thôi. Tư tưởng này đã loại trừ tất cả thuộc tính ngẫu
nhiên, cá thể của lời nói, chỉ chú ý đến phương diện ổn định, bất biến của ngôn
ngữ như một bản thể xã hội. Sự phân định không rạch ròi giữa diễn ngôn và văn
bản có thể thấy trong việc sử dụng chồng chéo, lẫn lộn giữa hai thuật ngữ
discourse và text. Trong Giới thiệu về tự sự học, M.Bal sử dụng hai khái niệm
discourse và text để chỉ cùng một bản chất: sự tổ chức các yếu tố văn bản ngôn
từ.
Trong cuốn Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể, Roland Barthes có
tham vọng khái quát sự đa dạng, muôn hình vạn trạng của các thể loại tự sự của
các nền văn hoá, các lớp người, các nhóm xã hội, “thâu tóm số lượng khổng lồ
của các câu chuyện bằng cách mô tả thứ ngôn ngữ sản sinh ra chúng”, giống như
Saussure trước hiện tượng nhiều dạng của hoạt động lời nói, ông chỉ ra nguyên


13
tắc để phân loại và cơ sở để mô tả chúng. Ông nhìn thấy những “hệ thống ẩn của
các đơn vị cơ sở và qui tắc liên kết chúng lại”, đi tìm cấu trúc của các văn bản tự
sự. “Ngay bản thân ngôn bản như một tập hợp các câu được tổ chức theo một thể
thức xác định và là một thông báo được xây dựng theo các qui tắc ngôn ngữ theo
một cấp bậc cao chứ không phải là thứ mà các nhà ngôn ngữ nghiên cứu”. Theo
quan điểm này, ngôn bản chính là một câu lớn mà thành tố cấu thành của nó
không nhất thiết phải là câu, còn câu cùng với những đặc thù của nó là một ngôn
bản nhỏ.
Như vậy, hoàn toàn hợp lí khi cho rằng giữa câu và ngôn bản tồn tại các
mối quan hệ thứ cấp mà ta gọi là các quan hệ đồng đẳng khi lưu ý đến mặt hình

thức của chúng. Bất cứ văn bản tự sự nào cũng đều được xây dựng theo một mô
hình câu mặc dù nó không phải là một tổng thể của các câu, bất cứ một truyện
nào cũng là một câu lớn, và câu kể chính là sự tỉnh lược của một truyện nhỏ.
Trong văn bản tự sự có thể tìm thấy sự hiện diện của các phạm trù cơ bản như
thời, dạng, thể, ngôi. Hơn nữa, ngay cả các chủ thể lẫn cụm chủ vị trong văn bản
tự sự cũng đều tuân thủ các qui tắc cấu tạo câu. Ngôn ngữ luôn song hành với
ngôn bản khắp mọi nơi, luôn giơ ra chiếc gương cho ngôn bản soi vào cấu trúc
của mình.
Trong Diễn ngôn tự sự của G.Gennette, tác giả đã phân chia diễn ngôn tự
sự thành các phạm trù thời, thức và giọng. Trong đó, thời và thức nằm ở cấp độ
mối quan hệ giữa câu chuyện và diễn ngôn tự sự, giọng chỉ ra mối quan hệ giữa
hoạt động kể và diễn ngôn tự sự, giữa hoạt động kể và câu chuyện.
1.1.2. Diễn ngôn như là các thể loại lời nói.
1.1.2.1. Cơ sở lí luận
Nếu như Saussure đối lập ngôn ngữ và lời nói, chỉ nghiên cứu ngôn ngữ vì
cho rằng lời nói là phù du, chỉ nghiên cứu phương diện cấu trúc của ngôn ngữ thì
M.Bakhtin nghiên cứu phương diện sinh thành của lời nói. Ông cho rằng: ngôn
ngữ là những gì đang được sử dụng trong cuộc sống chứ không phải trong từ
điển. Ngôn ngữ là một dòng chảy không ngừng nghỉ, nó đang sinh thành năng


