Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Một số đặc điểm tăng trưởng hình thái và sinh lý của trẻ em mầm non Phường Đồng Xuân - Thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.09 KB, 88 trang )




















BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2






PHẠM THỊ BÍCH HÀ







MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TĂNG TRƯỞNG HÌNH
THÁI VÀ SINH LÝ CỦA TRẺ EM MẦM NON
PHƯỜNG ĐỒNG XUÂN - THỊ XÃ PHÚC YÊN -
TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: SINH HỌC THỰC NGHIỆM
Mã số: 62. 42. 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Quý Tỉnh









HÀ NỘI, 2011

LỜI CẢM ƠN



Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS Hoàng Quý Tỉnh - trường Đại
học Sư phạm Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình
làm đề tài.
Qua đây tác giả cũng xin được cảm ơn tới toàn thể Ban Giám hiệu nhà
trường, các cô giáo, các bậc phụ huynh và các cháu Trường Mầm non bán
công Đồng Xuân – phường Xuân Hòa – thị xã Phúc Yên – Vĩnh Phúc đã tận
tình giúp đỡ trong quá trình thu thập số liệu.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến sự phát triển của mỗi con người là nói đến sự phát triển
đồng thời cả hai yếu tố thể chất và trí tuệ. Do vậy, một người muốn phát triển
tốt thì cần đồng thời quan tâm đến việc bồi dưỡng cả thể chất và trí tuệ nhằm
phát triển tốt các chức năng sinh lý. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện
nay, chúng ta không chỉ cần những người tài giỏi mà còn rất cần những người
khỏe và đẹp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các chỉ số sinh học và chức năng
sinh lý của các cơ quan của học sinh mầm non là rất cấp thiết cho việc hoạch
định những chiến lược sớm về con người và lựa chọn phương pháp giáo dục
đạt hiệu quả cao nhằm phát triển thế hệ tương lai một cách tốt nhất.
Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ số sinh
học và trí tuệ, đã thu được nhiều thành tựu lớn nhằm phục vụ cho những
hoạch định phát triển con người cho tương lai để thu được những kết quả như
mong muốn.
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ số sinh
học và trí tuệ của người Việt Nam ở các lứa tuổi khác nhau. Năm 1975, cuốn
“Hằng số sinh học người Việt Nam” [64] do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng
làm chủ biên đã đưa ra các chỉ số sinh học của người Việt Nam ở các lứa tuổi.
Tiếp đó có rất nhiều công trình khác nghiên cứu về các chỉ số sinh học và trí
tuệ được công bố, nổi bật là các công trình của Tạ Thúy Lan [35], [36], [37],

Mai Văn Hưng [30], [31] …Tuy nhiên, những công trình này chỉ thực hiện
trên những đối tượng nhất định và chưa có sự so sánh các chi số này trên các
đối tượng ở những vùng miền khác nhau. Nhìn chung, các công trình đều cho
thấy thể lực cũng như trí tuệ của người Việt Nam ngày càng tốt hơn nhưng để
có những kết luận sát thực nhất về thể lực và trí tuệ thì cần thiêt phải thường
xuyên nghiên cứu trên tất cả các đối tượng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sự
ảnh hưởng của điều kiện môi trường tới các đặc điểm hình thái và sinh lý của
học sinh mầm non còn chưa được nghiên cứu nhiều. Chính vì những lí so trên
tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài “
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TĂNG TRƯỞNG
HÌNH THÁI VÀ SINH LÝ CỦA TRẺ EM MẦM NON PHƯỜNG
ĐỒNG XUÂN – THỊ XÃ PHÚC YÊN – TỈNH VĨNH PHÚC

2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định thực trạng tăng trưởng hình thái và chức năng sinh lý của
học sinh trường mầm non bán công Đồng Xuân – phường Đồng Xuân – Phúc
Yên – Vĩnh Phúc.
- Xác định mối tương quan giữa tăng trưởng hình thái và các chức năng
sinh lý.
- Xác định mối liên hệ giữa một số yếu tố môi trường với sự phát triển
các đặc điểm hình thái và sinh lý trong nghiên cứu.
3. Nhiệm vụ cụ thể của đề tài
- Nghiên cứu sự tăng trưởng các chỉ số hình thái, thể lực của trẻ em
trường mầm non bán công Đồng Xuân – phường Đồng Xuân – Phúc Yên –
Vĩnh Phúc gồm chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực bình thường, chỉ số
Pignet, chỉ số BMI.
- Nghiên cứu sự tăng trưởng các chỉ số chức năng của một số cơ quan
của trẻ em trường mầm non bán công Đồng Xuân – phường Đồng Xuân – thị
xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc gồm các chỉ số chức năng tuần hoàn, chức
năng hô hấp.

- Sử dụng các công cụ thống kê để nghiên cứu mối tương quan giữa
một số chức năng hình thái và sinh lý của trẻ, mối tương quan giữa một số
yếu tố môi trường với sự phát triển hình thái của trẻ mầm non trong nghiên
cứu.
4. Những điểm mới của đề tài
- Các chỉ số hình thái và chức năng của trẻ em trường mầm non thuộc
phường Đồng Xuân – thị xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc.
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hình thái và các chức
năng sinh lý ở lớp tuổi trẻ mầm non trong địa bàn nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Đánh giá thực trạng sự tăng trưởng các chỉ số hình thái, trí tuệ của trẻ
em trường mầm non bán công Đồng Xuân – phường Đồng Xuân – thị xã
Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc.
- Các số liệu nghiên cứu có thể làm đa dạng thêm vào phổ thông tin về
các chỉ số sinh học người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.





Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các vấn đề chung về hình thái – thể lực cơ thể người
Hình thái và thể lực là các đặc điểm phản ánh tổng hợp của cơ thể, có
liên quan chặt chẽ với sức lao động và thẩm mỹ của con người. Sự tăng
trưởng về hình thái và thể lực là kết quả của sự sinh trưởng, phát triển của cơ
thể sống [4], [9].
Chiều cao đứng là một chỉ số phát triển thể lực quan trọng nhất và được
sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu nhân trắc học. Sự tăng trưởng chiều cao
mang tính chất đặc trưng cho chủng tộc, giới tính và môi trường sống.
Cân nặng cũng được khảo sát thường xuyên trong các nghiên cứu thể

lực của con người. Cân nặng gồm hai phần: phần cố định chiếm 1/3 khối
lượng cơ thể gồm xương, da, nội tạng, thần kinh… và phần không cố định
chiếm 2/3 khối lượng cơ thể gồm khối lượng cơ, khối lượng mỡ và nước. Ở
người trưởng thành, sự tăng cân chủ yếu là tăng phần không cố định và có
liên quan chặt chẽ đến chế độ dinh dưỡng [10], [15].
Vòng ngực cũng được coi là một đặc trưng cơ bản của thể lực. Những
người đầu tiên quan tâm đến số đo vòng ngực là các bác sĩ lâm sàng, ở đầu
thế kỉ XIX, khi họ nhận thấy có sự liên quan giữa mức độ phát triển của lồng
ngực với các bệnh hô hấp. Dần dần đến cuối thế kỉ XIX, vòng ngực trở thành
chỉ tiêu quan trọng trong các cuộc tuyển chọn binh lính và nhân công lao
động… [1].
Thể lực là thước đo sức khỏe, khả năng lao động, làm việc của con
người. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng các chỉ tiêu hình thái – thể
lực được phổ biến rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: tuyển sinh, tuyển quân,
tuyển lao động, giám định y khoa…[56].
Thể lực của con người là một chỉ tiêu phức hợp. Một trong những biểu
hiện cơ bản của thể lực là những số đo kích thước cơ thể, trong đó chiều cao
đứng, cân nặng và vòng ngực là ba chỉ số phản ánh thể lực của con người. Từ
ba chỉ số này có thể tính thêm một số chỉ số khác thể hiện mối liên quan giữa
chúng như chỉ số Pignet và chỉ số BMI [62] .
Nhiều công trình nghiên cứu về thể lực đã cho thấy sự khác nhau giữa
trẻ em thành phố và trẻ em nông thôn, giữa nam và nữ. Trên thực tế, sự phát
triển thể lực của trẻ em phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và là kết quả của sự tác
động qua lại giữa cơ thể với môi trường [40], [46], [63].
1.1.1 Nghiên cứu chỉ số hình thái – thể lực trên thế giới
Từ thế kỷ XIII Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để đánh
giá thể lực [90]. Sau này, các nhà giải phẫu học kiêm họa sỹ thời phục hưng
(Leonard de Vinci, Mikenlangielo, Raphael) đã tìm hiểu rất kỹ cấu trúc và
mối tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể người để đưa vào tác phẩm hội
họa của mình. Mối quan hệ giữa hình thái với môi trương sống cũng đã được

nghiên cứu tương đối sớm mà đại diện cho nó là các nhà nhân trắc học
Ludman, Nold và Volanski.
Rudolf Martin là người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại qua 2
tác phẩm nổi tiếng “Giáo trình về nhân trắc học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ
thể và xử lý thống kê”. Trong các công trình này, ông đã đề xuất một số
phương pháp và dụng cụ đo đạc các kích thước của cơ thể, cho đến nay vẫn
được sử dụng [63], [88].
Sau Rudolf Martin đã có nhiều công trình bổ sung và hoàn thiện thêm
các đề xuất của ông cho phù hợp với từng nước. Vấn đề nhân trắc học còn
được thể hiện qua các công trình của P.N. Baskirov – “Nhân trắc học”, Evan
Dervael – “Nhân trắc học”, công trình của Bunak, A.M. Aruwxon. Song song
với sự phát triển của bộ môn Di truyền, Sinh lý học, Toán học… việc nghiên
cứu nhân trắc học ngày càng hoàn chỉnh và đa dạng hơn. Vấn đề này được thể
hiện qua các công trình của X. Galperin, Tomiewicz, Tarasov, Tommer, M.
Sempé, G. Pédron, M.P. Rog – Pernot [82].
Nghiên cứu cắt ngang là một hướng đi sâu nghiên cứu sự tăng trưởng
về mặt hình thái, đó là nghiên cứu sự tăng trưởng của cơ thể và các đại lượng
có thể đo lường được bằng kỹ thuật nhân trắc trong cùng một thời điểm [64].
Công trình đầu tiên trên thế giới cho thấy, sự tăng trưởng một cách hoàn
chỉnh ở các lớp tuổi từ 1 đến 25 là luận án tiến sỹ của Christian Fridrich
Jumpert người Đức vào năm 1754. Công trình này được nghiên cứu theo
phương pháp cắt ngang (Cross – sectional study) được dùng phổ biến do có
ưu điểm là rẻ tiền, nhanh và thực hiện trên nhiều đối tượng cùng một lúc.
Nghiên cứu dọc của Philibert Guéneau de Montbeilard thực hiện trên
con trai mình từ năm 1759 đến năm 1777. Đây là phương pháp rất tốt đã được
ứng dụng cho đến ngày nay. Sau đó còn có nhiều công trình khác của Edwin
Chadwick ở Anh, Carlschule ở Đức, H.P. Bowditch ở Mỹ, Paul Godin ở
Pháp… Năm 1977 Hiệp hội các nhà tăng trưởng học đã được thành lập đánh
dấu một bước phát triển mới của việc nghiên cứu vấn đề này trên thế giới.
1.1.2. Nghiên cứu các chỉ số hình thái – thể lực ở Việt Nam

Hình thái – thể lực con người Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên
vào năm 1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em. Vào những năm 30 của thế
kỷ XX tại Viện Viễn Đông Bác cổ, sau đó là tại trường Đại học Y khoa Đông
Dương (1936 – 1944) đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về vấn đề
này. Tác phẩm “Những đặc điểm nhân chủng và sinh học của người Đông
Dương” của P. Huard và Đỗ Xuân Hợp được xem là những công trình đầu
tiên nghiên cứu về hình thái người Việt Nam. Tuy số lượng chưa nhiều nhưng
các tác phẩm này đã nêu được các đặc điểm nhân trắc của người Việt Nam
đương thời.
Từ năm 1954 đến nay, việc nghiên cứu hình thái học đã được đẩy mạnh
và chuyên môn hóa, thể hiện qua việc thành lập bộ môn hình thái học ở một
số trường đại học và viện nghiên cứu. Các hộii nghị về vấn đề này đã được tổ
chức nhiều lần, đặc biệt là vào các năm 1967 và 1972, nhiều chương trình cấp
quốc gia và địa phương được thực hiện. Đó là công trình “Hằng số sinh học
người Việt Nam” năm 1975 do GS. Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên [64]. Đây
cũng là công trình đầu tiên nêu ra khá đầy đủ các thông số về thể lực người
Việt Nam ở mọi lứa tuổi, trong đó có lớp tuổi của trẻ mầm non. Đây mới là
các chỉ số sinh học của người miền Bắc (do hoàn cảnh lịch sử), song nó thực
sự là chỗ dựa đáng tin cậy cho các nghiên cứu sau này trên người Việt Nam.
Sau này cũng đã có một số công trình nghiên cứu về các đặc điểm hình thể
người Việt Nam [69], [70].
Qua các công trình này có thể thấy, tầm vóc và thể lực người Việt Nam
nhỏ hơn so với các dân tộc Âu, Mỹ [92]. Đa số các kích thước về tầm vóc –
thể lực của nam lớn hơn của nữ. Các kích thước này tăng dần theo tuổi, đạt
giá trị cao nhất ở lớp tuổi 26 – 40 (đối với nam) rồi sau đó giảm dần từ 41 đến
60 tuổi. Mức độ giảm mạnh thường thấy ở các lớp tuổi trên 60. Đối với nữ,
tầm vóc – thể lực cũng tăng dần, đạt đỉnh cao lúc 18 – 25 tuổi. Từ 26 – 40
tuổi các chỉ số thể lực ở nữ đã có xu hướng giảm và giảm rõ nhất ở lớp tuổi
41 – 55. Từ 56 tuổi trở đi các chỉ số thể lực ở phụ nữ ngày càng giảm nhiều
hơn [53].

