Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.94 KB, 113 trang )

Luận văn Thạc sĩ
- 1
- Đỗ Thanh Hương



















BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2











HỌ VÀ TÊN: ĐỖ THANH HƯƠNG




ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
VĂN XUÔI CỦA MA VĂN KHÁNG
ĐẦU THẾ KỶ XXI

Chuyên ngành: Thạc sĩ Văn học
Mã số: 60 22 32



LUẬN VĂN THẠC SĨ L

Í LUẬN VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện







HÀ NỘI, 2011


Luận văn Thạc sĩ
- 2
- Đỗ Thanh Hương

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian khảo cứu, sưu tầm tài liệu để chấp bút cho công trình
nghiên cứu của mình, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, chúng tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc nhất tới
Thầy hướng dẫn luận văn: PGS.TS NGUYỄN NGỌC THIỆN, người đã
hướng dẫn chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tôi từ lúc chọn đề tài cũng như trong
suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận văn.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới các thầy, cô giáo khoa Văn học,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường
Trung học phổ thông Minh Phú cùng bạn bè, đồng nghiệp gần xa và những
người thân trong gia đình đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.

Tác giả luận văn



Đỗ Thanh Hương





Luận văn Thạc sĩ

- 3
- Đỗ Thanh Hương

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Những số
liệu trong phạm vi nghiên cứu là do tôi trực tiếp thống kê, không sao chép từ
bất cứ nguồn tài liệu nào. Những trích dẫn tài liệu đã được sử dụng trong
Luận văn là đúng sự thật và được trích dẫn nguồn gốc từ các tài liệu, tạp chí,
công trình nghiên cứu đã được xuất bản, công bố. Các giải pháp nghiên cứu
nêu trong Luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và nghiên cứu thực
tiễn, trong quá trình học tập và giảng dạy.

Tác giả Luận văn




ĐỖ THANH HƯƠNG







Luận văn Thạc sĩ
- 4
- Đỗ Thanh Hương

























MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
1
Lời cảm ơn

2
Lời cam đoan
3
Mục lục
4
MỞ ĐẦU
6
NỘI DUNG

CHƯƠNG I
14
1.1. Một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút văn xuôi lực lưỡng
14
1.2. Những suy nghĩ của Ma Văn Kháng về văn chương.
20
1.2.1. Ý kiến về truyện ngắn
21
1.2.2. Ý kiến về Tiểu thuyết
25
1.2.3. Ý kiến về Hồi ký
31
CHƯƠNG II
34
2.1.1. Chủ đề con người bình thường và số phận bi kịch của con
người.
35
2.1.2. Nhân vật người phụ nữ nhan sắc, phồn thực, đa đoan.
44
2.1.3. Nhân vật trí thức.
50

2.2. Hình tượng tác giả với giọng điệu hài hước và xót xa thương
cảm.
52
2.3. Sự ùa vào ngôn ngữ của đời sống thường nhật.
58
2.4. Thể tài mới truyện ngắn – tiểu luận.
60
CHƯƠNG III
66
3.1. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
3.1.1. Yếu tố kì ảo trong văn học.
67
67
3.1.2. Yếu tố kì ảo trong văn xuôi Việt Nam sau 1975
68
Luận văn Thạc sĩ
- 5
- Đỗ Thanh Hương


























3.1.3. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng ( Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn, Một mình một ngựa, Bóng đêm).
69
3.2. Độc thoại nội tâm và dòng ý thức.
82
3.3. Khuynh hướng triết lý – Tiểu thuyết luận đề.
83
3.3.1 Quan niệm triết lý về con người trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng.
84
3.3.2. Quan niệm về lịch sử, cách mạng.
90
3.3.3. Quan niệm về cuộc sống.
92
3.4. Nghệ thuật tự sự tổng hợp.
94
3.4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

95
3.4.2. Nghệ thuật kể chuyện.
98
3.4.3. Ngôn ngữ.
100
PHẦN KẾT LUẬN
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
107

Luận văn Thạc sĩ
- 6
- Đỗ Thanh Hương

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Trong văn học Việt Nam hiện đại xuất hiện nhiều cây bút mới với
những phong cách viết khác nhau, mỗi nhà văn lựa chọn lối viết khác nhau
tạo nên một phong cách riêng cho bản thân.
Ma Văn Kháng là nhà văn có tên tuổi và vững vàng trong nền văn
xuôi đương đại Việt Nam. Ông được đánh giá là “ một cây bút văn xuôi lực
lưỡng, sung sức, một đời văn sáng tạo” của nền văn học Việt Nam đương
đại.
Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã đóng góp cho nền văn xuôi
đương đại Việt Nam thời kỳ đổi mới 17 tập truyện ngắn và hơn 13 cuốn tiểu
thuyết.
Bước sang thế kỷ XXI Ma Văn Kháng luôn khao khát kiếm tìm cái
mới, không tự bằng lòng với chính mình, ông đã đổi mới về đề tài, cách tân
táo bạo về tư duy nghệ thuật và đã tạo cho mình một phong cách mới, độc

đáo trong đời văn của mình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý.
Giải Nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn 1967-1968 báo
Văn nghệ (Xa Phủ); Tặng thưởng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam năm 1975
(Trăng soi sân nhỏ); Giải thưởng “Cây bút vàng” (giải cao nhất) cho truyện
ngắn San Cha Chải trong cuộc thi Truyện ngắn và Ký năm 1996-1998 do Bộ
Công an Hà Nội và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức; Tập truyện ngắn
Trăng soi sân nhỏ nhận phần thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội nhà văn
Việt Nam năm 1995 và nhận giải thưởng văn học Đông Nam Á tại thủ đô
Băng Cốc – Thái Lan năm 1998; Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
Luận văn Thạc sĩ
- 7
- Đỗ Thanh Hương