14
động và đầy mâu thuẫn, nó cố gắng miêu tả những thực tại phức hợp trong đời
sống của ngôn từ- tư tưởng hệ. Trong Vấn đề các thể loại lời nói- Bài luận đề
cập đến một chủ đề mà Bakhtin dự định viết thành một cuốn sách, ông đã phân
biệt ngôn ngữ và các lời nói hàng ngày. Ông cho rằng các thể loại không tồn tại
một cách thuần khiết trong ngôn ngữ mà đúng hơn là nó tồn tại trong giao tiếp.
Trong truyền thống, có những thể loại lời nói ngoài xã hội vẫn chưa được khám
phá.
Bakhtin cho rằng, ngôn ngữ một dân tộc thống nhất được chồng chất vào

rất nhiều ngôn ngữ xã hội khác, tương ứng với sự đa tầng của xã hội.
Trong khi Saussure quy ngôn ngữ vào mối quan hệ chính giữa cái biểu đạt
và cái được biểu đạt, thì Bakhtin cho rằng bản chất của ngôn ngữ là đối thoại.
ông cho rằng mọi lời nói đều là những phản hồi với những lời nói trước đó, và
đều nhằm tới những đối tượng nhất định.
1.1.2.2. Diễn ngôn như là các thể loại lời nói
Diễn ngôn là khái niệm trung tâm của Bakhtin trong quan điểm về ngôn
ngữ. Ông cho rằng diễn ngôn là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động cụ thể của
nó, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối cảnh xã hội, diễn ngôn của những giọng
xã hội mâu thuẫn, đa tầng, ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện thế giới quan của
người nói, ngôn từ- tư tưởng hệ của người nói. Điều này làm cho mỗi từ đều diễn
tả một cái gì đó trong quan hệ với một cái gì đó khác. Nói cách khác, lời nói là
lãnh thổ chung của cả người nói, người nghe, là khu vực tiếp xúc giữa ta và
người. Chính vì thế, không thể nghiên cứu ngôn ngữ một cách cô lập mà cần
phải nghiên cứu nó trong mối quan hệ với những lời nói khác, trong mối quan hệ
với người nghe, người nói.
Trong khi Saussure muốn hướng tới tính chất trừu tượng và khách quan
của ngôn ngữ, Bakhtin nghiên cứu ngôn ngữ- tư tưởng hệ. Cụm từ mà ông
thường sử dụng là verbal-ideology (lời nói- tư tưởng hệ).
M. Bakhtin cho rằng diễn ngôn là các thể loại lời nói. Tất nhiên, mỗi phát
ngôn riêng biệt đều mang tính cá thể, song từng phạm vi mà ở đó ngôn ngữ


15
thường phát triển các phong cách tương đối ổn định của mình. Những phát ngôn
như thế chúng ta gọi là thể loại diễn ngôn. Những thể loại diễn ngôn sơ khởi này
trở thành nền tảng cho mọi thể loại diễn ngôn sau đó như ngôn ngữ nghệ thuật,
văn chương, hành vi xã hội và khoa học.
Bakhtin lập luận, các thể loại hàm ẩn trong diễn ngôn về cuộc sống hàng
ngày, người ta có thể thay đổi chúng, song người ta không thể thay đổi mà không

có chúng, và nếu các thể loại được tạo ra bởi các quan hệ xã hội trong một xã hội
hoặc không phải chân lí một cách vô điều kiện hoặc không đủ trình độ là một cái
gì đó, chúng vẫn là một bộ phận đương nhiên của nó. Sau hết, chính các cơ cấu
xã hội, thể chế, luật pháp, các phán quyết toà án không mang tính thể loại?
Trong khi Saussure chỉ tập trung vào những quy ước và quy luật trừu
tượng và chung nhất của ngôn ngữ, Bakhtin lại tin không có ngôn ngữ nào lại
không gắn liền với một quan điểm, một ngữ cảnh, một đối tượng nhất định. Theo
ông, ngôn ngữ là những gì đang được sử dụng trong cuộc sống chứ không phải
trong từ điển. Trong khi Saussure chỉ tập trung vào khía cạnh đồng đại của ngôn
ngữ, Bakhtin lại quan niệm không có bất cứ một thời điểm nào ở đó ngôn ngữ
không chịu áp lực mang tính lịch đại, với ông, ngôn ngữ là một dòng chảy không
ngừng nghỉ. Trong khi Saussure lược qui ngôn ngữ vào mối quan hệ chính giữa
cái biểu đạt và cái được biểu đạt, Bakhtin lại cho mối quan hệ ấy vô cùng đa
dạng và phức tạp, không một ý niệm nào lại không là nơi giao thoa giữa các
quan điểm, các khuynh hướng, các ý niệm khác nhau. Trong khi Saussure cho
bản chất của ngôn ngữ nằm ở sự khác biệt, Bakhtin lại cho rằng bản chất của
ngôn ngữ là tính đối thoại. Ông cho mọi lời nói đều là những phản hồi đối với
những lời nói trước đó và đều nhằm tới những đối tượng nhất định. Nói theo lời
của Bakhtin, nó là lãnh thổ chung của cả người nói lẫn người nghe, là cầu nối
giữa ta và người, là một nửa của người khác.
1.2. Quan niệm của Foucault về diễn ngôn
1.2.1. Cơ sở lí luận


