Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.47 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2





NGUYỄN THỊ THUỶ





THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ


Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 602232



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH









HÀ NỘI, 2011
Lời cảm ơn

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS.Nguyễn Thị Kiều Anh,
ngời hớng dẫn khoa học, đã tận tâm giúp đỡ em trong quá trình học tập và
thực hiện luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn khoa ngữ văn, cảm ơn phòng Đào tạo sau
đại học- trờng Đại học s phạm Hà nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ,
động viên chúng em trong khoá học.
Nhân dịp này, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Sở Giáo dục và
Đào tạo Bắc Giang, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ Thuật tỉnh Bắc Giang
và tất cả bạn bè, đồng nghiệp, cùng những ngời thân yêu trong gia đình đã
dành cho tôi sự giúp đỡ, chia sẻ rất quý báu trong suốt thời gian học tập
nghiên cứu.
Bắc Giang, tháng 6 năm 2011
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thuỷ
Lời cam đoan

Thực hiện luận văn này, tôi xin cam đoan số hiệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực. Nội dung luận văn không hề trùng lặp với các
đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn đã đợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn hoàn toàn
chính xác, đợc trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng, minh bạch. Nếu sai, tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi xin đề nghị Hội đồng khoa học xem xét và ghi nhận kết quả quá
trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Xin trân trọng cảm ơn!
Bắc Giang, tháng 6 năm 2011
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thuỷ
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU 0
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
6. Phương pháp nghiên cứu 7
7. Đóng góp của luận văn 7
8. Bố cục của luận văn 7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VỀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ 8

1.1. Khái niệm về nhân vật và thế giới nhân vật 8
1.1.1. Khái niệm về nhân vật 8
1.1.2. Khái niệm về thế giới nhân vật 10
1.2. Chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học 12
1.3. Các loại nhân vật văn học 12
1.4. Nhân vật nữ trong văn học 14

1.4.1. Nhân vật nữ trong văn học thế giới 14
1.4.2. Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam 17
1.4.3. Nhân vật nữ và quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ 24
CHƯƠNG 2: CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN THỊ
THU HUỆ 34
2.1. Nhân vật bi kịch 34
2.2. Nhân vật kiếm tìm hạnh phúc 45
2.3. Nhân vật tự vấn 49
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ 56
3.1. Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật 56
3.1.1 Nghệ thuật chọn tình huống có tính chất tâm lí 57
3.1.2. Nghệ thuật khám phá tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm. 58
3.2. Giọng điệu 64
3.2.1. Giọng điệu phân tích, chiêm nghiệm 65
3.2.2. Giọng khinh bạc, xót xa 66
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật 69
3.3.1. Không gian, thời gian hiện thực đời thường 70
3.3.2 . Không gian, thời gian ảo 76
3.3.3. Không gian, thời gian tâm trạng 78
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 1975, nhất là sau năm 1986, nền văn xuôi Việt Nam đã có

nhiều khởi sắc. Một trong những yếu tố làm nên sự phong phú, đa dạng của
văn học giai đoạn này chính là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các cây bút
nữ. Bên cạnh những cây bút nữ tên tuổi một thời như Vũ Thị Thường, Dương
Thu Hương là đội ngũ những cây bút trẻ trung hơn, sôi nổi hơn như Phạm Thị
Hoài, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh và gần đây là một loạt các cây bút trẻ đầy triển vọng như Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Di Li Với những nỗ lực đáng ghi nhận, họ đã tạo
ra những “lối nẻo riêng” cho mình.
Tác giả Bích Thu qua các bài viết: “Những dấu hiệu đổi mới của văn
xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống mô típ chủ đề”, “Những thành tựu truyện
ngắn sau năm 1975”, “Văn xuôi của phái đẹp”, đã đánh giá cao các sáng tác
của các nhà văn nữ trẻ. Tác giả cho rằng đó là “Một lớp trẻ dồi dào nhân
lực”[52]. Và bằng tầm nhìn bao quát của một nhà phê bình, Bích Thu nhận
định: “Sự xuất hiện rầm rộ của các cây bút trẻ đã làm thay đổi bộ mặt và dáng
vẻ của văn xuôi hôm nay”[53]. Không chỉ quan sát sự xuất hiện của đội ngũ
tác giả nữ, Bích Thu còn có những ý kiến đánh giá về giá trị văn xuôi phái
đẹp rất tinh tế: “Văn chương của phái đẹp hiện nay sắc và sâu khi khai thác đề
tài thế sự đời tư với nội dung nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng và bén
ngọt, diết dóng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những con người
sống quanh mình” [54].
Ngoài ra, còn có một số tác giả trong bài viết của mình cũng đề cao
các cây bút nữ. Phạm Xuân Nguyên đánh giá: “Một nét đặc điểm của mùa
truyện ngắn hôm nay là sự xuất hiện đông đảo tự tin của đội ngũ viết trẻ và

2
nhất là các cây bút nữ ( ) Trên trang viết của họ nỗi buồn, nỗi đau nhân thế
luôn được nhìn nhận khía cạnh tinh tế rất phụ nữ” [33]. Vũ Tuấn Anh trong
bài viết “Đổi mới văn học vì sự phát triển” cũng ghi nhận các cây bút nữ đã
có được “những dấu ấn cá nhân trong tư duy nghệ thuật và cách thể hiện” [1].
Trong số những cây bút nữ nổi lên ngay từ những năm 1990 đến nay,