Chiều cao là một đặc điểm nhân chủng quan trọng, mỗi dân tộc thường
có một khung chiều cao nhất định, nó được xác định trong quá trình hình
thành các đặc điểm sinh thể của dân tộc [41]. Ở nước ta, chiều cao đứng của
nam trưởng thành ở lớp tuổi 18 – 25 là 159,0

5,0 cm và của nữ là 149,0

4,0 cm [37]. Theo đề tài KX – 07 – 07 thì chiều cao của nam là 162,4

5,5
cm và ở nữ là 153,3

4,7 cm [62]. Như vậy, nam giới cao hơn nữ giới khoảng
9 cm, đây cũng là mức chênh lệch phổ biến của nhiều quần thể người trên thế
giới [28]. Tuy nhiên, không chỉ có sự khác biệt theo chiều cao giữa nam và nữ
mà giữa dân cư thuộc các miền khác nhau cũng có sự khác biệt về kích thước
này. Phải chăng, đây chính là ảnh hưởng của môi trường sống đến sự tăng
trưởng và phát triển của con người trong các giai đoạn phát triển khác nhau,
như nhiều tác giả đã nhận định [43] , [45], [47], [48], [57].
Các công trình nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, khối lượng cơ thể
cũng thay đổi theo quy luật giống như tăng trưởng chiều cao. Cân nặng tăng
dần theo tuổi, sau đó, các chỉ số này giảm xuống ở các lớp tuổi cao. Giữa dân
cư thuộc các miền khác nhau cũng có sự khác biệt về khối lượng trung bình
của cơ thể [43], [57]. Người miền Nam Việt Nam thường có khối lượng cơ
thể lớn hơn người miền Bắc [19], [33].
Chỉ số sinh học khác được nghiên cứu nhiều là vòng ngực. Đặc điểm
chung của tất cả các đối tượng là kích thước vòng ngực trung bình phát triển
cao nhất ở lớp tuổi từ 16 – 25 (đối với nữ) và 26 – 40 (đối với nam). Ở các
lớp tuổi sau đó kích thước vòng ngực giảm dần [50]. Các số liệu về vòng
ngực trung bình của các tác giả cũng không hoàn toàn giống nhau. Theo dự án

90 [47] vòng ngực trung bình của nam là 82,03

4,34 cm và của nữ cùng
tuổi là 79,82

5,31 cm. Ở cả nam và nữ vòng ngực trung bình đều giảm dần
khi ở tuổi từ 41 trở đi.
Kích thước vòng ngực hít vào hết sức phát triển tỷ lệ thuận với vòng
ngực trung bình. Do đó nó cũng có những đặc điểm như vòng ngực trung
bình. Chỉ số này ở lớp tuổi 18 – 25 đối với nam là 80,0

4,0 cm và nữ là
76,0

4,0 cm [66]. Theo nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và cộng sự [49]
với lớp tuổi 24 thì vòng ngực trung bình của nam là 82,44

3,58 cm và của
nữ là 74,89

4,06 cm. Với vòng ngực trung bình như vậy, chỉ số Pignet của
nam ở tuổi 24 là 36,38

6,38 và của nữ là 36,50

6,54. Như vậy, so với
“Hằng số sinh học năm 75” [64] và các nghiên cứu sau này cho thấy, chỉ số
Pignet của nam và nữ có sự khác biệt không nhiều. Chỉ số BMI cũng được
xác định trong nhiều công trình. Theo nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và
cộng sự [49] thì chỉ số BMI của lớp tuổi 24 ở nam là 18,78


1,50 và ở nữ là
19,13

1,67.
Tiếp đó là công trình nghiên cứu của Trịnh Bỉnh Dy và cộng sự [15],
[16] nghiên cứu về các thông số sinh học và đặc điểm chức năng sinh lý
người Việt Nam. Các tác giả cho rằng, con người sinh học sau khi bộ xương
đã hoàn tất quá trình tăng trưởng (khoảng 20 – 25 tuổi) thì hầu hết mọi chức
năng đều từ từ giảm dần. Đó là quá trình suy thoái chức năng, đặc trưng cho
sự già hóa sau 20 – 25 tuổi.
“Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động” do Võ
Hưng chủ biên đã trình bày các công trình nghiên cứu nhân trắc người Việt
Nam trên cả ba miền của đất nước. Qua công trình này, tác giả đã nêu lên
được quy luật phát triển tầm vóc cũng như đặc điểm hình thái người Việt
Nam [29].
“Các chỉ tiêu nhân trắc hình thái thể lực người miền Bắc Việt Nam
trưởng thành trong thập niên 90’ do Trịnh Văn Minh và cộng sự [49] thực
hiện cho thấy, ở lớp tuổi thanh niên sau tuổi dậy thì, các kích thước vẫn tiếp
tục phát triển và đạt đỉnh cao vào lúc 20 – 21 tuổi (ở nữ) và 22 tuổi (ở nam).
Nam giới có chiều cao, cân nặng và các kích thước liên quan đến thể lực, cụ
thể là với các hoạt động cơ bắp luôn cao hơn so với nữ giới. Trong khi đó, các
chỉ số khác có liên quan đến dinh dưỡng, khối mỡ, chỉ số Pignet thì của nữ lại
cao hơn so với của nam.
Lê Nam Trà và cộng sự [60], [61], [62] trong đề tài KX 07 – 07 đã cho
thấy trong giai đoạn từ 18 đến 25 tuổi cơ thể con người vẫn tiếp tục tăng
trưởng. Tuy nhiên, mức độ thay đổi không nhiều như ở các lớp tuổi trước đó.
Đến tuổi 25 ở cả hai giới đều có các chỉ số thể lực ổn định như ở tuổi trưởng
thành.
Nguyễn Thị Đoàn Hương và cộng sự [32] tiến hành nghiên cứu thể lực