16
Trong Trật tự từ và vật, Foucault cho rằng, chúng ta không thể chạm tay
vào vật, mà phải qua từ mới tới được vật. Từ là một thứ màn ngăn cách, là một
thứ trung gian có quá nhiều sức mạnh, khó có thể vượt qua. Lịch sử không phải
là lịch sử như nó vốn có, mà là lịch sử được nhìn qua lăng kính ngôn ngữ. Quan
điểm này đối lập với quan điểm của Saussure. Saussure nhấn mạnh bản chất

thống nhất, liên thông giữa từ và vật. Foucault nhìn thấy sự không thống nhất
giữa từ và vật, sự chiến thắng và thống trị của từ trong đời sống con người. Ông
cho rằng thực tại được cấu thành từ các diễn ngôn.
1.2.2. Quan niệm của Foucault về diễn ngôn
1.2.2.1. Các cách định nghĩa diễn ngôn
Foucault nói: “Thay vì giảm dần các nét nghĩa đã khá mơ hồ của từ diễn
ngôn, tôi tin rằng thực tế tôi đã bổ sung thêm ý nghĩa của nó: lúc thì coi nó như
một khu vực chung của tất cả các lời nhận định, lúc thì coi nó như một nhóm các
lời nhận định được cá thể hoá, và đôi khi lại xem nó như thực tiễn được quy ước
tạo nên vô số các nhận định”
Như vậy, theo ông, có ba cách định nghĩa diễn ngôn. Thứ nhất, diễn ngôn
là các lời nhận định nói chung, hay nói cách khác là nhóm các phát ngôn có
chung một hiệu lực nào đó. Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các lời nói cụ thể có
chung một hiệu lực (diễn ngôn nữ giới, diễn ngôn chủ nghĩa thuộc địa). Thứ ba,
diễn ngôn là một thực tế được quy ước tạo nên vô số các nhận định, là các quy
tắc và cấu trúc tạo ra những phát ngôn và văn bản cụ thể, hay nói cách khác, nó
là một mạng lưới các thực tiễn được định hình bởi những cơ chế nội tại của diễn
ngôn và mối quan hệ giữa các diễn ngôn. Chính vì thế, nghiên cứu diễn ngôn
chính là nghiên cứu các cấu trúc và các quy luật của diễn ngôn này.
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa diễn ngôn và cái thực.
Foucault nói: “Chúng ta chỉ có thể tiếp cận với các diễn ngôn xác định
những hình dung của chúng ta về cái thực”. Điều đó có nghĩa là chúng ta không
thể chạm tay vào cái thực, mà giữa chúng ta và cái thực, luôn có một bức tường
ngăn cách, đó là các diễn ngôn. Ông lấy ví dụ, một sự kiện xảy ra như một trận


17
động đất chẳng hạn, suốt thời kỳ cổ trung đại, người ta gán cho nó ý nghĩa: sự
nổi giận của thần linh. Nhưng đến thế kỷ XIX, XX, khi khoa học phát triển thì sự
kiện này được giải thích: đó là hiện tượng tự nhiên. Như vậy, ngay cả những văn