thuật năm 2001; Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội năm 2009 với tiểu thuyết
Một mình một ngựa…
1.2. Ở nước ta, thời kỳ sau đổi mới cùng với sự chuyển mình của đời sống
thì văn học cũng có những bước chuyển mình đáng kể nhất là thơ và văn
xuôi. Mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tưởng,
bộc lộ cái tôi cá nhân. Bởi vậy, ta thấy ở mỗi trang viết những trải nghiệm,
những suy ngẫm và cái tôi rất riêng của nhà văn.Vì thế văn xuôi của Ma Văn
Kháng khá hấp dẫn người đọc. Ông là nhà văn có phong cách rõ nét, ổn
định, không lẫn với mọi cây bút khác.
Đọc truyện của ông, người ta tìm thấy sự pha trộn mới mẻ, độc đáo
của văn phong hiện đại với những yếu tố thuộc về truyền thống rất gần gũi
quen thuộc.
Đọc văn của Ma Văn Kháng người đọc gặp lại cái chất trào phúng hài
hước của những câu chuyện tiếu lâm xưa cũ, gặp cái kỳ ảo trong câu chuyện
truyền kỳ trung đại đan cài với những nỗi đau đớn, chua chát về cuộc đời thế
sự.
Bên cạnh đó Ma Văn Kháng còn đem lại cảm giác ngọt ngào về niềm

yêu đời, yêu cuộc sống khiến người đọc băn khoăn, trăn trở, xót xa đến bức
xúc về lẽ đời qua những trang viết ngồn ngộn chất sống và chất chứa đầy ắp
nỗi niềm thương cảm ngậm ngùi của nhà văn đối với con người.
“ Dòng riêng” Ma Văn Kháng đặt trong “nguồn chung” của văn
chương Việt Nam hiện đại góp phần tạo nên một phong cách riêng của Ma
Văn Kháng.
Cho đến nay các công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng đã lên tới
hàng trăm gồm các đầu sách, bài nghiên cứu, chuyên luận, khóa luận …
cũng đủ để nhận thấy tầm ảnh hưởng và vai trò của những tác phẩm văn
chương mà Ma Văn Kháng đã đem lại cho cuộc sống.
Luận văn Thạc sĩ
- 8
- Đỗ Thanh Hương

Có khá nhiều công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng nhưng chủ
yếu về những tác phẩm được công bố xuất bản trước năm 2000. Còn với
những bài viết đề cập đến những sáng tác sau năm 2000 thì mới chỉ dừng lại
ở một vài khía cạnh nhỏ chưa có công trình nghiên cứu công phu nào về
những sáng tác trong những năm gần đây của ông.
Việc khai thác nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng
đầu thế kỷ XXI còn bỏ ngỏ nên chúng tôi thấy cần phải có một công trình
nghiên cứu quy mô mới có thể đánh giá hết những cách tân nghệ thuật mới
mẻ của nhà văn.
Từ lý do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu khoa học:
Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần bổ sung vào việc đánh giá một cách
hoàn chỉnh, khái quát những thành tựu nổi bật của văn xuôi Ma Văn Kháng,
từ đó góp phần xác định vị trí của Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam.
1.3.Về mặt nghề nghiệp, đối với một giáo viên giảng dạy văn học thì những

hiểu biết về văn học đương đại qua một tác giả tiêu biểu là rất cần thiết. Mặc
dù việc giảng dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng trong nhà trường còn hạn
chế, nhưng việc nghiên cứu đánh giá về giá trị, văn xuôi của Ma Văn Kháng
sẽ tạo thuận lợi trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc giảng dạy, giúp người viết
rèn luyện khả năng cảm thụ văn chương cũng như tư duy về văn học, về tác
gia văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Với ngót 50 năm trong nghề cầm bút viết văn, Ma Văn Kháng là một
trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam thời kỳ
đổi mới. Ta có thể kể đến một số bài viết về tác giả Ma Văn Kháng như: Bài
viết “Mổ xẻ trốn nợ của Ma Văn Kháng” (In trên tạp chí Văn hóa toàn cảnh,
Luận văn Thạc sĩ
- 9
- Đỗ Thanh Hương

ngày 21/8/2008) của tác giả Hồ Điệp. Bài viết dừng lại việc đánh giá nhận
xét về những thành công của Ma Văn Kháng trong việc kiến tạo ngôn ngữ
nghệ thuật.
Bài viết của tác giả Phạm Duy Nghĩa,“Phong cách văn xuôi miền núi
của Ma Văn Kháng” (8/2009) Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Theo
tác giả. “Ma Văn Kháng là nhà văn có phong cách rõ nét, ổn định, không
lẫn với mọi cây bút khác”.Nét nổi bật nhất của ông khi viết về miền núi là
cảm hứng trước vẻ phồn thực, cường tráng, bản tính hồn nhiên cùng sự phân
cực sâu sắc của con người và cuộc đời trần thế. Ở bài viết này người viết
mới chỉ đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp con người được thể hiện trong những tác
phẩm của Ma Văn Kháng trong tập Trốn nợ mà chưa có điều kiện tìm hiểu
trên nhiều khía cạnh khác của tập truyện.
Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 696 ra ngày 3/2009, tác giả Nguyễn
Thanh Tú có bài viết: “Vốn sống, tài năng và tâm huyết” (từ trường hợp nhà
văn Ma Văn Kháng với tập Trốn nợ - NXB phụ nữ 2008). Bài viết là sự

đánh giá bản lĩnh nghệ sỹ của một nhà văn lão thành với tài quan sát, chiêm
nghiệm, cách kể, tả, dựng cảnh. Bên cạnh đó tác giả bài viết cũng tìm ra một
số điểm yếu của nhà văn trong quá trình thuyết lý lộ liễu gây cảm giác nặng
nề với người đọc.
Bài viết của Đoàn Minh Tâm “Sự độc đáo của thể tài truyện ngắn -
tiểu luận Ma Văn Kháng” in trên Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Số
166 (11/2008)tr 82 – 83.Tác giả cho rằng mỗi truyện ngắn trong tập Trốn nợ
khi kết thúc đều đang ở thì “hiện tại tiếp diễn”. Số phận nhân vật, diễn biến
câu chuyện còn lửng lơ chứ chưa kết thúc một cách rõ ràng. Ma Văn Kháng
để nhân vật của mình nhẩn nha trong quãng thời gian thật ngắn như trong
Trốn nợ là mấy ngày giáp tết của cặp vợ chồng nghèo….Đó thường là
khoảng thời gian gắn với những thời điểm, những sự kiện quan trọng của đời
Luận văn Thạc sĩ
- 10
- Đỗ Thanh Hương