của 767 sinh viên của một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết
quả cho thấy, có sự khác biệt về một số chỉ số thể lực giữa sinh viên miền
Nam so với “Hằng số sinh học năm 1975” [64]. Các số liệu cũng cho thấy sự
tăng trưởng vượt trội vào giai đoạn 18 lên 19 tuổi (tương đương với năm thứ
nhất lên năm thứ hai đại học) của một số chỉ số thể lực.
Nguyễn Văn Lực và cộng sự [43] nghiên cứu về tầm vóc thể lực của
834 sinh viên Đại học khu vực Thái Nguyên cho thấy, chỉ số thể lực của các
đối tượng nghiên cứu tốt hơn so với sinh viên của một số trường đại học và
thanh niên cùng lứa tuổi thuộc các khu vực khác.
Cuối năm 1996, Thẩm Hoàng Điệp và cộng sự [19] đã nghiên cứu về
sự phát triển chiều cao, vòng đầu, vòng ngực của trên 8000 người Việt Nam
tuổi từ 1 đến 55 ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam. Các tác giả đã nhận xét
rằng, chiều cao trung bình của nam trưởng thành là 163 cm và của nữ là 158
cm. Chiều cao của nam tăng nhanh đến 18 tuổi, còn của nữ tăng nhanh đến 14
tuổi. Vòng ngực trung bình của nam trưởng thành là 78 – 80 cm, vòng đầu là
55 – 56 cm, còn của nữ tương ứng là 79 cm và 54 – 55 cm. Cũng tác giả này
(1992) [18] khi nghiên cứu các chỉ tiêu nhân trắc trên học sinh THCS Hà Nội
cho rằng, chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 12 tuổi ở nữ và 13 – 15 tuổi ở
nam, còn cân nặng phát triển mạnh nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam.
Trịnh Văn Minh và cộng sự [46], [47] đã tiến hành điều tra một số chỉ
số nhân trắc trên 1309 người bình thường trưởng thành tại xã Liên Ninh, Hà
Nội và tại phường Thượng Đình và xã Định Công, Hà Nội. Kết quả đáng chú
ý qua hai cuộc điều tra này là các kích thước nhân trắc cũng như các chỉ số
thể lực vẫn còn tiếp tục phát triển cho đến tuổi 19 – 20 ở nữ và 22 ở nam.
Năm 1992, Trần Thiết Sơn và cộng sự [53] chọn ngẫu nhiên 165 sinh
viên năm thứ nhất Đại học Y Hà Nội để nghiên cứu đặc điểm hình thái và thể
lực. Kết quả cho thấy, thể lực của sinh viên Y Hà Nội thuộc loại trung bình,
và có chiều cao trung bình (nam là 162,9 cm và nữ là 155,5 cm) cao hơn so
với sinh viên Việt Nam cùng lứa tuổi.
Năm 1993, Bùi Văn Đăng và cộng sự [17] tiến hành nghiên cứu thể lực

của 1221 sinh viên Đại học Y Thái Bình (thuộc 8 tỉnh đồng bằng Bắc bộ). Kết
quả cho thấy, các chỉ số thể lực của sinh viên Y Thái Bình tương đương với
các số liệu trong “Hằng số sinh học người Việt Nam năm 1975” [64].
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [54] nghiên cứu ảnh hưởng của môi
trường nóng khô và nóng ẩm lên một số chỉ số sinh lý người đã cho thấy, khí
hậu khắc nghiệt vùng Nghệ Tĩnh bước đầu làm phát sinh những biến đổi về
cấu trúc hình thái. Các chỉ số về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu…
chỉ số Pignet, chỉ số Broca, Skelie của cư dân Nghệ Tĩnh phần lớn thấp hơn
so với các chỉ số này ở người Việt Nam. Tác giả cho rằng, đây là điểm đặc
trưng cho sự thích nghi với khí hậu nóng khô và nóng ẩm.
Năm 1994, Nguyễn Hữu Choáng và cộng sự [7] đã nghiên cứu thể lực
của nam thanh niên quận Hồng Bàng, Hải Phòng qua đợt khám nghĩa vụ quân
sự. Các tác giả cho thấy, từ 18 đến 25 tuổi, sự phát triển chiều cao, cân nặng,
vòng ngực trung bình của nam thanh niên quận Hồng Bàng đã chững lại hay
vẫn còn tăng nhưng mức độ tăng không đáng kể.
Năm 1995, Nguyễn Đức Hồng [26] đã nghiên cứu “Đặc điểm nhân trắc
người Việt Nam trong lứa tuổi lao động giai đoan 1981 – 1985” trên 13223
người thuộc cả 3 miền của đất nước. Kết luận của công trình nghiên cứu này
là người Việt Nam trong lứa tuổi lao động có chiều cao (trung bình là 163 cm
ở nam và 153 cm ở nữ) thuộc loại trung bình thấp của thế giới, nhẹ cân, có
phần trên của thân thuộc loại trung bình, hơi dài. Một số chỉ số nhân trắc hình
thái có số đo trung bình tăng dần từ Bắc vào Nam.
Năm 1996, Trần Đình Long và cộng sự [40] qua nghiên cứu đặc điểm
sự phát triển cơ thể học sinh phổ thông tại một số trường học ở Hà Nội đã cho
thấy, từ 17 đến 18 tuổi sự phát triển cơ thể của cả hai giới đều chậm lại rõ rệt
hoặc chững lại. Điều này cũng có thể thấy trong công trình nghiên cứu trên
học sinh đến 18 tuổi của Nguyễn Kim Minh [45].
Nghiên cứu của Nguyễn Thế Hùng và cộng sự [27] trên sinh viên Đại
học y Hải Phòng cho thấy, thể lực của nam sinh viên từ 18 đến 25 tuổi phát
triển mạnh hơn của nữ cùng lớp tuổi.