Nguyễn Thị Thu Huệ được xem là một gương mặt đáng chú ý, một cây bút có
duyên trong lĩnh vực truyện ngắn. Chị đã chinh phục người đọc bằng ngòi bút
tinh tế, giản dị mà cũng rất từng trải, thâm trầm. Sinh năm 1966, tuổi nghề
cũn trẻ nhưng chị đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thu Huệ đạt giải nhì
cuộc thi viết truyện ngắn của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1986); giải nhì
cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền phong (1993). Cùng
năm đó, chị còn vinh dự nhận giải A cuộc thi viết về đề tài Hà Nội của Hội
Nhà văn năm 1994, chị đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn
nghệ Quân đội tổ chức và nhận thưởng của Hội Nhà văn cho tập truyện “Hậu
thiên đường”. Qua những trang viết của chị, có thể nhận ra một tư duy khá
sắc sảo và sở trường nắm bắt những cái mới, thời sự của cuộc sống đương đại.
Phần lớn truyện ngắn của chị đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, phản ánh các
vấn đề gay gắt của cuộc sống hiện đại, khai thác những góc uẩn khúc “Thế
giới bên trong” của con người. Tác phẩm của chị góp phần làm rõ hơn những
nét mới mẻ trong quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân, cá thể, con
người nhiều chiều trong “Tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Trong đó nhân
vật phụ nữ được đặc biệt quan tâm. Đó là những con người hiện đại, mạnh
mẽ, dám sống thực với mình. Họ có thể là những người đàn bà từng trải, bao
dung với con cháu; những người mẹ, người vợ lo toan cho gia đình và phấn
đấu cho sự nghiệp; những cô gái háo hức vào đời; những người phụ nữ khát
khao hạnh phúc, tìm kiếm tình yêu…Và đặc biệt là đằng sau mỗi người phụ

3
nữ bao giờ cũng ẩn chứa nhiều điều mà không phải lúc nào họ cũng muốn bộc
lộ, xẻ chia.
Nghiên cứu đề tài: Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ, chúng tôi mong muốn được góp một phần nhỏ trong tiếng nói
chung vừa khẳng định những thành công về một trong những phương diện
nghệ thuật viết truyện ngắn của Thu Huệ, đồng thời vừa thấy được những
đóng góp của nhà văn vào quá trình cách tân văn học Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề
Là cây bút đều đặn, miệt mài và thành công hơn cả ở thể loại truyện
ngắn, Nguyễn Thị Thu Huệ và tác phẩm của chị đã thu hút được sự chú ý của
giới nghiên cứu, phê bình.
Trong bài viết “Thế hệ thứ ba” in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội
10/1994, nhà văn Hồ Phương nhận xét: “Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây
bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm, sao còn ít tuổi mà Huệ lại
lọc lõi thế. Nó như con phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng mình. Ruột
gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [36].
Trong bài: “Hồi ức một binh nhì và Bến trần gian”, tác giả Kim Dung
lại cho rằng: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt – vừa “bụi
bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa thanh
khiết. Một cái gì đó không thuần nhất, không đơn giản, thậm chí có khi còn
đối chọi nhau trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ”[6]
Bùi Việt Thắng (1994) nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ: “Nhân vật nữ của Thu Huệ thường cô đơn, dường như tác giả
quan niệm nó là mặt trái của tình yêu thương” [46]. Tác giả còn chỉ rõ: “Một
sự vật vã khắc khoải canh cánh trong mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ”,
“cây bút trẻ này tỏ rõ sự sẻ chia, cảm thông với phụ nữ vì ai cũng mang khuôn

4
mặt con gái” [46]. Sau gần một thập kỷ (2002), khi phác thảo chân dung Thu
Huệ trong lời giới thiệu về bốn cây bút nữ, tác giả một lần nữa khẳng định đối
tượng mà Thu Huệ quan tâm tới là “Những thiên đường và hậu thiên đường
của đời sống con người, đặc biệt là phụ nữ” [43].
Lý Hoài Thu (1994) trong nhận xét của mình lại đưa ra vấn đề mà Thu
Huệ muốn gửi gắm qua nhân vật nữ: “Nhìn đời, nhất là nhìn nhân vật nữ, Thu
Huệ nhìn ra biến thái tinh vi của bi kịch tình yêu với những biểu hiện dị
thường của nó” [55]. Từ bi kịch trong cuộc đời của người phụ nữ, Thu Huệ
không chỉ nhìn thấy những biểu hiện dị thường tinh vi của tình yêu thời hiện

đại mà còn nhận xét về thế giới đàn ông- những người gây đau khổ cho phụ
nữ: “'từ những người loe xoe lôi những bông hoa trên bàn họp để tặng phụ nữ,
đến anh chàng ngồi nhồm nhoàm ăn uống một cách thô tục sau khi cùng
người tình lên thiên đàng về, từ cái người đàn ông ra ngõ gặp người tình sợ
biết nên cầm luôn cái xô như người đi đổ rác, đến lão tuổi đã xế bóng, thích
ăn xôi sáng cho chắc bụng vẫn thèm khát tấm thân cô gái mười sáu tuổi trẻ
trung và bòn rút của cô từng đồng xu một” [55],
Trong Văn nghệ Trẻ ngày 25/3/1996, qua bài viết: “Những ngôi sao
nước mắt”, Đoàn Hương lại có nhận xét tinh tế về văn, về cách xây dựng
nhân vật và nghệ thuật trần thuật của Thu Huệ như sau: “Huệ có lối viết văn
như bị “lên đồng”. Trong truyện ngắn của mình không phải là cô “kể” cho
chúng ta nghe mà là cô “lôi” chúng ta đi theo nhân vật. Đó là phong cách độc
đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ”. Và theo nhà nghiên cứu: “Những nhân vật
của cô, những nhân vật mà bao giờ Thu Huệ cũng để cho nó bước đi những
bước chông chênh trên vực thẳm của cuộc đời không có dây bảo hiểm…Tôi
ngờ rằng những nhân vật của cô, đều là một phần máu thịt của cuộc đời cô…
Những truyện ngắn của Huệ được viết, được kể lại bằng chính ngôn ngữ nhân
vật: nhẹ nhàng và thanh thản trong những tình huống, những cảnh ngộ lại