người. Bài viết mới chỉ dừng lại ở thủ pháp đối lập hai tầng và tính chất luận
đề của thể loại truyện ngắn - tiểu luận.
Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện “Tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi
của Ma Văn Kháng”. (Phong cách và đời văn, NXB Khoa học xã hội, H,
2005 tr 229 – 239). Bài viết cho ta thấy mảng đề tài này đã bổ sung cho nhận
thức hướng tới cái chân thật và đúng đắn về cái nhìn đối với đời sống và con
người miền núi ở nước ta ngay từ trước cách mạng tháng tám 1945. Cảnh
sắc thiên nhiên hùng vĩ còn nhiều hoang dã của Tây Bắc hoặc Tây Nam Bộ,
những con người của các dân tộc sống cực khổ, tăm tối, nhưng tính cách thật
thà hồn nhiên, bộc trực qua dáng điệu ngôn ngữ Dưới ngòi bút ấm áp tình
cảm của ông, đã vạnh lên những đường cày đầu tiên xới lật một trong những
nguồn mạch phong phú của đời sống hiện thực, chứa đựng những nét đặc
sắc của văn học dân tộc.
Bài viết của Mai Thị Nhung “Giọng điệu nghệ thuật, trong tiểu thuyết

thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng” (Nghiên cứu văn học số 10-2008) đã
khẳng định tiểu thuyết thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng đã thu được những
thành công đáng kể.
Với 4 sắc thái giọng điệu: giọng trữ tình thiết tha sâu lắng, giọng triết lý
suy tư, giọng hài hước mỉa mai và giọng suồng sã, Ma Văn Kháng đã có
điều kiện đi sâu vào bản chất của cuộc sống từ đó góp phần khẳng định giá
trị nhân văn sâu sắc trong toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi
mới.
Bài viết của Nguyễn Minh, “ Nhà văn hiện thực có phải chuyện đã
cũ”. (Văn nghệ trẻ 687/688 (3-10/1/2010) tr 24-27). Nói về cuốn tiểu thuyết
Gặp gỡ ở Lapan Tẩn cho rằng xuyên suốt câu chuyện ấy là khả năng miêu tả
tài tình của tác giả về những nét tinh tế của núi rừng Tây Bắc. Tác phẩm còn
thú vị ở điểm văn phong không hề có chút lên gân nào khi bàn về những vấn
Luận văn Thạc sĩ
- 11
- Đỗ Thanh Hương

đề mang tính tư tưởng, chính trị như các tác phẩm cùng chủ đề khác gặp
phải. Những vấn đề ấy được hiện lên từ chính những dằn vặt, băn khoăn rất
thật của nhân vật, những người phải trực tiếp trải nghiệm và suy tư trong
hiện thực, từ những câu chuyện đời thường rất thật. Chính vì thế tuy bàn
chuyện đã cũ nhưng ta vẫn thấy những suy nghĩ ấy rất “thời sự” với thời
nay.
Hoàng Thị Huế - Nguyễn Thị Khánh Thu trong bài: “ Hình tượng
người kể chuyện trong tiểu thuyết mới của Ma Văn Kháng” (Diễn đàn Văn
nghệ Việt Nam số 11/2010. tr 25-27) thì cho rằng các tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng mang khuynh hướng tự truyện giúp người đọc không chỉ giải mã
con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời thật
mà qua những trải nghiệm sống và tự thú chân thành. Hình tượng người kể
chuyện trong Một mình một ngựa có nhiều điểm đặc sắc. Tác phẩm được

thực hiện bởi kiểu tự thuật “ đánh tráo” chủ thể trần thuật, một đặc tính mới
của tiểu thuyết hậu hiện đại. Một mình một ngựa có giọng kể quán xuyến tác
phẩm là của người kể chuyện khách quan như xuất phát từ nhân vật Toàn.
Tác phẩm còn khắc họa cuộc sống, bức tranh cảnh vật, con người mảnh đất
miền núi xa xôi một thời kỳ đã qua. Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng
đã thực sự đem lại những đóng góp cho việc đa dạng hóa thể tài văn xuôi
Việt Nam đương đại.
Qua các bài viết đó ta có thể khẳng định Ma Văn Kháng là một tài
năng đa dạng, ông thành công ở nhiều thể loại khác nhau (truyện ngắn, tiểu
thuyết, hồi ký-tự truyện….).Vậy mà hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống xứng đáng với những cống hiến của ông cho văn
xuôi hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài
nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI.
Luận văn Thạc sĩ
- 12
- Đỗ Thanh Hương

Đây là một trong số ít công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về nội dung,
nghệ thuật và những đóng góp của Ma Văn Kháng cho nền văn xuôi đầu thế
kỷ XXI.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài đã chọn, luận văn của chúng tôi định hướng đến mục đích sau:
3.1: Ghi nhận những đóng góp lớn cả về số lượng và chất lượng tác phẩm
của Ma Văn Kháng.
3.2: Làm rõ những đặc sắc về phong cách và bút pháp tự sự của Ma Văn
Kháng đầu thế kỷ XXI.
3.3: Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần khẳng định tài
năng, vị trí của Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua khảo sát 28 truyện ngắn và hai tiểu thuyết được Ma Văn Kháng cho

xuất bản từ đầu thế kỷ XXI đến nay, luận văn làm rõ tư tưởng nghệ thuật và
đặc điểm nghệ thuật tự sự độc đáo trong văn xuôi của Ma Văn Kháng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các truyện ngắn được in từ năm 2000 đến nay trong các tập truyện:
Trốn nợ(18 truyện) - NXB Phụ nữ (2008)
Cỏ dại – NXB Phụ nữ (2002)
Cuộc đấu của gà chọi – NXB Công an nhân dân (2005)
Một vầng nắng nhỏ ( 2 truyện) - NXB Quân đội nhân dân (2007).
Người đàn bà chơi vĩ cầm. (6 truyện) Nhà xuất bản sân khấu Hà Nội năm
2007, Tiểu thuyết: + Gặp gỡ ở Lapan Tẩn – NXB công an nhân dân (2003)
+ Một mình một ngựa – NXB phụ nữ (2009)
+ Bóng đêm – NXB công an nhân dân (2011)

Luận văn Thạc sĩ
- 13
- Đỗ Thanh Hương

5.2 Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng lý thuyết tự sự học, thi pháp học để làm rõ cái nhìn nghệ
thuật về hiện thực và con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật
kết cấu và cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu trong văn xuôi Ma Văn Kháng
đầu thế kỷ XXI.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp hệ thống tổng hợp
6.2 Phương pháp phân loại thống kê
6.3 Phương pháp phân tích tác phẩm
6.4. Phương pháp so sánh
7. Dự kiến đóng góp mới
Đây là một trong số ít công trình nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong văn

xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI. Từ đó tiếp tục và khẳng định sự
phát triển của một phong cách văn xuôi đầy tài năng trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn xuôi đương đại nói riêng và nền văn học nói
chung một cách có cơ sở khoa học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo. luận văn gồm 3
chương chính.
Chương I. Ma Văn Kháng – Đời văn và những suy nghĩ về văn
chương
Chương II. Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Ma Văn
Kháng.
Chương III. Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng.