Năm 1998, Nguyễn Kỳ Anh và cộng sự [1], sau khi đối chiếu so sánh
các kết quả nghiên cứu của mình với một số tác giả khác đã đưa ra nhận xét
rằng, thanh niên Việt Nam lớp tuổi từ 14 – 18 ở nữ và 16 – 18 ở nam lớn
chậm hơn so với các lớp tuổi trước đó.
Theo Nguyễn Hữu Chỉnh và cộng sự [6], ở sinh viên lớp tuổi từ 18 – 25
khu vực Kiến An, Hải Phòng vẫn có sự tăng trưởng, song sự khác biệt theo
các chỉ số nghiên cứu giữa các lớp tuổi kế tiếp nhau không có ý nghĩa thống
kê. Cũng theo Nguyễn Hữu Chỉnh và cs [6] dân cư khu vực Kiến An, Hải
Phòng có các chỉ số nhân trắc tốt hơn so với “Hằng số sinh học người Viêt
Nam” [64]. So sánh giữa nam và nữ tác giả cho rằng, từ 10 đến 11 tuổi, nữ
phát triển nhanh hơn nam, nhưng từ 14 đến 15 tuổi, các kích thước của nam
bắt kịp và vượt trội nữ. Sau tuổi 25 chiều cao không tăng nữa, cân nặng tăng
đến 30 – 39 tuổi sau đó ổn định rồi suy giảm, trong đó nam giảm chậm hơn
nữ.
Năm 1998, Vũ Thị Thanh Bình [5] nghiên cứu các chỉ số hình thái thể
lực và chức năng sinh lý của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thể dục
Trung ương 1 đã nhận thấy, sinh viên ở đây có thể lực tốt hơn sinh viên các
trường đại học khác và thuộc loại tốt so với sinh viên Việt Nam nói chung. Có
thể coi những khác biệt này là do đặc trưng thể lực của sinh viên năng khiếu
và tác động của việc rèn luyện thể chất ở cường độ cao.
Nhìn chung, các nghiên cứu gần đây về thể lực của sinh viên và thanh
niên Việt Nam đều cho thấy có sự tăng lên đáng kể so với số liệu trong các
nghiên cứu từ nhiều năm trước. Đặc biệt là từ sau năm 1975 đến nay khi tình
hình kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta có nhiều thay đổi chắc chắn sẽ có
ảnh hưởng đến tầm vóc, sức khỏe của con người Việt Nam [19]. Thanh niên
thành phố thường có các chỉ số nhân trắc tốt hơn thanh niên nông thôn [8],
[9]. Để giải thích sự khác biệt này, có tác giả [38] cho rằng, yếu tố cơ bản làm
xuất hiện hiện tượng này là chất lượng cuộc sống. Do điều kiện sống ở thành
phố được cải thiện nhiều hơn nên thanh niên thành phố thường có chiều cao,
cân nặng tốt hơn thanh niên cùng lứa tuổi.

Sự khác biệt về mặt chủng tộc, điều kiện sống, quá trình rèn luyện thân
thể cũng là những yếu tố tác động đến thể lực của sinh viên và thanh niên
[53]. Năm 1998, Nguyễn Quang Mai và cộng sự [44] đã nghiên cứu trên nữ
sinh các dân tộc ít người và cho thấy, đến 18 tuổi chiều cao, cân năng trung
bình của nữ sinh các dân tộc thiểu số thấp hơn của nữ sinh các vùng đồng
bằng và thành thị. Tác giả cho rằng, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này
là do ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, môi trường, chủng tộc, điều kiện
kinh tế.
Nguyễn Quang Mai và Nguyễn Thị Lan [44] nghiên cứu trên nam, nữ
học sinh từ 9 – 18 tuổi thuộc các dân tộc ít người ở tỉnh Vĩnh Phúc và Phú
Thọ cho thấy, chiều cao và cân năng của các em tăng dần theo tuổi, chiều cao
tăng nhanh lúc 14 – 15 tuổi còn cân nặng tăng nhanh lúc 15 – 16 tuổi. Các chỉ
số chiều cao và cân nặng của học sinh nam, nữ trong nghiên cứu của các tác
giả này lớn hơn so với số liệu trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam”
[64], nhưng lại nhỏ hơn kết quả nghiên cứu trên học sinh Hà Nội [39], Thái
Bình [45] và Hà Tây [33]. Thời tăng nhanh chiều cao và cân nặng của các nữ
sinh dân tộc ít người đến sớm hơn so với các dẫn liệu trong cuốn “Hằng số
sinh học người Việt Nam” nhưng muộn hơn so với học sinh Hà Nội và học
sinh Thái Bình từ 1 đến 2 năm.
Một số công trình nghiên cúu trong những năm gần đây của nhiều tác
giả [30], [38], [32] trên học sinh ở các tỉnh Nam Định, Thanh Hóa, thành phố
Hồ Chí Minh cho thấy, sự biến đổi các chỉ số hình thái của học sinh cũng có
những đặc điểm chung như đã trình bày ở trên.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu hình thái của học
sinh Việt Nam khá phong phú. Tuy kết quả nghiên cứu về các chỉ số này
trong các công trình có khác nhau ít nhiều nhưng đều xác định được là chúng
biến đổi theo lứa tuổi và mang đặc điểm giới tính. Trong quá trình phát triển
của trẻ em có giai đoạn nhảy vọt tăng trưởng. Mốc đánh dấu lứa tuổi nhảy vọt
ở các công trình tương đối thống nhất từ 13 -15 tuổi ở nam và 11 -13 tuổi ở
nữ. Có sự khác biệt về các chỉ số này giữa nam và nữ, giữa trẻ em thành thị và