5
không yên tĩnh chút nào. Cũng như những nhân vật của cô, cô không hề lên
án một ai dù là một bà mẹ ích kỷ trong Hậu thiên đường, một người đàn ông
tầm thường, nhạt nhẽo và giả dối trong Cát đợi, hoặc những ông bố, bà mẹ
quái gở trong Phù thủy,… Nhưng đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
ta thấy những trang viết không bình lặng. Những nhân vật của cô làm cho ta
đau đớn, âm thầm trách móc ta và thức tỉnh ta”.
Nguyễn Việt Hòa, trong bài “Lãng quên và hy vọng. Nhân đọc Nào ta
cùng lãng quên- tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ”, đã nhận xét:
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt,
nó toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ”.

Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, ở
một mức độ toàn diện, Hồ Sỹ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Thị
Thu Huệ trên bình diện thi pháp. Theo tác giả “Nhà văn đã vượt ra ngoài
phương thức miêu tả vừa thực, vừa hư, vừa trần thế vừa ảo mộng, chuyện
hiện tại, chuyện dĩ vãng nhằm tạo dựng một cuộc sống có dung tích, khai thác
chiều sâu những góc uẩn khúc” thế giới bên trong “của con người” [63]. Tác
giả còn nhận xét những nhân vật tôi trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ: “Những nhân vật tôi trong truyện của Thu Huệ thường bắt đầu bằng cụm
từ “tôi tưởng tượng”, “tôi như bay trên chín tầng mây”, “tôi có cảm giác như
mình hóa đá” tất cả đó là cảnh hư nhằm nói cái thực đa diện hơn, có kích
thước hơn, có tần số ý nghĩa sâu sắc hơn. Tôi gọi đó là thi pháp mở. Thi pháp
mở còn được thể hiện ở chiều sâu nội cảm, nội tâm của người viết hoặc của
nhân vật “tôi”. Phương thức thể hiện này không chỉ làm cho hiện thực được
phản ánh có chiều sâu mà còn giàu sức khái quát, sức ám ảnh lớn. Đây cũng
là một đặc điểm độc đáo trong thi pháp truyện ngắn Nguyễn thị Thu Huệ.

6
Nhìn chung qua các bài viết, Thu Huệ được đánh giá là tác giả có khả
năng nắm bắt và phản ánh hiện thực nhạy bén, sâu sắc ,có giọng văn đặc biệt.
Nhân vật nữ trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ được nhìn nhận chủ
yếu ở đặc điểm khao khát hạnh phúc và gặp nhiều bi kịch.Tuy nhiên, qua
khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu, tìm hiểu về thế
giới nhân vật nữ trong truyện ngắn - một trong những thành công nổi bật của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến, kết quả của người đi
trước, cùng với sự đánh giá, kiến giải của riêng mình, chúng tôi triển khai đề
tài “Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ”.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, khám phá thế giới nhân vật
nữ cũng như nghệ thuật xây dựng loại nhân vật này trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng góp của tác

giả vào tiến trình văn học Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nhân vật văn học .
- Vận dụng những kiến thức lý luận trên vào việc tìm hiểu thế giới nhân
vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Thu Huệ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: Các nhân vật nữ trong truyện ngắn của
Nguyễn Thi Thu Huệ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Thu Huệ chúng tôi
dựa vào 4 tập truyện ngắn của tác giả:

7
* Cát đợi (1992); Hậu thiên đường (1993); 21 truyện ngắn (2001); Nào
ta cùng lãng quên (2003).
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống
- Phương pháp hệ thống lịch sử - chức năng
- Phương pháp so sánh
7. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở lý luận về nhân vật văn học, vận dụng để tìm ra các loại
hình nhân vật cùng một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng những
nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Khẳng định sự độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ trong sáng tác
truyện ngắn (trên cơ sở đối sánh với một số nhà văn nữ cùng thời), qua đó
thấy được sự đổi mới về tư duy nghệ thuật cũng như vị trí của nhà văn trong
nền văn xuôi đương đại.
8. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nhân vật văn học và quan niệm nghệ thuật
về con người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Chương 2: Các loại hình nhân vật nữ trong truyện ngắn Thu Huệ
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ

8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ
1.1. Khái niệm về nhân vật và thế giới nhân vật
1.1.1. Khái niệm về nhân vật
*Về phương diện thuật ngữ
Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm. Trong tiếng Hy Lạp cổ,
“nhân vật” (đọc là persona) lúc đầu mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên
trên sân khấu. Theo thời gian, thuật ngữ này đã được sử dụng với tần số nhiều
nhất, thường xuyên nhất để chỉ đối tượng mà văn học miêu tả và thể hiện.
Đôi khi nhân vật văn học còn được gọi bằng các thuật ngữ khác như:
“vai” (actor) và “tính cách” (character). Tuy nhiên, các thuật ngữ này, theo
chúng tôi, có nội hàm hẹp hơn so với “nhân vật”.
Thuật ngữ “vai” chủ yếu nhấn mạnh đến tính chất hành động của cá
nhân, thích hợp với loại nhân vật hành động. Còn thuật ngữ “tính cách” lại
thiên về chỉ những nhân vật có tính cách. Trong thực tế sáng tác, không phải
nhân vật nào cũng hành động, đặc biệt là những nhân vật thiên về “suy tư”, và
cũng không phải nhân vật nào cũng có tính cách rõ rệt.Từ đó có thể thấy các
thuật ngữ “vai”, “tính cách” không bao quát dược hết những biểu hiện khác
nhau của các loại nhân vật trong sáng tác văn học.
“Nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú, đủ khả năng khái quát

những hiện tượng phổ biến của tác phẩm văn học ở mọi bình diện và mọi cấp
độ. Như vậy, thuật ngữ “nhân vật” là đúng đắn và đầy đủ nhất.
*Một số quan niệm trong nghiên cứu, phê bình về nhân vật văn học