Luận văn Thạc sĩ
- 14
- Đỗ Thanh Hương

CHƯƠNG I:
MA VĂN KHÁNG – ĐỜI VĂN VÀ NHỮNG SUY NGHĨ
VỀ VĂN CHƯƠNG
1.1. Một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút văn xuôi lực
lưỡng:
Sinh ra vào những năm 30 của thế kỉ trước, bản thân Ma Văn Kháng
đã sống gần như trọn vẹn với những biến thiên lớn lao của một Việt Nam thế
kỉ XX nhiều biến động. Ông đã sống và cống hiến, không chỉ với tư cách và
trách nhiệm của một con người – công dân, mà còn như một nghệ sĩ – nhà
văn, người thư kí trung thành của thời đại. Đi qua thập niên đầu tiên của thế
kỉ XXI, ngoảnh đầu nhìn lại một đời người, một đời văn, để ghi nhận, để

cảm kích và trân trọng trước Ma Văn Kháng – “Một đời văn cần mẫn, sáng
tạo, một cây bút văn xuôi lực lưỡng”
 Một đời văn cần mẫn:
Viết văn cũng là một sự lao động, một sự lao động nghệ thuật chân
chính. Nó chỉ dung nạp những người lao động thật sự nghiêm túc và say mê
với nghề. Trước cả tài năng nghệ thuật lẫn tầm vóc tư tưởng lớn lao, chính
sự cần mẫn, say mê ấy, mới chính là bí quyết để Ma Văn Kháng cũng như
tất cả những nhà văn chân chính khác có thể “bám trụ”, khẳng định tên tuổi
và thành danh với đời.
Ở Ma Văn Kháng, sự cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ
thuật được thể hiện ngay trong việc chủ động, say mê tích lũy vốn sống.
Không phải ngẫu nhiên khi những trang viết về đồng bào miền biên ải của
Ma Văn Kháng có một chất men riêng say lòng người. Không phải ngẫu
nhiên khi đọc Gió rừng, Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải…, nhiều
người lầm tưởng đó là sáng tác của một cây bút miền núi đích thực. Sự
Luận văn Thạc sĩ
- 15
- Đỗ Thanh Hương

nhầm lẫn ấy không chỉ đến từ bút danh đậm sắc dân tộc, mà quan trọng hơn,
bắt nguồn từ bề rộng và chiều sâu của những vốn sống, sự hiểu biết về vùng
đất và con người nơi đây mà nhà văn đã phô diễn trong tác phẩm của mình.
Đó là kết quả của hàng chục năm trời “hăm hở, lặng lẽ kiếm tìm, lặng lẽ ghi
chép”, như lời nhà văn, trong bài viết “ Viết tiểu thuyết là cả một cuộc đi
săn hổ dữ”, đã trực tiếp thổ lộ:
“ Ngày tháng trôi qua, và bắt tay vào công việc chuẩn bị thật âm
thầm, nhẫn nại: sưu tầm tài liệu. May mắn, lúc này, lịch sử địa lý nhân văn
ở đây vẫn còn giữ nguyên nét vẽ thời sự của nó. Nó là một bào tàng còn lưu
giữ đầy đủ hiện vật, sự kiện, con người. Tình hình đó kích thích tôi hăm hở,
lặng lẽ tìm kiếm, lặng lẽ ghi chép. Cả mấy chục năm, sổ tay đầy kín các sự

việc làm cơ sở cho chất liệu văn học sau này” [47- tr 217]
Viết văn không phải là việc “tùy hứng” hay một cuộc dạo chơi. Sự
cần mẫn và nghiêm túc của Ma Văn Kháng, do đó, còn ở sự trăn trở không
ngừng về bản thân nghề viết. Không chỉ nhận thức về cuộc sống, mỗi tác
phẩm văn học còn là kết quả sự nhận thức theo cách riêng của nhà văn về
chính con người và công việc của mình. Ma Văn Kháng, trong suốt cuộc đời
cầm bút, đã hình thành cho mình một hệ thống quan điểm riêng về nghề viết,
về sáng tạo nghệ thuật, mà cụ thể là những suy nghĩ về những thể loại văn
chương ông chuyên chú, sở trường: Truyện ngắn, tiểu thuyết và hồi ký.
Những quan niệm riêng này của nhà văn, chúng tôi sẽ làm rõ trong mục 1.2.
Những suy nghĩ của Ma Văn Kháng về văn chương.
Cũng cần phải thấy rằng, sự cần mẫn, trong trường hợp Ma Văn
Kháng nói riêng và mọi nhà văn chân chính nói chung, tất yếu gắn liền với
nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ. Nó khác cái cần mẫn của người công
nhân trong xưởng máy, người nông dân trên ruộng cày. Bởi lẽ, bản thân
công việc của những người cầm bút ấy đã là một công việc sáng tạo. Nói
Luận văn Thạc sĩ
- 16
- Đỗ Thanh Hương

cách khác, cần mẫn trong lao động văn chương, chính là cần mẫn trên con
đường sáng tạo.
 Một đời văn sáng tạo:
Khi coi sáng tạo là bản chất của văn chương nghệ thuật, thì đồng thời
cũng cần phân biệt khái niệm sáng tạo như một “bản chất”, “thuộc tính tất
yếu” với cái “sáng tạo” như một “phẩm chất”, “tính chất riêng có”, của từng
nhà văn, từng tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Nhận định Ma Văn Kháng là
một cây bút sáng tạo, chính là muốn nhấn mạnh đến cái phẩm chất riêng độc
đáo ấy.
Sự sáng tạo của Ma Văn Kháng, có lẽ trước hết ở việc xử lý và chọn