bản ghi chép cái có thực, những văn bản lịch sử…cũng chỉ là những diễn ngôn
về sự thực chứ không phải là sự thực đúng như nó vốn có. Người ta không thể
chạm tay vào sự thực không thể phân biệt được đâu là sự thực và đâu là hư cấu,
bởi cái mà chúng ta có trong tay chỉ là diễn ngôn về sự thực mà thôi. Điều này
gợi ý cho chúng tôi liên tưởng đến một hiện tượng đặc biệt và thú vị trong văn
học. Trong kí trung đại Việt Nam, mở đầu tác phẩm và trong các lời tự, bạt, các
tác giả thường tuyên bố: tác phẩm nhằm mục đích ghi chép những sự việc có
thật, mắt thấy tai nghe của đời sống thực. Nhưng thực tế, trong tác phẩm lại tràn
ngập yếu tố kỳ ảo: chuyện khi xây chùa, dựng tháp, người dân nhìn thấy tượng
Phật toả ánh hào quang, chuyện ngày vua ra đời thì ánh hào quang toả rạng khắp
nơi, mây ngũ sắc bao phủ bầu trời, chuyện người đội lốt thú, chuyện giếng tự
nhiên nước sôi, chuyện việc tai dị báo sự chẳng lành, chuyện nhờ âm phù dương
trợ mà lập nên nghiệp lớn, chuyện được thần linh báo mộng…(trong Vũ trung
tuỳ bút, Công dư tiệp kí). Như vậy, sự thực mà các tác giả miêu tả là những diễn
ngôn về sự thực. Trong đó, ẩn dưới bề sâu của nó là những ý thức hệ, những
quyền lực, những khung tri thức, tư tưởng hệ đã chi phối cách tư duy và miêu tả
của nhà văn về sự thực chứ không phải là sự thực như nó vốn có. Thời Trung
đại, tôn giáo, đạo đức đã tạo thành một khung tri thức giúp cho con người nhìn
nhận và lí giải các hiện tượng tự nhiên và xã hội và chi phối cách tái hiện hiện
thực của các nhà văn.
Như vậy, các diễn ngôn đã cấu trúc nên cảm quan của chúng ta về thực
tại. Hay nói cách khác, cái thực được kiến tạo nhờ áp lực của diễn ngôn. Đồng
thời, nó cũng tác động trở lại đối với hành vi và suy nghĩ của con người. Cách
duy nhất mà ta có thể lĩnh hội được thực tại là thông qua các diễn ngôn và cấu
trúc của diễn ngôn.
1.2.2.3. Cấu trúc tạo lập và vận hành diễn ngôn.


18
Foucault cho rằng diễn ngôn được tạo thành bởi các cấu trúc sau:

Thứ nhất là tri thức hệ: Tri thức hệ là nền tảng của tư tưởng mà trên đó,
tại một thời điểm cụ thể, một nhận định này mà không phải một nhận định khác
được coi là tri thức. Tri thức hệ có vai trò chọn lọc và loại bỏ cái gì được coi là
tri thức, cái gì không được coi là tri thức. Foucault cho rằng có những sự đứt gãy
của tri thức hệ, nghĩa là, ở những thời điểm nào đó trong một nền văn hoá, có
những sự phát triển gián đoạn trong các cấu trúc diễn ngôn, khiến cho đối với
người ở thời Victoria, sự biểu hiện thực tại bằng hình thức bảng biểu có vẻ như
là hoàn toàn bình thường, trong khi đến thế kỷ XX, phương pháp biểu hiện này
có vẻ như là bất bình thường. Một ví dụ xa hơn mà Foucault đưa ra để minh hoạ
là ý nghĩa được gán cho các sự kiện trong mối quan hệ với một trật tự thần
thánh. Ở châu Âu thời hiện đại sơ kỳ, một trận bão được giải thích một cách thần
thánh, siêu nhiên (có thể là một điềm gở hoặc một dấu hiệu thể hiện sự tức giận
của thần thánh), đến thời hiện đại, bão được coi là một hiện tượng tự nhiên Sự
biến đổi của lịch sử tri thức không đơn thuần chỉ là sự biến đổi hướng đến tiến
bộ mà chỉ đơn giản là sự chuyển từ hệ tri thức này sang hệ tri thức khác.
Thứ hai là các nhận định: Các nhận định có vai trò là đơn vị cấu thành
nên diễn ngôn. Nhận định là những phát ngôn có một hiệu lực thiết chế nào đó,
được hiệu lực hoá bằng một hình thức quyền uy nào đó. Và hiệu lực thiết chế,
quyền uy bên trong, đứng sau nhận định mới chính là cái khiến cho nhận định đó
có được chấp nhận hay không.
Thứ ba là các diễn ngôn: Các diễn ngôn là tập hợp các nhận định được
phê chuẩn, là nhóm các nhận định có một hiệu lực giống nhau được nhóm lại với
nhau bởi một áp lực định chế nào đó. Điều này gợi ý cho chúng tôi liên tưởng
đến diễn ngôn về phẩm chất của người phụ nữ trong văn học Nho gia. Trong các
diễn ngôn này, người ta thường đề cao những phẩm chất của người phụ nữ như
là khiêm cung, chịu đựng, phụ thuộc (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử), công dung ngôn hạnh… Nàng Vũ Nương trong truyện “Người con gái
Nam Xương” khi bị chồng ghen tuông vô lí, không có cách nào thanh minh, chỉ