nông thôn, cũng như giữa các vùng khí hậu khác nhau, giữa các nhóm dân tộc
khác nhau.
Năm 2000, trong luận án tiến sỹ nghiên cứu thể lực của người Êđê và
người Kinh định cư ở Đăk Lăk, Đào Mai Luyến [42] đã cho thấy, thể lực của
người Êđê tốt hơn người Kinh định cư. Tác giả cho rằng, đây là điểm khác
biệt mang tính dân tộc và do môi trường sống có ảnh hưởng nhất định đến khả
năng tăng trưởng đối với các chỉ số hình thái. Ngoài ra, sự rèn luyện thể lực
cũng có tác động tốt lên chiều cao, cân nặng và một số vòng của cơ thể [50].
Các yếu tố xã hội cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, đặc biệt là
tuổi dậy thì [70].
Các chỉ số hình thái – thể lực phản ánh tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Người ta thấy rằng yếu tố dinh dưỡng giữ vai trò chi phối chính trong sự phát
triển của trẻ em, ít nhất cho đến 5 tuổi. Do nhận thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi nếu
được nuôi dưỡng hợp lý và điều kiện sống hợp vệ sinh thì khả năng tăng
trưởng không khác nhau theo chủng tộc, WHO (1995) đã đề nghị lấy quần thể
NCHS (National Centre of Health Satistic) của Hoa Kỳ làm quần thể tham
chiếu. Từ trước những năm 90 của thế kỷ trước, đề nghị này được ứng dụng
rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới trong đó có cả Việt Nam [93]. Năm 1990,
WHO thành lập Nhóm nghiên cứu về tăng trưởng của trẻ nhằm đưa ra những
khuyến cáo cho việc sử dụng và giải thích một cách hợp lý về các kích thước
nhân trắc áp dụng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Theo báo cáo của nhóm nghiên
cứu này: dữ liệu tham chiếu của Trung tâm quốc gia về thống kê y học/WHO
có những sai sót và thất bại trong việc dự đoán một cách đầy đủ sự tăng
trưởng về mặt thể chất của trẻ. Những hạn chế này đã làm cản trở công tác
quản lý dinh dưỡng hợp lý của trẻ nhỏ Vì vậy cần phải có những đường tăng
trưởng mới để đáp ứng cho nhu cầu trên [94].
Năm 2006, WHO đã công bố bộ chuẩn tăng trưởng thứ nhất của trẻ
dưới 5 tuổi, gồm các chuẩn về chiều cao theo tuổi (chiều cao/tuổi), cân nặng
theo tuổi (cân nặng/tuổi), cân nặng theo chiều cao (cân nặng/chiều cao) và
BMI theo tuổi (BMI/tuổi) [95]

Năm 2007, WHO tiếp tục công bố bộ chuẩn tăng trưởng thứ 2 cho trẻ
dưới 5 tuổi gồm các chuẩn về vòng đầu theo tuổi (vòng đầu/tuổi), Vòng cánh
tay trái duỗi theo tuổi (VCTTD/tuổi), bề dày lớp mỡ dưới da tại cơ tam đầu
cánh tay theo tuổi (BDLMDD CTĐCT/tuổi) và bề dày lớp mỡ dưới mỏm bả
theo tuổi (BDLMDD DMB/tuổi) [96]. Tiếp theo đó là chuẩn tăng trưởng của
trẻ ở tuổi học đường và người trưởng thành đã đánh dấu một mốc quan trọng
cho các nghiên cứu về ứng dụng của các kích thước nhân trắc để đánh giá
trình trạng dinh dưỡng và phát triển thể lực của con người [84].
1.2. Nghiên cứu về các chức năng sinh lý
1.2.1. Các nghiên cứu về chức năng tuần hoàn máu
Chức năng cơ bản đảm bảo cung cấp ôxy và các chất dinh dưỡng cho
toàn bộ cơ thể là hoạt động của hệ tuần hoàn. Trong đó tần số tim và huyết áp
động mạch là những chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt động của hệ tuần hoàn [63].
Tim có chức năng vừa hút máu vừa đẩy máu, là động lực chính của hệ
tuần hoàn. Công suất của tim phụ thuộc vào tần số co bóp và thể tích cơ tim.
Bởi vậy, tần số tim là một trong các chỉ số dùng để đánh giá hoạt động của hệ
tuần hoàn và tình trạng sức khỏe của con người.
Tim co bóp tạo nên lực đẩy máu trong động mạch lại chịu lực cản của
mạch máu. Tuần hoàn máu có thể coi là kết quả của hai loại lực đối lập nhau:
lực đấy máu của tim và lực cản của động mạch. Trong đó, lực đẩy của tim đã
thắng nên máu chảy trong động mạch với một áp suất nhất định gọi là huyết
áp và một tốc độ nhất định. Nói cách khác, huyết áp là áp lực của máu tác
động lên thành mạch máu.
Huyết áp khi tim co và khi tim giãn không giống nhau. Huyết áp khi
tim giãn là huyết áp tối thiểu hay huyết áp tâm trương vì áp suất đẩy máu đi
trong mạch tăng cao khi tâm thất co và giảm khi âm thất giãn. Huyết áp trong
giai đoạn tim co có trị số lớn nhất nên gọi là huyết áp tối đa. Ngược lại, khi
tim giãn không có sức đẩy của tim nhưng tính đàn hồi của thành động mạch
gây áp lực đẩy máu đi. Vì vậy huyết áp trong giai đoạn tim giãn có trị số thấp
nhất nên gọi là huyết áp tối thiểu.

Huyết áp động mạch đã được nghiên cứu từ thế kỷ XIX do nhiều tác
giả tiến hành [75], [76]. Huyết áp đã được Korotkow xác định bằng phương
pháp đo gián tiếp, phương pháp này hiện vẫn được dùng phổ biến. Kết quả
nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, huyết áp của nam và của nữ từ 5 tuổi
trở lên có sự khác biệt rõ, trong đó huyết áp của nam thường cao hơn của nữ
và huyết áp còn chịu ảnh hưởng của môi trường con người đang sinh sống.
Mức độ chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu là huyết
áp hiệu số. Đó là điều kiện cần thiết cho sự tuần hoàn của máu. Khi huyết áp
hiệu số giảm xuống thấp thì tuần hoàn máu bị ứ trệ, huyết áp trị số lớn nhất ở
các động mạch chủ và động mạch lớn.
Tần số tim và huyết áp động mạch được nghiên cứu từ khá sớm trên
nhiều đối tượng khác nhau. Trong số các công trình đó đáng chú ý hơn cả
“Hằng số sinh học người Việt Nam” [64]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tần số
tim của nam trưởng thành trung bình là 70 – 80 lần/phút và của nữ trưởng
thành trung bình là 75 – 85 lần/phút. Tần số tim của trẻ em từ 2 – 4 tuổi là 95
– 110 lần/phút, từ 5 – 15 tuổi là 80 – 95 lần/phút.
Các kết quả nghiên cứu về huyết áp động mạch trên người Việt Nam
của Trịnh Bỉnh Dy trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học người
Việt Nam” cho thấy, huyết áp của người Việt Nam không những thấp mà còn
tăng chậm theo tuổi [14]. Trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” huyết áp
tâm thu ở người trưởng thành dao động từ 90 – 140 mmHg và huyết áp tâm
trương là từ 50 – 90 mmHg.
Nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh [63] cũng cho thấy, các chỉ số huyết áp
động mạch nằm trong giới hạn kể trên, chỉ số huyết áp tâm thu trung bình cho
cả nam và nữ là 120,06

16,25 mmHg và huyết áp tâm trương là 75,28

10,74 mmHg.
Các công trình nghiên cứu trên học sinh phổ thông [39] cho thấy, huyết