lựa đề tài. Dẫu trong sự lựa chọn ấy ít nhiều có ảnh hưởng của yếu tố ngoại
cảnh, thì việc lựa chọn phạm vi đề tài mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm
vẫn là ý thức tự giác của người nghệ sĩ. Hoàn cảnh đã đưa đẩy chàng trai gốc
Hà thành sớm “bén duyên” với mảnh đất Lào Cai, để từ đây, hình ảnh “miền
biên viễn” trong đời văn Ma Văn Kháng sẽ mãi trở thành duyên nợ. Và cũng
từ đó, văn xuôi viết về đề tài miền núi trở thành thứ đặc sản riêng của nhà
văn đã hơn 20 năm trai trẻ gắn bó với vùng đất này.
Có thể coi Ma Văn Kháng, trong nửa đầu của đời văn, là một cây viết
“chuyên canh” với mảng đề tài miền cao. Cùng với nhóm những tác giả
cùng sáng tác về miền núi, những sáng tác của ông đã góp một mảng màu
riêng, độc đáo cho bức tranh chung đa sắc đa màu của cả nền văn học nước
nhà. Bản thân sự đóng góp ấy, đã là một mảng màu mới đầy sáng tạo.
Tuy nhiên, trong các nét nghĩa hợp lại thành nội hàm ý nghĩa của hai
chữ “sáng tạo”, không thể không kể đến ý thức về sự đổi mới. Với trường
hợp Ma Văn Kháng, một trong những biểu hiện thuyết phục nhất của sự
sáng tạo, có lẽ chính là cuộc bứt phá đặc biệt, gắn với dấu mốc thời gian khi
nhà văn giã biệt Lào Cai, trở về với cuộc sống thành thị. Đó không chỉ đơn
Luận văn Thạc sĩ
- 17
- Đỗ Thanh Hương

giản là sự thay đổi về địa bàn sinh sống, mà còn gắn với cuộc biến chuyển
âm thầm nhưng không kém phần gai góc, khốc liệt của một đất nước chuyển
giao từ thời chiến sang thời bình.
Ma Văn Kháng nằm trong số những người đã kịp dọn mình, hối hả
bước lên chuyến tàu mang tên “đổi mới” ấy. Ông từ giã mảnh đất “chuyên
canh” trong suốt hai mươi năm có lẻ, hăm hở bắt đầu cuộc hành trình khám
phá cái hiện thực rộng mở bề bộn, mới mẻ đang bày ra trước mắt. Những
sáng tác sau này của Ma Văn Kháng đều hướng tới phát hiện, khám phá,
phản ánh chính cuộc sống mới, với đầy đủ những góc cạnh phức tạp của

cuộc sống thành thị thời hậu chiến. Cảm hứng sử thi nhường chỗ cho niềm
xúc động bình dị trước những con người và cảnh ngộ đời thường. Một cách
hoàn toàn tự giác, Ma Văn Kháng đã tự nguyện hòa mình vào dòng chảy
chung của những nhà văn Việt Nam thời kì đổi mới, khi văn học đứng trước
yêu cầu tất yếu phải tự làm mới mình để bắt kịp với những yêu cầu của cuộc
sống và thời đại.
Công cuộc lột xác nói trên không phải không nhiều khó khăn và đau
đớn. Nó đòi hỏi rất nhiều can đảm, nghị lực của người nghệ sĩ. Và bản lĩnh
ấy, trước hết phải bắt nguồn từ ý thức về nỗ lực sáng tạo không bao giờ
ngừng nghỉ. Sự thành công của Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không
có giấy giá thú, Cỏ dại, Trốn nợ… đã một lần nữa khẳng định cho sự tìm
tòi sáng tạo của cây bút cần mẫn, say mê, quyết liệt tự làm mới mình.
Không chỉ thể hiện thông ở nội dung đề tài, sự sáng tạo còn là một
yếu tố hàng đầu đối với trong việc lựa chọn hình thức biểu hiện. Sự sáng tạo
ấy biểu hiện ra ở mọi phương diện của hình thức nghệ thuật. Có thể dẫn ra
những ví dụ về cách tổ chức ngôn từ, xây dựng hình tượng nhân vật hay lựa
chọn giọng điệu.
Luận văn Thạc sĩ
- 18
- Đỗ Thanh Hương

Trở lại với giai đoạn đầu, những sáng tác về đề tài miền núi của nhà
văn Ma Văn Kháng. Có thể thấy một trong những điểm làm nên sức hấp dẫn
đặc biệt của mảng sáng tác này chính là việc nhà văn đã kể những câu
chuyện miền núi bằng chính ngôn ngữ của người bản địa. Tuy nhiên, đáng
lưu ý ở chỗ, dù có ý thức sử dụng hệ thống từ ngữ và lối phô diễn mang đặc
trưng cách cảm, cách nghĩ của người dân tộc nhưng Ma Văn Kháng không
hề lạm dụng. Tiếp thu một cách có chọn lọc và vận dụng linh hoạt trong
từng hoàn cảnh cụ thể, “sự vận dụng ngôn ngữ và cách viết sao cho có được
màu sắc bản địa mà vẫn không xa cách với lối diễn đạt hiện tại”, chính là sự

sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe.
Với việc xây dựng hình tượng nhân vật, sự sáng tạo của nhà văn biểu
hiện ra ở việc dựa trên những nguyên mẫu có thật trong đời sống để dựng
lên thành một hình tượng sống động, đầy đặn. Điều này xuất phát từ quan
điểm riêng của nhà văn “Với tiểu thuyết, nhân vật phải hoạt động trong một
văn cảnh rộng dài thì việc dựa trên một nguyên mẫu để xây dựng nó là một
nguyên tắc sống còn của tôi [47, tr 221], (Đồng bạc trắng hoa xòe, Đám
cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh
đời… đều là những trường hợp như thế) Việc cần đến những nguyên mẫu
ấy, không có nghĩa rằng nhà văn là người “kém cỏi về trí tưởng tượng”. Trái
lại, sáng tạo chính là ở chỗ sử dụng nguyên mẫu có thật, từ một hiện thực đã
thấy, đã biết, đã cảm nhận được, bồi đắp thêm bằng trí tưởng tượng và hư
cấu. Hiện thực không chỉ đơn thuần được phản ánh, mà còn được cấu tạo,
sắp xếp, bồi đắp, sáng tạo lại trong tác phẩm của nhà văn.
Về mặt giọng điệu, tiểu thuyết thời kì đổi mới của Ma Văn Kháng
cũng ghi dấu nhiều thành tựu sáng tạo. Cái nhìn đa chiều về cuộc sống tất
yếu dẫn đến sự xuất hiện và đan xen đa dạng giữa giọng điệu trữ tình thiết
tha sâu lắng, giọng điệu triết lý suy tư, giọng điệu hài hước mỉa mai và giọng
Luận văn Thạc sĩ
- 19
- Đỗ Thanh Hương