19
có con đường chết. Tất cả các cô gái đẹp trong Kim Bình Mai đều dễ dàng ngả
vào vòng tay của Tây Môn Khánh mà không có bất cứ một sự kháng cự nào…
Tất cả những diễn ngôn về phẩm chất người phụ nữ này đều đươc tập hợp quanh
một áp lực định chế: đó là quyền lực của người đàn ông. Chính thiết chế của một
xã hội phong kiến nam quyền đã đẻ ra những diễn ngôn như thế.
Thứ tư là thư khố: Thư khố là tập hợp các diễn ngôn nhằm giới hạn cái gì
được nói, đáng để biết và nhớ.
Thứ năm là sự loại trừ bên trong diễn ngôn: Sự loại trừ bên trong diễn
ngôn là các phương thức loại trừ nhằm giới hạn cái được nói và cái được coi là
tri thức. Sự loại trừ, về bản chất, thật nghịch lí, lại là một trong những cách quan
trọng nhất để tạo ra diễn ngôn. Có nhiều phương thức loại trừ:
Phương thức loại trừ thứ nhất là “cấm đoán”, “kiêng kị”: có những chủ đề
rất khó có thể bàn luận trong xã hội Việt Nam như tình dục, vấn đề nạo hút thai
ở trẻ vị thành niên Đó đơn giản chỉ là một giới hạn diễn ngôn và thiết chế trở
thành thói quen trong những nền văn hoá cụ thể ở những thời kỳ nhất định. Khi
một chủ đề bị cấm, tình trạng đó bắt đầu trở thành hiển nhiên.
Phương thức loại trừ thứ hai là “Vị thế của chủ thể phát ngôn” (chỉ lời nói
của người bình thường mới được chấp nhận, còn lời nói của người điên bị gạt ra
ngoài lề).
Phương thức loại trừ thứ ba là “ý chí đoạt sự thật”: Đó là một ý chí áp đặt
lên chủ thể nhận thức, bằng một hình thức cảm quan có trước các kinh nghiệm,
một lập trường, một cái nhìn… Ý chí này quyết định cái gì được coi là đúng, cái
gì bị coi là sai, cái gì được coi là hay, cái gì bị coi là dở. Điều này gợi ý cho
chúng tôi liên tưởng đến một hiện tượng đặc biệt và thú vị trong sáng tác Y Ban:
chẳng hạn, trước một hiện tượng hai vợ chồng cùng xem phim sex, Y Ban lại
nhìn thấy sự đối lập nhau như sau: Lúc đầu, cả hai, nhất là người chồng hứng thú
nhập cuộc và thước phim ấy quả có tác dụng thăng hoa đời sống vợ chồng. Khi
ấy, cả hai thấy đó là những thước phim hấp dẫn. Nhưng sau đó, vì anh chồng bất
lực trước vợ nên đã nổi điên và gọi đó là “phim tục tĩu”. Ý chí đoạt sự thật này