áp động mạch tăng dần theo lớp tuổi. Nghiên cứu trên những người trưởng
thành khác nhau về chủng tộc [42] cũng cho thấy, huyết áp động mạch của nữ
người Êđê cao hơn của nữ người Kinh.
Năm 1993, Đoàn Yên và cs [73] dựa vào kết quả nghiên cứu tần số tim
và huyết áp của người Việt Nam đã cho rằng, sau khi sinh, tần số tim và huyết
áp động mạch biến đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng đến 18
tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng lên. Tần số tim giảm dần đến tuổi
25 và ổn định đến tuổi 69. So với người Châu Âu và Châu Mỹ huyết áp người
Việt Nam thường thấp hơn.
Nghiêm Xuân Thăng [54] khi nghiên cứu thể lực của người Nghệ Tĩnh
lớp tuổi từ 18 – 25 đã nhận thấy, tần số tim, huyết áp động mạch chịu sự tác
động của môi trường sống, đặc biệt là khí hậu trong khu vực. Tần số tim tăng
khi nhiệt độ môi trường tăng. Nó biến đổi theo ngày, mùa và phụ thuộc vào
mức độ bức xạ. Tần số co bóp của tim về mùa hè cao hơn về mùa đông.
Ngoài ra, chỉ số này còn chịu sự chi phối của các yếu tố khác như lao động,
trạng thái tâm lý…
Năm 1996, Trần Đỗ Trinh [63] nghiên cứu trên 367.843 người thuộc 7
vùng địa lý khác nhau đã cho thấy, chỉ số huyết áp trung bình của người Việt
Nam là 120/75 mmHg. Theo tác giả, huyết áp tăng tuổi, ở lớp tuổi từ 18 – 25
mức tăng chậm lại rồi tương đối ổn định ở tuổi trung niên. Về già huyết áp lại
tăng lên. Huyết áp của nam thường cao hơn của nữ, tuy sự chênh lệch không
nhiều, chỉ khoảng 1 – 3 mmHg.
Qua nghiên cứu huyết áp của các dân tộc Tây Nguyên, Đào Mai Luyến
[42] nhận thấy, dân tộc Êđê, Bana, Giarai có tần số tim và huyết áp động
mạch khác nhau, song các chỉ số này vẫn trong giới hạn bình thường. Trong
số các dân tộc này thì dân tộc Êđê có các chỉ số huyết áp tốt hơn cả. Cũng
giống như người Kinh ở cả 3 dân tộc huyết áp đều tăng dần theo tuổi.
Nghiên cứu của Trần Thị Loan [39] cho thấy ở lớp tuổi học sinh phổ
thông tần số tim giảm dần theo lớp tuổi, sự biến đổi nhịp tim của nam và nữ
khác nhau.

Năm 2002, Nguyễn Văn Mùi và cs [50] đã nghiên cứu tần số tim và
huyết áp động mạch trên 182 vận động viên (VĐV) một số môn thể thao ở
Hải Phòng cho thấy, huyết áp tâm thu và tâm trương của các vận động viên,
cả nam và nữ, đều thấp hơn so với người bình thường cùng lứa tuổi và nằm
trong giới hạn bình thường. Trong số này nhóm VĐV bơi lội có huyết áp thấp
hơn cả. Tần số co bóp tim ở các VĐV đều thấp hơn so với các thanh niên
cùng lứa tuổi, và nhóm VĐV bắn súng có tần số thấp nhất. Điều này cho thấy,
việc rèn luyện thể chất có ý nghĩa rất lớn đối với chức năng của hệ tim –
mạch.
Nghiên cứu về điện tim được thực hiện từ thế kỷ XIX [83]. Năm 1885,
Einthoven đã đặt tên cho các sóng trên điện tâm đồ và đưa ra cách tính trục
điện tim. Goldberger năm 1947 đã cải tiến cách mắc các chuyển đạo đơn cực
chỉ làm cho điện thế ở các chuyển đạo này tăng lên 1,5 lần mà không làm thay
đổi hình dạng sóng [77]. Điều này đã giúp các nhà nghiên cứu dễ dàng hơn
trong việc điện tâm đồ. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, tần số tim thay
đổi theo tuổi và theo trạng thái chức năng của cơ thể. Những thay đổi này có
liên quan đến sự giảm hoạt động của nút xoang và giảm ảnh hưởng của dây
thần kinh ngoài tim.
1.2.2. Các nghiên cứu về chức năng hô hấp phổi
Theo các số liệu công bố trong “Hằng số sinh học người Việt Nam”
[68], dung tích sống của người Việt Nam có xu hướng giảm theo tuổi, tăng
theo chiều cao và dung tích sống của nam cao hơn so với của nữ. Dung tích
sống trung bình của người Việt Nam như sau: đối với nam (từ 16 đến 60 tuổi)
cao 160 – 164 cm dung tích sống bằng 2,5 ÷ 3,5 lít dung tích sống cao nhất
xác định được lúc 18 đến 20 tuổi và thấp nhất từ 59 tuổi trở lên. Đối với nữ
(từ 16 đến 60 tuổi) cao 150 – 154 cm dung tích sống bằng 1,65 ÷ 2,35 lít,
dung tích sống cao nhất lúc 18 – 23 tuổi và thấp nhất lúc 59 tuổi trở lên.
Trong cuốn sách này, các tác giả cũng đã nêu lên một loạt các chỉ số cơ bản
như tần số thở, dung tích sống gắng sức, thể tích khí lưu thông… và mối liên
quan của chúng với giới tính, chiều cao đứng của cơ thể.