điệu suồng sã. Chính điều này đã cho phép nhà văn đi sâu vào bản chất của
cuộc sống, từ đó góp phần khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc trong toàn bộ
tiểu thuyết của nhà văn thời kì đổi mới.
Với sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn, ý thức sáng tạo
không mệt mỏi như thế, Ma Văn Kháng đã khẳng định mình trên văn đàn
như một “cây bút văn xuôi lực lưỡng”, một tên tuổi lớn trong nền văn học
Việt Nam thời kì hiện đại.
 Một cây bút văn xuôi lực lưỡng:

Lịch sử văn học Việt Nam và thế giới không phải không ghi nhận
trường hợp những nhà văn, nhà thơ “một bài”. Tên tuổi của họ vẫn được lưu
giữ và tỏa sáng dẫu cả văn nghiệp lưu lại chỉ vỏn vẹn một hoặc một vài tác
phẩm. Tuy vậy, đại đa số, ở những cây bút tầm vóc thật sự, tài năng thường
đi liền với một bút lực dồi dào, sức viết bền bỉ. Đánh giá về Ma Văn Kháng,
giới nghiên cứu, phê bình đều thống nhất thừa nhận ông như một cây bút
văn xuôi có “bút lực sung mãn, cường tráng”.
Nhận định ấy, trước hết có thể được minh chứng qua số lượng tác
phẩm khá đồ sộ.Với văn nghiệp gần tám nghìn trang in, hàng trăm truyện
ngắn, hàng chục tiểu thuyết, 3 truyện viết theo lối hồi ký – tự truyện, Ma
Văn Kháng xứng đáng là một trong những cây bút có sức viết dồi dào nhất
trên văn đàn Việt. Chỉ dừng lại trong địa hạt văn xuôi, nhưng sáng tác của
Ma Văn Kháng cũng khá phong phú: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện –
hồi ký. Ma Văn Kháng đã tự khẳng định mình như một tài năng đa dạng.
Cây bút văn xuôi ấy còn được biết đến với một sức viết rất bền bỉ.
Nhìn vào mốc thời gian ra đời những tác phẩm của ông, ta thấy gần như
không có khoảng ngắt quãng nào đáng kể. Viết cần mẫn, say mê, Ma Văn
Kháng đã để lại một văn nghiệp không chỉ lớn về quy mô, đa dạng về thể
loại mà còn đều đặn và liền mạch. Quan trọng hơn, chất lượng sáng tác của
Luận văn Thạc sĩ
- 20
- Đỗ Thanh Hương

nhà văn có thể đánh giá khá đều tay. Hầu hết đều là những tác phẩm giá trị.
Giai đoạn nào cũng có những sáng tác nổi bật, xuất sắc thật sự, mang dấu ấn
cá nhân đậm nét, gắn liền với tên tuổi Ma Văn Kháng.
Với những thành tựu to lớn ấy, Ma Văn Kháng xứng đáng được vinh
danh như một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút văn xuôi lực lưỡng
của nền văn học hiện đại Việt Nam.
1.2. Những suy nghĩ của Ma Văn Kháng về văn chương:

Văn chương, bằng những phương tiện nghệ thuật đặc thù, trình bày
một cách nhận thức riêng về thế giới. Có thể coi thực tại cuộc sống chính là
đối tượng phản ánh, khám phá, lý giải, chiếm lĩnh của tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Nhưng văn chương còn đặc biệt ở chỗ nó có khả năng nhận thức về
chính nó, người nghệ sĩ viết văn như một cách đối thoại với cuộc đời, và
cũng là đối thoại với chính mình. Khám phá vẻ đẹp, giá trị trong thế giới
thẩm mỹ mà nhà văn đã tạo dựng thông qua tác phẩm, không thể không để
tâm nghiên cứu quan niệm, tư tưởng thẩm mĩ, những chiêm nghiệm, suy
ngẫm của người cầm bút về cuộc đời và nghệ thuật.
Nhìn lại đời văn Ma Văn Kháng, cây bút cần mẫn và hết sức nghiêm
túc trong công việc lao động nghệ thuật, có thể thấy nhà văn đã hình thành
cho mình một hệ thống quan điểm riêng về công việc cầm bút. Những suy
nghĩ ấy có khi được phát biểu một cách trực tiếp qua những cuộc phỏng vấn,
tâm sự, trải lòng của người viết, cũng có khi hiện hữu sinh động qua từng
trang văn.
Ma Văn Kháng thử nghiệm và định hình phong cách ở ba thể loại đặc
trưng: truyện ngắn, tiểu thuyết và tự truyện- hồi ký. Khảo sát ở từng thể loại,
ta sẽ thu được cái nhìn tổng quan, toàn diện về hệ thống quan điểm, suy nghĩ
của Ma Văn Kháng dành cho văn chương.