9
Đã có khá nhiều những quan điểm khác nhau về nhân vật văn học trong
giới nghiên cứu, phê bình. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một số quan niệm
về nhân vật có trong từ điển và giáo trình lý luận văn học.
- Trong Từ điển Văn học :
“Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để
bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính
chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật, do đó, là nơi tập
trung giá trị tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm văn học” [34; tr86]
Với định nghĩa này, các nhà biên soạn từ điển đã nhìn nhận nhân vật từ
khía cạnh vai trò, chức năng của nó đối với tác phẩm và từ mối quan hệ của
nó với các yếu tố hình thức tác phẩm. Có thể nói đây là một định nghĩa tương
đối toàn diện về nhân vật văn học.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân đề xuất một cách
nhìn khác. Nhân vật được ông xem xét trong mối tương quan với cá tính sáng
tạo, phong cách nhà văn, trường phái văn học: “nhân vật văn học là một trong
những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh
hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng
nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của
con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có
khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho
những đặc điểm giống con người” [3; tr.241]. Theo Lại Nguyên Ân, nhân vật
văn học sẽ là một trong những yếu tố tạo nên phong cách nhà văn và màu sắc
riêng của một trường phái văn học. Nhà nghiên cứu còn quan tâm chỉ ra
những đối tượng tiềm tàng khả năng trở thành nhân vật văn học.
Các tác giả của cuốn Từ điển Thuật ngữ văn học quan niệm về nhân

vật có phần thu hẹp hơn: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả

10
trong tác phẩm văn học chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm”
[12; tr.235].
Ngoài ra, dựa trên tiêu chí chức năng phản ánh hiện thực của tác phẩm
văn học, nhân vật còn được coi là phương tiện để nhà văn tái hiện đời sống,
mở rộng thế giới nghệ thuật cho tác phẩm: “Nói đến nhân vật văn học là nói
đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn chương bằng
phương tiện văn học” [30; tr. 277].
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, nhân vật là một khái niệm tương đối
ổn định trong nghiên cứu phê bình văn học. Trước nay dù đã có khá nhiều
cách định nghĩa về nhân vật, song tập trung lại các ý kiến đều gặp nhau trong
sự khẳng định: nhân vật văn học là thành tố quan trọng trong tác phẩm, là
phương tiện để nhà văn phản ánh đời sống và được nhà văn xây dựng bằng
những yếu tố nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu về tác phẩm văn chương cần
phải tiếp cận nhân vật để chỉ ra cái mới trong ngòi bút nhà văn và đưa ra kết
luận về những đóng góp riêng của nhà văn đó.
1.1.2. Khái niệm về thế giới nhân vật
“Thế giới” là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển
Triết học, “Thế giới” có thể hiểu:
Theo nghĩa rộng, thế giới là toàn bộ hiện thực khách quan (tất cả những
tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người). “Thế giới” là nguồn gốc
của nhận thức [59; tr.1083].
Theo nghĩa hẹp, thế giới dùng để chỉ đối tượng của vũ trụ học, nghĩa là
toàn bộ thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta đã chia bộ
phận thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực nhưng không có ranh giới tuyệt
đối: Thế giới vĩ mô và thế giới vi mô [59; tr.1083].

11

Như thế có thể nói “thế giới là một phạm vi rất rộng, một vũ trụ rộng
lớn tồn tại xung quanh con người và độc lập bên ngoài ý thức con người.
Vậy “Thế giới nhân vật” là gì? Khái niệm “Thế giới nhân vật” là một
phạm trù rất rộng. “Thế giới nhân vật” là một tổng thể những hệ thống nhân
vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư
tưởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật
của nhà văn, có tổ chức và sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của
nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, “Thế giới nhân vật” cũng là sản phẩm
tinh thần, là kết quả của trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện
trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Đó là một mô hình nghệ
thuật, có cấu trúc riêng, có qui luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm
lý, thời gian, không gian, xã hội,… gắn liền với một quan niệm nhất định của
chúng về tác giả. “Thế giới nhân vật” là cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn
diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác
phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩa, tư tưởng, tình cảm
của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu xã hội, với gia đình…“Thế
giới nhân vật” vì thế bao quát sâu rộng hơn hình tượng nhân vật. Con người
trong văn học chẳng những không giống với con người trong thực tại về tâm
lý, hoạt động mà còn có ý nghĩa khái quát, tượng trưng.
Trong “Thế giới nhân vật”, người ta có thể phân chia thành các kiểu
loại nhân vật nhỏ hơn (nhóm nhân vật) dựa vào những tiêu chí nhất định.
Nhiệm vụ của người tiếp nhận văn học là phải tìm ra chìa khóa để bước qua
cánh cửa và bước vào khám phá thế giới nhân vật đó. Do đó, nghiên cứu “Thế
giới nhân vật” cũng khác với phân tích hình tượng nhân vật. Trong lịch sử
văn học, có thể nói, mỗi tác giả lớn đều có “Thế giới nhân vật” riêng. Mỗi thể
loại văn học cũng có “Thế giới nhân vật” với qui luật riêng của nó.