20
xuất phát từ quan niệm của đạo đức truyền thống, nó hòng che đi nỗi xấu hổ vì
sự bất lực của anh ta. Nó chối bỏ cùng một lúc hai sự thật: (1) phim sex không
hẳn lúc nào cũng tục tĩu; (2) anh ta không làm được những điều anh ta
muốn/cần. Kết quả là anh ta tung ra một sự thật mang tính áp đặt: phim tục tĩu.
Bên cạnh các phương thức loại trừ, Foucault còn lưu ý đến sự kiến tạo các
diễn ngôn cũng có những cơ chế bên trong và bên ngoài, để duy trì sự tồn tại của
các diễn ngôn. Một trong những cơ chế lưu thông của diễn ngôn là bình luận.
Những diễn ngôn nhận được sự bình luận của các diễn ngôn khác được coi là
những diễn ngôn có hiệu lực và giá trị: “chúng ta có thể ngờ vực rằng trong mọi
xã hội, với một sự kiên định cao độ, có một sự thay đổi từ trạng thái này sang
trạng thái kia của các diễn ngôn: giữa những diễn ngôn được nói trong những
trao đổi ngày thường và biến mất ngay khi chúng vừa được nói ra và những diễn
ngôn làm nảy sinh một số hành động ngôn từ mới sử dụng chúng, biến đổi chúng
hay nói về chúng, nói tóm lại, đó là những diễn ngôn, vượt qua công thức của
chúng, được nói không ngừng, chúng vẫn đang được nói và sẽ còn được nói liên
tục”.
Có thể xem Kinh Thánh là một văn bản thuộc loại này, một văn bản mà đã
có và tiếp tục còn có những lời bình luận về chúng; theo một nghĩa nào đó,
những bình luận này duy trì sự tồn tại của Kinh Thánh, đảm bảo cho việc nó
được lưu thông như một thứ tri thức hợp thức. Sự bình luận gán cho văn bản sự
giàu có, sự dầy đặn và sự vĩnh cửu. Nhưng đó không phải là một hành động hoàn
toàn vô ngã: “Vai trò của bình luận rốt cuộc, là để nói ra cái được hình thành
âm thầm “bên ngoài” văn bản. Bằng một nghịch lí mà nó luôn muốn loại bỏ
nhưng không bao giờ thoát khỏi, bình luận bao giờ cũng phải là tiếng nói đầu
tiên về cái mà trớ trêu thay thực ra đã được nói rồi và phải lặp đi lặp lại không
biết mệt cái thực ra lại chưa từng được nói”.
Điều này gợi nhớ đến một trong những hình thái chiến lược được các nhà

phê bình văn học quy phạm hơn khi họ cố gắng tạo nên cái gọi là ý nghĩa “đúng”
của một văn bản văn chương. Các nhà phê bình mới chẳng hạn, cảm thấy họ phải


21
đưa ra được một cách diễn giải văn bản văn chương mới, tốt hơn, toàn diện hơn,
trong khi lại cho rằng ý nghĩa này đã nằm sẵn trong văn bản, chờ đợi được khám
phá bởi một độc giả có kỹ năng đặc biệt hay một nhà phê bình. Theo Foucault,
quá trình phát hiện ý nghĩa “thực sự” của văn bản đơn thuần là một thực hành
mang tính ảo tưởng để đảm bảo cho chu trình của văn bản được vận hành.
Cái quá trình đảm bảo cho chu trình của văn bản được vận hành bằng sự
bình luận về nó đặc biệt quan trọng khi chúng ta xem xét hoạt động phê bình văn
chương trong phạm vi nhà trường các cấp. Phê bình đối với các lí thuyết gia,
không đơn thuần chỉ là một hành vi nghiên cứu mà như các lí thuyết gia nữ
quyền đã chỉ ra, nó tạo ra một hiệu ứng mà dựa vào đó, văn bản nào được đánh
giá là có đáng xuất bản hay không, văn bản nào đáng được tái bản. Các nhà
nghiên cứu văn học nhận thức rằng người ta khẳng định địa vị của mình bằng sự
làm việc với những văn bản văn chương được thẩm định: đó là những văn bản
được xem là điển phạm mẫu mực và/hoặc những công trình lí thuyết phức tạp.
Chính bởi khuynh hướng làm việc với những văn bản điển phạm mà những văn
bản bị loại khỏi điển phạm được coi là không đáng phân tích. Vì thế, các nhà phê
bình nữ quyền luận những năm 1960 không chỉ gặp khó khăn trong việc tiếp cận
những văn bản đầu tiên của phụ nữ mà còn trong việc hợp thức hoá một nghiên
cứu như thế. Các văn bản phi điển phạm thường không được tái bản, và do đó,
sinh viên hay các nhà nghiên cứu khó có điều kiện tiếp xúc, các giảng viên thì
bất đắc dĩ lắm mới đưa chúng vào thư mục sách cần đọc. Do đó, bình luận đóng
vai trò không phải chỉ như một đảm bảo để những văn bản nào đó sẽ luôn được
in ra, luôn được giảng dạy trong các thiết chế giáo dục, luôn được các nhà
nghiên cứu quan tâm đến, nó còn khiến cho việc phân tích văn bản hầu như
không mấy ai viết về chúng rất khó được hợp thức.

Những nghi thức khống chế số người có thể nói một số kiểu diễn ngôn, ví
dụ, ở nhà trường chỉ có thầy giáo mới có quyền phát ngôn về giáo dục, ở toà án
chỉ có thẩm phán mới có quyền tuyên án.