Luận văn Thạc sĩ
- 21
- Đỗ Thanh Hương


1.2.1. Ý kiến về truyện ngắn:
Phố cụt được biết đến như tác phẩm đầu tay, đánh dấu sự khởi
nghiệp của một văn nghiệp rộng dài. Với Ma Văn Kháng, một truyện ngắn
đích thực, “nên là” và “cần là” “một lát cắt gọn ghẽ”. Nhà văn quan niệm
“Theo tôi hiểu, một tác phẩm trên dưới mười ngàn chữ không nên ngổn

ngang quá [35 - tr 56, 57) Nghĩa là, dung lượng câu chữ trong tác phẩm
được đặt trong mối tương quan phù hợp với dung lượng đời sống mà nó
phản ánh qua những trang viết của mình.
Thực tế, nếu như tiểu thuyết là trọn vẹn một thân cây cổ thụ ngàn
năm, thì truyện ngắn chỉ nên là một lát cắt. Qua lắt cắt ấy, người ta có thể
hiểu về cả một đời cây, đời người. Đếm số vòng trên tiết diện lát cắt thân
cây suy ra số tuổi cây, ngẫm nghĩ những biến cố dồn nén trong một tình
huống, lát cắt cuộc sống để hiểu cả một đời người. Truyện ngắn Ma Văn
Kháng một lần nữa minh họa một cách sinh động và thuyết phục cho quan
niệm ấy về truyện ngắn.
Thoạt kì thủy là nước đâu có kể chuyện gì ghê gớm. Chỉ là những
một buổi sáng như bao buổi sáng của một khu dân cư mới hình thành mỏi
mòn xếp hàng chờ nước. Những chuyện dở khóc dở cười xoay quanh cuộc
vật lộn của bọn người thấp cổ bé họng với quyền uy của Ông nước máy.
Trong khoảng nhỏ hẹp của cái sân chờ quanh vòi nước máy,
trong khoảng ngắn ngủi từ tinh mơ đến trời sáng của một ngày, ngần ấy con
người chen chúc, chờ đợi, đối thoại, tranh luận, cãi vã, xô xát, nhường nhịn,
giúp đỡ, chia sẻ, cãi nhau, can nhau, đánh nhau, thậm chí là cả bắt đầu yêu
nhau. Đủ mọi sắc thái. Cuộc sống muôn hình vạn trạng dồn lại trong một
khoảnh khắc đời sống đậm đặc, nơi con người bộc lộ đầy đủ và trọn vẹn
nhất phẩm chất cũng như bản chất của mình. Nhà văn chỉ cần chớp lấy cảnh
Luận văn Thạc sĩ
- 22
- Đỗ Thanh Hương

tượng đặc biệt ấy, chỉ cần lọc lại cái lát cắt ấy, đã đủ để dựng lên cả một bức
tranh chân thực và sinh động.
Lũ tiểu mãn ngập bờ là một dẫn chứng khác cho cách quan niệm của
Ma Văn Kháng “chưa bao giờ tôi dồn cả một đời người trong một truyện
ngắn, mà chỉ lấy ra một đoạn, một thời gian nào đó, hoặc ghi lại một cảnh

đời với vài ba nhân vật” [35 -tr57) . Tác phẩm chỉ diễn ra trong khoảng thời
gian từ “ngả trưa sang chiều” ngày hôm trước, khi nhân vật tên Biên, người
của huyện ủy đi công tác xuống xã, đứng mắc kẹt bên “dải nước mênh
mông, đỏ ngầu, sùng sục như thác đổ” cho đến sáng hôm sau, khi nhận tin
về cái chết tự sát của My, cô gái đêm qua chèo thuyền đưa anh vượt dòng
nước lũ. Chỉ chưa đầy một ngày ngắn ngủi, anh đã vỡ lẽ ra cái điều mà nhiều
khi cả đời người mới kịp thấm thía: “Cuộc sống tưởng là dung dị mà có biết
bao ngóc ngách ẩn khuất những hung bao bất ngờ khủng quá và con người
sao mà yếu đuối khốn khổ thế”. Một cơn lũ có thật gắn với một cơn thác lũ
oan nghiệt đời người. Một dòng nước mênh mông có thật gắn với “một dòng
sông suy tưởng không đáy” mở ra miên man trong tâm tưởng. Từ một
khoảnh khắc ngắn ngủi, từ một lát cắt nhỏ bé, câu chuyện đã mở ra bao điều
suy tưởng lớn lao.
Truyện ngắn chỉ là một lát cắt cuộc sống. Và đã là truyện ngắn thì
không nên dông dài. Quan niệm của Ma Văn Kháng là vậy. Nhưng vấn đề ở
chỗ, trong dòng chảy bất tận không cùng của cuộc sống, biết “cắt” lấy khúc
nào! Dồn nén những gì trong một câu chuyện không dài, để dù viết ngắn,
nhưng không tạo cho người đọc cảm giác viết thiếu, viết chưa tới. Đó cũng
là vấn đề chung đặt ra cho mọi cây bút muốn thành danh ở thể loại truyện
ngắn.
Giải quyết vấn đề này, có người dùng khái niệm hoàn cảnh điển hình.
Phải tạo ra một hoàn cảnh điển hình, để khi đặt nhân vật vào hoàn cảnh đó,
Luận văn Thạc sĩ
- 23
- Đỗ Thanh Hương

nhân vật có thể bộc lộ trọn vẹn đầy đủ và trọn vẹn mọi phẩm chất. Phải chọn
lựa một hoàn cảnh điển hình, nơi thực tại đời sống phô diễn đầy đủ và trọn
vẹn những biểu hiện chân thực và sống động, để ý tưởng, chủ đề, cái góc
cạnh cuộc sống mà nhà văn muốn phản ánh, trở nên gần gũi, thuyết phục

nhất với bạn đọc.
Lựa chọn hoàn cảnh điển hình như vậy, thực chất chính là vấn đề xây
dựng tình huống. Nắm được tình huống là nắm được ý đồ và tư tưởng tác
giả. Bởi lẽ, tình huống chính là điểm mấu chốt của diễn biến truyện ngắn, là
điểm hội tụ, châu tuần, chi phối và quyết định mọi yếu tố nghệ thuật trong
truyện ngắn: không thời gian, nhân vật, ngôn ngữ…. Ta có thể thấy được vai
trò đặc biệt quan trọng của tình huống truyện ngắn ngay trong hai ví dụ vừa
phân tích ở trên. Việc dồn nén một loạt diễn biến, sự kiện, tình tiết trong một
khoảng thời gian hạn hẹp, đẩy câu chuyện lên đến cao trào với những chi tiết
đắc địa chính là những biểu hiện cụ thể của việc xây dựng tình huống trong
Thoạt kì thủy là nước và Lũ tiểu mãn tràn bờ, hai trong số những tác
phẩm tiêu biểu của truyện ngắn Ma Văn Kháng giai đoạn về sau.
Tình huống đắc địa có khả năng hàm chứa một dung lượng tư tưởng
rất cao, do đó giúp truyện ngắn vượt qua sự hạn chế về dung lượng câu chữ
để vẫn có phát huy thế mạnh đặc biệt trong việc khả năng truyển tải những
chủ đề mang tầm vóc tư tưởng lớn lao.
Bàn về vai trò của xây dựng tình huống là câu chuyện quen thuộc với
người viết truyện ngắn. Nhưng đặt ra vấn đề đi tìm một cái tứ cho những
truyện ngắn của mình, lại là câu chuyện riêng của Ma Văn Kháng:
“Bắt đầu viết truyện, tôi gắng tìm ra một cái tứ. Nó là gì ư, nó là chủ
đề đấy, nhưng gắn với hình ảnh, với chất liệu” [35 – tr55]. Nói cách khác,
cái tứ mà nhà văn nhắc tới, chính là hóa thân của tư tưởng chủ đề trong một
hinh hài cụ thể.
Luận văn Thạc sĩ
- 24
- Đỗ Thanh Hương