12
1.2. Chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự thể hiện đời sống trong tác

phẩm văn học. Nó không chỉ là “tiêu điểm để bộc lộ chủ đề” mà còn là nơi
“tập trung giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm”.
Trong cuốn Văn chương dẫn luận, G.N.Pospelov nhấn mạnh: “Nhân
vật là phương diện có tính thứ nhất trong hình thức tác phẩm. Nó quyết định
phần lớn vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa ngôn ngữ, vừa kết cấu
[38;tr. 43]. Nhân vật là yếu tố vừa thuộc về nội dung vừa thuộc về hình thức
tác phẩm. Nhân vật là điều kiện thiết yếu để sự khám phá, sự đánh giá - lý
giải, sự miêu tả mang tính nghệ thuật của tác giả về đời sống đạt đến tính toàn
vẹn, có chiều sâu và có sức hấp dẫn riêng đối với độc giả. Có thể nói, yếu tố
nhân vật chi phối mạnh mẽ đến sự thành công hay thất bại của tác phẩm.
Nhân vật văn học sẽ có nhiều chức năng tương ứng với nhiều vai trò
khác nhau trong tác phẩm. Nhìn một cách tổng quát, các chức năng đó là :
Thứ nhất, miêu tả và khái quát các loại tính cách trong xã hội.
Thứ hai, là công cụ để nhà văn sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của tác
phẩm, là chiếc chìa khóa để nhà văn mở cánh cửa bước vào hiện thực đời
sống vô cùng rộng lớn, đặt ra những vấn đề mới mẻ, sâu sắc.
Thứ ba, biểu hiện tư tưởng, quan niệm của nhà văn về con người và
cuộc sống.
Thứ tư, quyết định hình thức tác phẩm, tạo nên mối liên kết giữa các
yếu tố thuộc hình thức tác phẩm.
Hiểu được chức năng của nhân vật văn học, người viết sẽ có thêm cơ sở
lý luận để nghiên cứu đề tài này.
1.3. Các loại nhân vật văn học

13
Nhân vật văn học là một thế giới vô cùng phong phú và đa dạng. Nhân
vật càng độc đáo thì thường không có sự lặp lại. Song nhìn tổng thể trong tác
phẩm văn học, các nhà nghiên cứu văn học đã chia thế giới nhân vật thành các
kiểu loại khác nhau để dễ tiếp nhận, phân tích, đánh giá.
Thứ nhất, dựa vào vai trò của nhân vật với nội dung và hình thức của

tác phẩm có nhân vật chính, nhân vật trung tâm và nhân vật phụ. Trong đó
nhân vật chính đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều và liên quan đến các sự
kiện chủ yếu trong tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của
mình. Trong nhân vật chính lại nổi lên nhân vật trung tâm xuyên suốt từ đầu
đến cuối tác phẩm, về mặt ý nghĩa, đó là nơi qui tụ các mối mâu thuẫn của tác
phẩm. Còn lại là các nhân vật phụ mang tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính
chất phụ trợ, bổ sung.
Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm tính cách của nhân vật và lý tưởng xã hội
thẩm mỹ của nhà văn lại có thể chia thành nhân vật chính diện và nhân vật
phản diện. Hai kiểu nhân vật này cũng mang tính lịch sử. Trong đó nhân vật
chính diện mang lý tưởng, quan niệm đạo đức tốt đẹp của tác giả và của thời
đại, được nhà văn khẳng định, đề cao, còn nhân vật phản diện ngược lại,
mang phẩm chất xấu trái với lý tưởng đạo đức, đáng lên án và phủ định.
Thứ ba, dựa theo sự phân chia loại thể theo truyền thống của Aristôt thì
gồm có nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự, nhân vật kịch. Trong đó nhân vật trữ
tình được thể hiện chủ yếu qua thế giới tinh thần, nội tâm và cảm xúc phong
phú. Nhân vật tự sự là nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm tự sự (truyện,
tiểu thuyết, ký…), thường được hiện lên đầy đủ từ ngoại hình, cử chỉ, ngôn
ngữ đến nội tâm bên trong. Nhân vật tự sự là con người đời thường tham gia
vào các tình huống khác nhau của đời sống để tạo thành chuỗi các tình tiết
xung đột trong tác phẩm. Bên cạnh đó nhân vật kịch là loại nhân vật hiện lên

14
chủ yếu qua hành động, ngôn ngữ, cử chỉ, lời nói và xung đột, ít được miêu tả
cụ thể về ngoại hình.
Thứ tư, dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được phân chia thành:
nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.
Trong đó, nhân vật chức năng là loại nhân vật xuất hiện để thực hiện
một số chức năng nào đó. Loại nhân vật này thường có đặc điểm, tính cách ổn
định với những phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối.