22
Quan niệm của Foucault về tác giả cũng rất quan trọng đối với việc phân
tích các cấu trúc của diễn ngôn, vì tác giả đã thôi không phải là người duyệt
nghĩa của văn bản nữa mà trở thành một hình thức tổ chức một nhóm văn bản.
Tác giả không còn là “một cá nhân cất lời, người nói hay viết một văn bản, mà là
một nguyên tắc để nhóm các văn bản riêng rẽ với nhau”.
Tất cả những cấu trúc trên là những cấu trúc bên trong tạo lập nên diễn
ngôn và những cấu trúc bên ngoài cho phép diễn ngôn nào được tồn tại, được lưu
hành.
Chúng tôi vận dụng ý này để triển khai chương 2 của luận văn: “Cấu trúc
diễn ngôn “giới” trong sáng tác của Y Ban”.
1.2.2.4. Mối quan hệ giữa diễn ngôn và quyền lực
Foucault cho rằng Quyền lực là thứ đằng sau chi phối diễn ngôn, ngoài
thứ quyền lực từ bên trên, còn có một thứ quyền lực từ bên dưới, một thứ quyền
lực năng sản và phát tán rải rác trong xã hội, có mặt ở bất cứ nơi đâu. Đó là một
thứ quyền lực vô hình chi phối toàn bộ đời sống của con người. Foucault lấy ví
dụ: kiến trúc nhà tù có một thứ quyền lực vô hình, khiến cho mỗi tù nhân đều
cảm thấy anh ta bị giám sát. Foucault cũng cho rằng ở đâu có quyền lực, ở đó có
đấu tranh. Không có quyền lực nào giản đơn là sự cai trị mà luôn có sự thách
thức, đối kháng lại sự cai trị đó. Quan điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến lí
thuyết hậu thực dân và lí thuyết nữ quyền. Foucault nhận thấy quyền lực đối
kháng từ bên dưới. Ông phân tích ví dụ về cuộc đối thoại giữa ông chủ và thư
ký. Ông chủ có quyền ra lệnh nhưng cũng phải lựa lời để làm vừa lòng nhân
viên, thư kí buộc phải tuân lệnh, nhưng vẫn có sự kháng cự. Như vậy, quyền lực
không đồng nhất với quan hệ kinh tế, địa vị xã hội.

Chúng tôi vận dụng ý này để triển khai chương 3 của luận văn: “Tính nữ
trong sáng tác Y Ban- giải quyền lực nam và khẳng định thiên tính”.
Những tư tưởng của Foucault về diễn ngôn chính là nền tảng để suy nghĩ
đến vấn đề: có một lịch sử văn học khác ngoài lịch sử văn học vẫn được thừa
nhận một cách chính thống như hiện nay. Đó là lịch sử của những hiện tượng


23
văn học đã bị loại trừ ra khỏi những trang sách của các nhà nghiên cứu văn học
sử. Việc khôi phục lại lịch sử văn học của cái đã bị loại trừ ấy cũng khiến cho
người ta hiểu về văn học và văn hoá nhân loại không kém gì con đường nghiên
cứu văn học chính thống.




























24


Chương 2:
CẤU TRÚC DIỄN NGÔN GIỚI TRONG SÁNG TÁC Y BAN
2.1. Sự xung đột của các cơ chế quyền lực “giới” trong bối cảnh văn hóa và
văn học đương đại.
2.1.1. Diễn ngôn nam quyền- quyền lực từ bên trên.
Trong Kinh Thánh, đàn bà được sinh ra từ xương sườn đàn ông, vì thế, trở
thành kẻ phái sinh, kẻ phụ tá trong cuộc đời của đàn ông. Khi đối diện với đàn
ông, đàn bà được gọi là đàn bà chứ không được gọi là con người. Điều đó chứa
đựng một quan niệm đàn bà là thứ cấp tự nó không hoàn chỉnh. Aristotle cho
rằng đàn bà chỉ là vật chất, phát triển một cách hỗn loạn, bừa bãi, nếu không có
đàn ông, nhờ những hạt giống của họ, đem đến cho các vật chất này hình thái và
mặt mũi. Và thánh Thomas về phần mình đã tuyên bố phụ nữ là một “người đàn
ông không hoàn chỉnh”, một sinh vật “phụ”.
Chính vì là kẻ phụ tá nên đàn bà luôn ở thế lệ thuộc, phục tùng đàn ông.
Các tôn giáo tập trung vào sự thờ phụng Chúa có hình tượng đàn ông (male God)
làm cho tâm trạng và hành động của phụ nữ bị giữ lại trong trạng thái lệ thuộc
vào đàn ông, đồng thời hợp thức hóa uy quyền chính trị và xã hội người cha và
con trai trong các thể chế xã hội.