Có thể lấy truyện ngắn Dòng suối nhỏ làm ví dụ. Chủ đề tác phẩm
hướng tới là ca ngợi công lao của những người chiến sĩ cách mạng với bản
làng. Chủ đề ấy viết không khéo sẽ rất dễ rơi vào tình trạng sống sượng,

cứng nhắc như khẩu hiệu hô hào. Ma Văn Kháng chọn cho mình một cách
riêng: Gắn chủ đề với một hình ảnh cụ thể: dòng suối. Ở một nơi như vùng
Mèo Cao Sơn, “nơi nước rất hiếm. Có khi Tết đến, gạn lắm, mỗi nhà cũng
chỉ được chia có nửa thùng nước”, thì hình ảnh so sánh “người chiến sĩ kia
như một con suối nhỏ, mang lại tươi mát cho đời sống bản làng” có một sức
biểu cảm đặc biệt.
Tương tự như vậy, liên hệ giữa người và cỏ, gợi lên sự dẻo dai, bền bỉ,
sức sống âm ỉ mà mạnh mẽ, mãnh liệt không gì tiêu diệt nổi, cũng là khởi
đầu của cái tứ trong một truyện ngắn khác của Ma Văn Kháng. Có thể nói,
thế mạnh của những “cái tứ” chính là việc làm cho chủ đề tác phẩm trở nên
gần gũi, dễ hiểu, dễ cảm, đi vào lòng người. Mặt khác, cũng giống như tình
huống, việc xác định được cái tứ cụ thể cho tác phẩm, sẽ giúp cho nhà văn
viết truyện “gọn gàng, thoải mái hơn”.
Và cũng chính những cái tứ ấy, làm nên một chất thơ riêng rất đặc
trưng của truyện ngắn Ma Văn Kháng, mà bản thân nhà văn đã gọi bằng cái
tên “Chất thơ chân chính”. Ma Văn Kháng quan niệm “Truyện ngắn phải có
cái gì hơi bay bay một tí, không nên mơ màng quá, mà trần trụi quá cũng
không ổn”. Đó là lý do tại sao Ma Văn Kháng cho rằng “viết như ông
Pautopxki là hơi lạm phát chất thơ”. Theo ông, mối quan hệ giữa cái thơ với
cái thực nên ở thế cân bằng, hài hòa: “Tôi thích những truyện có một cốt
truyện thực, lại phải có một cái bóng đằng sau, giúp cho người đọc liên
tưởng sang nhiều chuyện khác” [35 – tr54,55]
Bàn về nghệ thuật viết truyện ngắn, Ma Văn Kháng cũng chú ý nhấn
mạnh tới nhiều mặt của phương diện nghệ thuật, từ việc xây dựng nhân vật
Luận văn Thạc sĩ
- 25
- Đỗ Thanh Hương

(nhân vật của truyện ngắn không thể phức tạp, theo kiểu truyện dài, nhưng
vẫn có thể có nhiều khía cạnh, khiến cho người đọc cảm thấy cả nhân vật

của nó và tác giả của nó không giản đơn) cho đến tầm quan trọng của việc
cân nhắc, sử dụng câu chữ, lựa chọn từng kiểu câu cho phù hợp. Tuy nhiên,
đau đáu trong trái tim người nghệ sĩ ấy, vẫn là một nỗi niềm rưng rưng: Dù
thế nào chăng nữa, “cái nguồn đời vẫn là quyết định tất cả”. Bởi xét cho
cùng, mọi lý thuyết cũng đều là màu xám, chỉ có cây đời sẽ mãi mãi xanh
tươi.
1.2.2. Ý kiến về Tiểu thuyết:
a) Tiểu thuyết trong mối tương quan với truyện ngắn:
Với tác phẩm đầu tay Phố cụt, Ma Văn Kháng đã “chạm ngõ” văn
chương bằng truyện ngắn. Tại sao không phải là tiểu thuyết hay tự truyện,
hồi ký? Bản thân suy nghĩ, cách nhìn của nhà văn về đặc trưng của từng thể
loại chính là chìa khóa cất giấu câu trả lời.
Nếu coi truyện ngắn như một lát cắt của cuộc sống thì tiểu thuyết lại
là cả cuộc sống toàn vẹn với mọi chiều kích. Nếu truyện ngắn chỉ là một mắt
xích, một quãng đoạn, thì tiểu thuyết chính là trọn vẹn quá trình. Hay như
chính Ma Văn Kháng đã dẫn lời G.Mackét: “Viết tiểu thuyết là xây các viên
gạch, viết truyện ngắn là chuẩn bị hồ và vữa. Truyện ngắn là mũi tên cắm
vào bia. Tiểu thuyết là cuộc đi săn thỏ. Truyện ngắn là quãng nghỉ xả hơi, là
bước thực tập” [34 – tr14] Điều đó đã giải thích tại sao một nhà văn trẻ sau
khi đã thành công ở thể loại tự sự cỡ nhỏ là truyện ngắn, không bao giờ chịu
dừng lại ở đó lâu. “Tiểu thuyết mới là cái đích họ nhắm tới. Nó là giấc mộng
huy hoàng ở một đời văn. Nó là món nợ đời canh cánh chưa trả được còn
chưa sống yên ổn được”.[ 47 – tr225]
Bàn về tiểu thuyết, Ma Văn Kháng luôn có ý thức đặt nó trong mối
tương quan, đối chiếu với truyện ngắn, để làm nổi bật những khác biệt căn

×