Nhân vật loại hình là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã
hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật nhằm
khái quát cái chung về loại của các tính cách và nhờ vậy được gọi là điển
hình. Loại nhân vật này bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về mặt xã
hội được nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Dĩ nhiên nhân vật loại hình như
mọi nhân vật văn học khác, đòi hỏi một cá tính nhất định, được thể hiện một
cách sinh động qua các chi tiết cụ thể, sinh động, chân thực.
Nhân vật tính cách là lọai nhân vật có tính cách nổi bật, được xây dựng
cụ thể, sinh động như con người thực ngoài đời.
Nhân vật tư tưởng là loại nhân vật có tư tưởng, nhân cách nhưng cơ bản
thể hiện tập trung tư tưởng của tác giả.
Trên đây là những loại nhân vật thường gặp. Sự phân biệt này chỉ
mang tính chất tương đối, nó chỉ nhằm nhấn mạnh nét trội, nét đặc trưng cơ
bản của một nhân vật nào đó.
1.4. Nhân vật nữ trong văn học
1.4.1. Nhân vật nữ trong văn học thế giới
Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống muôn loài và là sản phẩm tuyệt diệu
của tạo hóa. Tuy nhiên sự phản ánh họ trong văn học - cái nhìn nghệ thuật của

15
nhà văn thì mỗi người, mỗi thời lại khác nhau. Hình tượng người phụ nữ vì
vậy cũng mang những nét cá tính riêng, độc đáo; giữa các nhân vật không bị
hòa lẫn, khu biệt nhau nhờ một sức sống riêng mà nhà văn truyền cho nó.
Nếu như trước đây, nhân vật nữ được phản ánh trong văn học còn đơn
điệu theo một mục đích phê phán hay ngợi ca từ cái nhìn đạo đức; sử dụng
nhân vật để chuyển tải một quan điểm, tư tưởng thì giờ đây, đặc biệt trong
những cuốn tiểu thuyết lớn trên thế giới có giá trị, hình tượng nhân vật nữ đã
có sự “lột xác”. Nhà văn đã xem phụ nữ như một khách thể thẩm mỹ độc lập,
như một thế giới riêng đầy bí ẩn và hấp dẫn cần được khám phá và lý giải.
Người phụ nữ hiện lên trong vẻ đẹp nhiều chiều, trong những bi kịch lớn lao

của xã hội. Họ dù xuất hiện dưới góc độ nào cũng vô cùng sống động. Dưới
đây chúng tôi xin dẫn ra một số tên tuổi các nhân vật nữ được yêu mến, để lại
nhiều dấu ấn trong lòng độc giả như:
Scalett Ohara kiêu kỳ trong Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell.
Nhân vật này có sức cuốn hút thật kỳ lạ: vừa mạnh mẽ can trường, vừa yếu
đuối mỏng manh; vừa thông minh tinh ranh vừa ngờ nghệch. Con người này
cũng có lúc cao thượng tốt đẹp sẵn sàng hy sinh nhưng cũng không kém phần
xảo quyệt toan tính. Những mâu thuẫn trong tính cách cùng những giằng xé
trong nội tâm tạo cho Scalett sức hấp dẫn mãnh liệt đối với độc giả.
Bên cạnh Scalett đầy cá tính, dám sống đúng với con người thực của
mình thì nhân vật Maggie trong Tiếng chim hót trong bụi mận gai lại được
Colleen Macugh bao bọc cho một màu sắc lãng mạn. Người đàn ông mà cô
yêu thương duy nhất lại tôn thờ Chúa và coi đó là tình yêu lớn nhất của đời
mình. Đau khổ tuyệt vọng nhưng Maggie không chịu đầu hàng, quyết đấu
tranh suốt cả cuộc đời để giành lấy tình yêu của cha Raphl với Chúa. Nàng
luôn khao khát yêu thương dù trong khoảnh khắc. Cuốn tiểu thuyết đã phản

16
ánh những khao khát rất đỗi bình dị của người phụ nữ. Và độc giả đã thương
cảm cho một mơ ước được yêu thương trọn vẹn không bao giờ thành hiện
thực ở Maggie.
Và với một tâm hồn trong sáng đôn hậu, Natasa trong Chiến tranh và
hòa bình của L.Tônxtôi được ví như “hạt ngọc” biểu trưng cho vẻ đẹp của
người phụ nữ Nga. Chân dung nàng hiện lên trong tác phẩm chân thực mà
sinh động, không chút kiểu cách khác hẳn với Lida hay Elen. Cũng chính tâm
hồn nhạy cảm giàu chất nhạc ấy, Nata đã vực dậy một tâm hồn ngỡ đã khô
cằn, giúp Andray lại tiếp tục sống, yêu thương.
Có thể nói, bất cứ ở đâu, trên quốc gia nào, dân tộc nào người ta cũng
nhận thấy người phụ nữ, người vợ, người mẹ là nguồn đề tài bất tận trong sáng
tạo nghệ thuật. M. Gorki đã từng khẳng định: “Không có phụ nữ thì hoa hồng

không nở, không có người mẹ thì không có thiên tài”. Nhà văn vì thế đã khắc
họa thành công hình ảnh người mẹ trong truyện ngắn Một con người ra đời.
Trong thơ ca, người phụ nữ luôn là đề tài mà ở đó chứa đựng sức biểu
cảm, rung động mạnh mẽ nhất. Với Aragông, nhà thơ tự nhận mình được Tái
sinh từ tình yêu Enxa. Một con người đời thực, một người vợ, người bạn tuyệt
vời, Enxa đã trở thành hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ để nhà thơ thể hiện
những suy tư, tình cảm trước cuộc đời. Nếu không có người phụ nữ, Puskin
cũng không thể có được Tôi yêu em và trở thành nhà thơ tình bậc nhất.
Văn học nghệ thuật đã tạo ra những hình tượng nhân vật nữ tuyệt đẹp,
hay nói cách khác, chính vẻ đẹp huyền diệu tỏa ra từ hình thức, từ tâm hồn
người phụ nữ đã thu hút các nhà văn, nhà thơ khám phá và lý giải. Do đó
mảng đề tài văn học về phụ nữ bao giờ cũng khiến độc giả quan tâm sâu sắc.