Ở phương Đông, đạo Khổng khoác lên cổ người phụ nữ ba cái tròng và bó
buộc chân tay họ bằng bốn sợi dây: tam tòng tứ đức. Sự phân biệt đối xử với phụ
nữ không khác mấy so với sự phân biệt chủng tộc. Sự phân biệt đối xử còn thể
hiện ở một hình thức cao hơn, là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chỉ phụ nữ phái sinh ngay
trên bề mặt, kết cấu ngôn ngữ chỉ nam giới. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng
hệ thống văn hóa phương tây có tính trọng dương vật. Nền văn hóa ấy được cấu
trúc qua những cặp đối lập như nam/nữ, trật tự/hỗn loạn, ngôn ngữ/im lặng, hiện
diện/vắng mặt, nói/viết, sáng/tối mà những từ như nam, trật tự, ngôn ngữ, hiện
diện là cấu trúc cơ bản của tư tưởng tây phương. Theo Francoise Héritier, từ


25
thời nguyên thuỷ, con người luôn luôn tìm tòi ý nghĩa của sự phân biệt không thể
tránh được mà họ quan sát nơi tất cả các bầy thú và người: sự hiện hữu của hai
giới tính, con đực và con cái. Từ mô hình đực/cái, con người đã sáng tạo ra hàng
trăm loại từ thông thường như trên/dưới, nóng/lạnh, thụ động/hoạt động đến trừu
tượng như hợp pháp/bất hợp pháp, thuần lý/phi lý, lành mạnh/nguy hại v.v…
Trong mọi trường hợp, những giá trị đực lúc nào cũng được đánh giá cao, những
giá trị cái lúc nào cũng bị đánh giá thấp. Tại châu Âu, chẳng hạn, sự hoạt động là
một giá trị đực và sự thụ động là một giá trị cái, chính giá trị đực - hoạt động -
được đánh giá cao vì nó được liên hợp với sự làm chủ thế giới, và chi phối các
sự việc. Trong xã hội Ấn Độ và Trung Hoa, ngược lại sự thụ động được liên hợp
với đực và sự hoạt động với cái. Nhưng mặc dù với sự đảo ngược này, đực đã
được đánh giá cao: sự thụ động của đàn ông được liên hợp với sự làm chủ chính
mình, làm chủ các xúc động và các ham muốn, trong khi đó, sự hoạt động của
đàn bà được xem như một sự náo động bừa bãi, lộn xộn. Ở phương Đông cũng
có thực tế lịch sử của hệ thống văn hóa như vậy, đó là văn hóa âm – dương, đàn
ông là dương, đàn bà là âm, những cặp từ như mặt trời/mặt trăng, ngày/đêm,
nóng/lạnh, lửa/nước, chủ động/bị động… Chính cái cấu trúc ngôn ngữ đối xứng
ấy cũng là kết quả của tư duy thống trị bởi nam giới. Phái tính của người phụ nữ

bị đè bẹp ngay trong ngôn ngữ, thậm chí, còn bị xuyên tạc rất nhiều.
Từ xưa đến nay, quan niệm về cái đẹp ở người phụ nữ có phải do phụ nữ
lựa chọn không? Thực tế cho thấy trong nền văn hóa phụ quyền, ngay cả việc tạo
lập một mỹ học về chính bản thân giới nữ, nữ giới cũng không thể hiện được
giới tính của mình. Cái đẹp về thể xác của họ bị quy định bởi quan niệm của nam
giới. Ở Nhật Bản, cái gáy dài của một người đàn bà, dưới những sợi tóc mai đen
thẫm, vươn ra từ cổ áo kimono từng là một hình ảnh vừa thanh thoát, vừa cực kỳ
gợi cảm cho đàn ông. Thời Phục Hưng ở Tây Âu, những bức vẽ nữ thần Venus
cho thấy người phương Tây thích phụ nữ có làn da mịn hồng, dáng vóc nở nang,
cái eo hơi thon và cặp vú nhỏ, đầy đặn. Có dân tộc ở châu Phi thích kiểu vú

×