Công trình của Đoàn Yên và cs [73] nghiên cứu nhịp thở, dung tích
sống, thể tích khí lưu thông, thể tích phút của người Việt Nam từ 6 đến 79
tuổi. Các tác giả đã cho thấy, dung tích sống tăng nhanh đến 19 tuổi sau đó ổn
định, từ 30 tuổi trở đi nó bắt đầu giảm. Dung tích sống của người Việt Nam
nhỏ hơn so với người Âu, Mỹ.
Theo Nghiên Xuân Thăng [54], khí hậu có ảnh hưởng lên chức năng hô
hấp của cư dân Nghệ Tĩnh, trong đó tần số hô hấp và dung tích sống chịu ảnh
hưởng nhiều nhất của khí hậu.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tường và cs [67] cho thấy, dung tích
sống trung bình của lớp tuổi thanh niên đối với nam là 3,4 lít và đối với nữ là
2,5 lít. Chỉ số hô hấp tăng dần theo tuổi và đạt giá trị cao nhất ở lớp tuổi từ 20
đến 29, sau giai đoạn này nó giảm dần.
Theo nghiên cứu của Đào Mai Luyến [42] trên người Êđê và người
Kinh định cư ở Đăk Lăk thì dung tích sống của nam cao nhất là 4,11 lít và của
nữ cao nhất là 2,94 lít. Tác giả cho rằng, các chỉ số hô hấp tương quan thuận
với chiều cao và tương quan nghịch với tuổi. Ngoài ra còn có các công trình
nghiên cứu của Nguyễn Đình Hường và cộng sự trên người Hà Nội. Từ kết
quả của các nghiên cứu này họ đã xây dựng được các phương trình tính giá trị
bình thường của một số chỉ số, đồng thời khẳng định các chức năng thông khí
phổi trên người Việt Nam thấp hơn so với người Châu Âu.
Nghiên cứu của Trần Thị Loan [39] trên học sinh từ 6 – 17 tuổi cho
thấy, dung tích sống của học sinh tăng dần theo lớp tuổi và ở nam tăng nhanh
hơn ở nữ. Theo tác giả, thời điểm tăng nhanh dung tích sống diễn ra cùng một
lúc với thời điểm tăng nhảy vọt về chiều cao.
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 217 trẻ (trong đó có 107 bé trai và 110
bé gái) trường mầm non bán công Đồng Xuân – phường Đồng Xuân – thị xã
Phúc Yên – Vĩnh Phúc có độ tuổi từ 4 đến 5 tuổi và phụ huynh của các trẻ
này. Các trẻ có trạng thái tâm lý và sức khỏe bình thường, không có các dị tật

bẩm sinh và bệnh mãn tính. Các chỉ số nghiên cứu được xác định trên cùng
một đối tượng nên khi trình bày kết quả và bàn luận chúng tôi không nhắc lại
số đối tượng nghiên cứu trong từng bảng số liệu. Phân bố các đối tượng
nghiên cứu theo tuổi và giới tính thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.1 Phân bố trẻ theo tuổi và giới tính
Tuổi Bé trai Bé gái Tổng
4 56 49 105
5 51 61 112
Tổng
107 110 217

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Các chỉ số được nghiên cứu
Nghiên cứu sự tăng trưởng các kích thước hình thái của trẻ:
- Chiều cao đứng
- Cân nặng
- Vòng ngực trung bình
Nghiên cứu các chỉ số thể lực của trẻ
- Chỉ số Pignet
- Chỉ số BMI
Nghiên cứu sự tăng trưởng các chỉ số chức năng một số cơ quan
- Tần số tim
- Chỉ số huyết áp
- Tần số hô hấp
Nghiên cứu mối tương quan giữa một số kích thước hình thái và
sinh lý
- Chiều cao đứng với tần số tim.
- Chiều cao đứng với tần số thở.
2.2.2. Phương pháp xác định các chỉ số
2.2.2.1. Phương pháp xác định các chỉ số hình thái, thể lực

- Chiều cao đứng: Được xác định bằng thước đo chiều cao gắn trên cân
y học Trung Quốc, có vạch chia đến 0,1 cm. Khi đo, học sinh ở tư thế đứng
thẳng, hai gót chân sát vào nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo bốn điểm
là chẩm, lưng, mông, gót chạm vào thước đo. Tư thế đứng thẳng được xác
định khi đuôi mắt và lỗ tai ngoài cùng ở trên đường thẳng nằm ngang, song
song với mặt bàn cân. Chiều cao đứng được tính theo đơn vị centimet (cm).
- Trọng lượng cơ thể: Được xác định bằng cân đồng hồ của Nhật có độ
chính xác đến 0,1kg. Đo xa bữa ăn. Khi cân mỗi đối tượng chỉ mặc một bộ
quần áo mỏng, không mang giày, dép, đứng yên ở vị trí giữa bàn cân, hai bàn
chân sát nhau. Trước khi đo bất kì học sinh nào cân đều được chỉnh để đảm
bảo độ chính xác. Đơn vị tính trọng lượng cơ thể là kilogam (kg).
- Vòng ngực trung bình: Được xác định bằng số trung bình cộng của số
đo vòng ngực lúc hít vào tận lực và lúc thở ra cố sức. Vòng ngực được đo ở tư
thế đứng thẳng bằng thước dây vòng quanh ngực vuông góc với cột số xương
bả vai, phía trước quá mũi ức. Như vậy, chu vi đo thước tạo thành nằm trên
mặt phẳng ngang song song với mặt đất. Trước khi đo hướng dẫn đối tượng
hít vào tận lực và thở ra cố sức để đo. Dụng cụ đo là thước dây bằng vải của
Trung Quốc, không co giãn, có chia số tới mm. Đơn vị đo vòng ngực trung
bình là cm.
Để đánh giá thể lực của học sinh chúng tôi dùng các loại chỉ số:
- Chỉ số BMI (Body Mass Index) còn gọi là chỉ số khối cơ thể, được
tính theo công thức:
BMI = Cân nặng (kg)/[Chiều cao đứng (m)]
2

Đơn vị của chỉ số BMI là kg/m
2

- Chỉ số Pignet: Được tính bằng công thức
Pignet = Chiều cao đứng (cm) – [Cân nặng (kg) + Vòng ngực trung

bình (cm)]
Đánh giá chỉ số Pignet của Nguyễn Quang Quyền:
Bảng 2.2. Đánh giá chỉ số Pignet của Nguyễn Quang Quyền
Chỉ số
Pignet
Mức độ đánh
giá
Chỉ số
Pignet
Mức độ đánh
giá
0 – 20,8 Cường tráng 34 – 37,2 Yếu
20,9 – 24,1 Rất khỏe 37,3 – 40,5 Rất yếu
24,2 – 27,4 Khỏe ≥ 40,6 Yếu kém
27,5 – 33,9 Trung bình

2.2.2.2. Phương pháp xác định các chỉ số chức năng
Các chỉ số chức năng hệ tim, mạch
- Điện tim: Được xác định bằng ống nghe, khi đo đối tượng ngồi ở tư
thế thoải mái, người đo đặt ống nghe vào ngực trái của đối tượng, ở vị trí giữa
xương sườn thứ 5 và thứ 6, đếm nhịp tim trong vòng 1 phút. Đo 3 lần rồi lấy
giá trị trung bình. Nếu thấy kết quả 3 lần đo khác nhau nhiều thì cho đối
tượng nghỉ 15 phút rồi đo lại.
- Huyết áp động mạch: Được xác định bằng phương pháp Korotkov
[39], dụng cụ đo là huyết áp kế đồng hồ.

×