17
1.4.2. Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam
Như đã nói ở phần trên, hình tượng người phụ nữ là một trong những
đề tài lớn có sức hấp dẫn của văn học thế giới. Trong văn học Việt Nam, qua
từng thời kỳ, hình tượng người phụ nữ cũng chứa đựng rất nhiều vẻ đẹp.
*Trong văn học dân gian (chủ yếu trong truyện cổ tích và trong ca
dao). Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp của người xưa về xã hội công
bằng, con người được sống trong no ấm, hạnh phúc. Các tác giả dân gian đã
thể hiện những giấc mơ đó qua hai tuyến nhân vật rõ ràng đại diện cho cái
Thiện và cái Ác. Ở cổ tích, tiêu chí về cái đẹp của nhân vật nằm ở chính nghĩa
của họ. Có chính nghĩa thì họ sẽ gặp được người tốt giúp đỡ, nhận được
những phép màu kỳ diệu, còn phi nghĩa thì phải nhận sự trừng phạt thích
đáng. Bởi thế nhân vật nữ trong cổ tích cũng có sự phân tuyến rõ ràng theo
tiêu chí “tuyệt đối”, tuyệt đối tốt hoặc tuyệt đối xấu, không có nhân vật nào
phức tạp, bí ẩn. Nhân vật nữ đại diện cho lý tưởng tèt ®Ñp cña nh©n ®©n

thêng cã sè phËn bi th¶m, tiªu biÓu cho nh÷ng con người “thấp cổ bé họng”.
Đó là những kẻ mồ côi, không nơi nương tựa, bị tước đoạt mọi quyền lợi, có
khi phải chết đi sống lại nhiều lần. Nhân vật nữ đại diện cho cái thiện, cho lý
tưởng và khát vọng về tự do về hạnh phúc và công bằng xã hội bao giờ cũng
là người có những phẩm chất như biết thương người, biết làm tròn bổn phận,
biết thực hiện lời hứa, tuân theo những chuẩn mực đạo đức truyền thống của
nhân dân. Họ thường là những người có lòng nhân hậu, bao dung. Cô Út lấy
Sọ Dừa, Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử đó chính là sự thể hiện lòng tốt, lòng
thương người, là sự công bằng theo quan điểm của người xưa. Các nhân vật
nữ ấy thường được các tác giả dân gian nâng niu trân trọng. Họ có thể gặp rất
nhiều sự đe dọa, bất chắc xong cuối cùng đều vượt qua và chiến thắng. tấm
mỗi lần hồi sinh lại duyên dáng hơn xưa (Tấm Cám), cô Út chui ra từ bụng cá

18
vẫn hồn nhiên tươi tắn (Sọ Dừa), người vợ của anh học trò nghèo khi trút bỏ
lốt cóc là một cô gái như tiên giáng trần (Lấy vợ cóc)
Nhìn chung các nhân vật nữ trong cổ tích chỉ có tính chất , chức năng
để minh họa cho lí tưởng chính nghĩa và thể hiện khát vọng công bằng trong
xã hội, họ chưa có nội tâm mà thường chỉ được chú ý tới ngoại hình và hành
động.
Còn trong ca dao, người phụ nữ thường được miêu tả với những vẻ đẹp
trẻ trung tràn đầy sức sống, với những tâm hồn hết sức phong phú, những tâm
trạng, những niềm riêng mang dấu ấn xã hội rất rõ nét. Xã hội phong kiến với
quan niệm trọng nam khinh nữ đã khiến số phận rất nhiều người phụ nữ gặp
bất hạnh, đắng cay. Họ phải sống phụ thuộc và không tự quyết định được số
phận của mình:
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai".
Người phụ nữ đi vào ca dao cũng hiện lên với vẻ đẹp truyền thống theo
quan niệm của người xưa. Vẻ đẹp ý nhị kín đáo:

"Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen".
Đặc biệt vẻ đẹp tâm hồn rất được đề cao. trong tình yêu họ thiết tha và
trong hôn nhân họ vị tha , chung thủy:
"Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người."

19
Nói tóm lại, trong ca dao, quan niệm về người phụ nữ đã có màu sắc
tâm trạng riêng của từng cá nhân, song có thể nói, những tâm trạng ấy vẫn
còn mang tính cộng đồng truyền thống, gắn chặt với nền văn hóa dân gian.
Trong văn học trung đại: nhân vật nữ vừa mang vẻ đẹp cổ điển, vừa rất
gần gũi với cuộc sống đời thường, họ là những con người bị xã hội cũ chà
đạp, vùi dập. "Hồng nhan bạc phận" được xem là quan niệm chủ đạo của tác
giả thời kì này khi thể hiện hình tượng người phụ nữ. Vũ Nương hiền thảo,
đảm đang, chung thủy thì bị ngờ oan, phải lấy cái chết để minh oan mà khi
chết rồi trong lòng vẫn mang nặng nỗi oan uổng đó (Chuyện người con gái
Nam Xương). Người cung nữ xinh đẹp tài hoa, khát khao hạnh phúc thì bị nhà
vua bỏ rơi, sống cô đơn mòm mỏi nơi cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân
trong cung điện thâm u (Cung oán ngâm khúc). Người chinh phụ chỉ có một
khát vọng rất bình thường là được chung sống cùng với người chồng thân yêu
xong lại rơi vào cảnh đau đớn “tử biệt sinh li” đằng đẵng đợi chờ không biết
có ngày gặp lại, Kiều xinh đẹp là thế mà lại bị dập vùi "Thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần" chịu cảnh đầy đọa cả về thể xác lẫn tinh thần. Nhiều nhân
vật nữ trong giai đoạn này đã thể hiện sự phản khỏng, sự tố cáo hội cũ, thể
hiện những suy nghĩ, những quan điểm khác hẳn với quan điểm của xã hội
phong kiến. Người cung nữ thấy hạnh phúc giản dị của những cặp vợ chồng
nghèo hơn hẳn ân sủng “tựa mạn thuyền rồng”. Người chinh phụ thấy lí tưởng
ra đi của người chồng, mong làm cho “thê ấm tử vinh” thật là vô nghĩa không
thể quan trọng bằng hạnh phúc được sum họp bên nhau. Hồ Xuân Hương dám

bày tỏ nỗi lòng khát khao yêu, khát khao hạnh phúc, thể hiện một cái tôi giàu
sức sống, đầy bản lãnh, mạnh mẽ, thị tài.
Như vậy có thể thấy, thời kỳ này các nhà văn đặc biệt chú ý tới nội tâm
nhân vật với “nguyên tắc tỏ lòng”, để cho nhân vật tự bộc bạch trực tiếp về
những nỗi đau khổ, những nỗi niềm riêng tư, những ước mơ khát vọng của

20
họ. Cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng,
hai nỗi niềm thường gặp nhất ở hình tượng người phụ nữ Việt Nam thời kỳ
này.
*Trong dòng văn học lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945, hình tượng
người phụ nữ được đề cập đến trong đa số các tác phẩm của các nhà văn Tự
lực văn đoàn. Họ có một quan điểm nghệ thuật làm nền tảng cho việc xây
dựng nhân vật: "Đó là con người cá nhân và xung đột với gia đình truyền
thống, với khát vọng tìm lối thoát trong tình yêu, thế giới nội tâm, thậm chí
muốn thoát ly khỏi mọi quan hệ xã hội để thỏa mãn tự do bản năng" [28; tr.57].
Tiêu biểu là các nhân vật: Hiền trong Trống mái, Loan trong Đoạn tuyệt,
Tuyết trong Đời mưa gió Đặc biệt các nhà văn Tự lực văn đoàn đã mở đầu
cách miêu tả thế giới nội tâm con người sâu sắc và tinh tế.
*Trong văn học 1945 - 1975: Với sự đổi thay của hoàn cảnh xã hội,
trong văn học, người phụ nữ không còn là những nhân vật chịu nhiều bất
hạnh vì bị xã hội cũ vùi dập, không còn là những nhân vật nổi loạn đòi bình
đẳng, các nhân vật nữ đều được xây dựng thành những hình ảnh chung như
hình ảnh những “O du kích nhỏ gương cao súng”, những “người mẹ cầm
súng”, những “người con gái Việt Nam”. Họ một mặt là những cô gái, những
người vợ, người mẹ rất đỗi bình thường trong cuộc sống hàng ngày, dịu dàng,
nhân hậu, yêu thương chồng con hết mực; song mặt khác trong chiến đấu lại
là những chiến sĩ dũng cảm. Đó là cô Mẫn (Mẫn và tôi- Phan Tứ), chị Út Tịch
(Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi), Chị Sứ (Hòn đất - Anh Đức)
* Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam từ 1975 đến nay :

Trong xu hướng tìm lại con người ở những đặc trưng bản thể và khát
khao trần thế, các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận người phụ nữ nghiêng
về những gì thuộc về thiên tính, thiên chức của họ. Điều này thể hiện ở ngay

21
những danh xưng. Trước đây các nhân vật nữ trong văn học cách mạng
thường được gọi bằng “chị”, bằng “cô” hoặc gọi tên một cách trân trọng. Các
nhà văn hôm nay gọi người phụ nữ bằng đủ thứ danh xưng nhằm nhấn mạnh
đặc trưng giới tính: phái yếu, phái đẹp, đàn bà, nàng, váy, chân dài
Ngay ở tên tác phẩm các tác giả đã muốn lưu ý với độc giả rằng họ
đang viết về phụ nữ: Đàn bà xấu thì không có quà (Y Ban), Cái bướm tung
tăng (Ma Văn Kháng), Ngày cuối cùng của dâm phụ (Trần Thị Trường)
Người ta bắt đầu nói về phụ nữ nhiều ở thiên chức làm vợ, làm mẹ, ở khao
khát nhục thể.
Văn học đổi mới không còn nhiều những phụ nữ sắt đá, kiên cường nữa
mà thay vào đó là những con người yếu đuối, nhẹ dạ cả tin, đa cảm, đa đoan
Chính bằng sự dũng cảm thay đổi cách nhìn của mình, các nhà văn đổi mới đã
tìm thấy ở phụ nữ một “công cụ” hữu hiệu để đổi mới đề tài.
Trong văn học cách mạng, đề tài gia đình cũng không được quan tâm
đúng mức bởi người ta phải dành “tất cả cho tiền tuyến”. Chuyện gia đình nếu
được nói đến cũng chủ yếu nhằm tạo một đòn bẩy nghệ thuật kiểu như “vui
duyên mới không quên nhiệm vụ”. Sau chiến tranh, người ta bắt đầu quay lại
chăm chút cho cái tổ ấm của riêng mình. Do vậy trong văn xuôi đổi mới, gia
đình trở thành một đề tài lớn, một mảnh đất được cày xới kỹ lưỡng.
Ngay từ thời kỳ đầu của đổi mới chúng ta đã thấy điều này qua Bên
đường chiến tranh (Nguyễn Minh Châu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Không có vua (Nguyễn Huy Thiệp) Càng
về sau đề tài này càng được khẳng định, nhất là trong thể loại truyện ngắn.
Sự xuất hiện của không gian gia đình trong văn học đổi mới diễn ra
đồng thời với sự trở lại thiên chức làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ. Người

Việt Nam vẫn coi phụ nữ là người “tay hòm chìa khóa” để nói lên vai trò

×