Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Điều tra sinh kế nông hộ tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.16 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




PHẠM THỊ NGỌC ANH




Tên đề tài:
“ĐIỀU TRA SINH KẾ NÔNG HỘ TẠI XÃ VĨNH KIÊN,
HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2010 - 2014






Thái Nguyên, năm 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




PHẠM THỊ NGỌC ANH




Tên đề tài:
“ĐIỀU TRA SINH KẾ NÔNG HỘ TẠI XÃ VĨNH KIÊN,
HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế & PTNT
Lớp : K42 - KN
Khóa học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Dương Văn Sơn






Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện, mỗi sinh viên đang ngồi trên
ghế nhà trường ngoài những kiến thức lý thuyết đã được học thì thực hành
thực tập là khâu vô cùng quan trọng. Việc trang bị kiến thức thực tế cho sinh
viên là rất cần thiết, qua đó giúp sinh viên có điều kiện kiểm tra, kiểm
nghiệm, áp dụng những kiến thức đó một cách có khoa học, linh hoạt vào
thực tế sản xuất, giúp sinh viên có được thời gian nhất định để học hỏi, bổ
sung hoàn chỉnh những kiến thức đã tiếp thu ở trường. Thực hiện phương
châm “học đi đôi với hành - lý luận gắn với thực tiễn”, được sự nhất trí của
ban chủ nhiệm khoa kinh tế và phát triển nông thôn, dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của PGS.TS Dương Văn Sơn, tôi thực hiện đề tài: “Điều tra sinh kế
nông hộ tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái”.
Để hoàn thành đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Dương Văn
Sơn, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Kinh tế & PTNT đã
dậy dỗ tôi trong những năm tháng học tập tại trường.
Tôi trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ UBND xã
Vĩnh Kiên, các hộ điều tra ở Vĩnh Kiên đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập
số liệu và kiểm nghiệm những kết quả nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu.

Thái Nguyên, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả đề tài


Phạm Thị Ngọc Anh
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã Vĩnh Kiên 21
Bảng 4.2: Thống kê vật nuôi của xã Vĩnh Kiên năm 2013 25
Bảng 4.3: Thành phần dân tộc ở xã Vĩnh Kiên 27
Bảng 4.4: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính năm 2013 28
Bảng 4.5: Thông tin chung về hộ điều tra 30
Bảng 4.6: Cấu trúc dân tộc trong các hộ điều tra 31
Bảng 4.7: Cấu trúc phân loại hộ điều tra theo các thôn 31
Bảng 4.8: Bình quân diện tích canh tác theo thôn và nhóm hộ (ha/hộ) 32
Bảng 4.9: Bình quân diện tích đất canh tác theo thôn và dân tộc (ha/hộ) 32
Bảng 4.10: Diện tích đất canh tác (ha) theo thôn và theo nhóm hộ 33
Bảng 4.11: Diện tích đất rừng(ha) theo thôn và nhóm hộ 33
Bảng 4.12: Diện tích đất thuê mướn trong 12 tháng qua(ha) theo thôn và
nhóm hộ 33
Bảng 4.13: Bình quân (%) thu nhập về nông nghiệp theo thôn và nhóm hộ 35
Bảng 4.14: Bình quân (%) thu nhập về phi nông nghiệp theo thôn và nhóm hộ . 35
Bảng 4.15: (%) Thu nhập về trồng trọt theo thôn và nhóm hộ 37
Bảng 4.16: Số hộ trồng và bình quân thu nhập từ các cây trồng chủ yếu tại
Vĩnh Kiên 38
Bảng 4.17: (%) Thu nhập về chăn nuôi theo thôn và nhóm hộ 38
Bảng 4.18: Số hộ chăn nuôi và bình quân thu nhập từ các vật nuôi chủ yếu 39

DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 2.1: Khung phân tích sinh kế 6
Hình 4.1: Bản đồ huyện Yên Bình và xã Vĩnh Kiên 20

MỤC LỤC

Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan 3
2.1.1. Sinh kế, tiếp cận sinh kế và khung sinh kế 3
2.1.2. Cơ sở lí luận về sinh kế 6
2.2. Cơ sở thực tiễn 10
2.3. Hộ và kinh tế hộ 11
2.4. Quá trình phát triển và một số nghiên cứu về sinh kế 13
2.4.1. Quá trình phát triển sinh kế hộ nông dân ở một số địa phương
nước ta 13
2.4.2. Một số nghiên cứu về sinh kế 15
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, địa điểm và thời gian nghiên cứu 17
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 17
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 17
3.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 17
3.2. Nội dung nghiên cứu 17
3.3. Phương pháp nghiên cứu 18
3.3.1. Thu thập thông tin số liệu thứ cấp 18
3.3.2. Thu thập thông tin số liệu sơ cấp 18
3.3.3. Các phương pháp chung 19
3.3.4. Phương pháp phân tích sử lý số liệu 19

Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20
4.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Vĩnh Kiên có liên
quan đến sản xuất nông nghiệp 20
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 20
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 23
4.1.3. Cơ cấu cây trồng chính của xã Vĩnh Kiên 27
4.1.4. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển
kinh tế của xã Vĩnh Kiên 29
4.2. Các hoạt động sinh kế và thu nhập của cộng đồng dân tộc xã Vĩnh Kiên . 29
4.2.1. Thông tin về hộ và phân loại hộ điều tra 29
4.2.2. Diện tích đất canh tác, đất rừng và đất thuê mướn của các hộ điều
tra 31
4.2.3. Thu nhập về nông nghiệp và phi nông nghiệp 34
4.2.4. Thu nhập về trồng trọt của các hộ điều tra 36
4.2.5. Thu nhập từ chăn nuôi của các hộ điều tra 38
4.3. Giải pháp cải thiện sinh kế nâng cao đời sống người dân 41
4.3.1. Giải pháp chung 41
4.3.2. Giải pháp cụ thể đối với từng nhóm hộ 43
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 46
5.1. Kết luận 46
5.2. Khuyến nghị 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48

1

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp (với 80% dân

số làm trong nông nghiệp), nằm trong nhóm các nước đang phát triển và
thuộc trong số các nước nghèo trên thế giới. Với gần 70% dân số sống ở khu
vực nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn được xem là yếu tố quan trọng
nhất đảm bảo cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Trong khi đó cơ sở hạ
tầng còn thấp kém, sản xuất nông nghiệp hay gặp rủi ro, hệ số doanh lợi thấp
hơn so với các ngành khác, dân trí chưa phát triển theo kịp với yêu cầu của thị
trường vì vậy sức hấp dẫn của nông dânđối với các nhà đầu tư trong và ngoài
nước thấp. Bên cạnh đó một thách thức to lớn của khu vực nông thôn là sức
ép chi tiêu cho giáo dục, áp lực của tình trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái
môi trường đến mức báo động. Bởi vậy với trình độ dân trí và tập quán canh
tác còn hạn chế, năng suất lao động chưa cao, thu nhập của nông dân còn thấp
nên tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra rộng. Xây dựng các hoạt động sinh kế
bền vững và xóa đói giảm nghèo là những chính sách xã hội cơ bản hướng
vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ
hội và điều kiện tiếp cận các nguồn lực để phát triển sản xuất tự vươn lên
thoát khỏi nghèo đói, có một cuộc sống ổn định hơn.
Sinh kế của người dân nông thôn được hiểu là các hoạt động sản xuất
nông nghiệp để nuôi sống cho chính gia đình họ. Vì vậy, xây dựng kế hoạch
chiến lược cải thiện sinh kế góp phần phát triển kinh tế và xóa đói giảm
nghèo. Để cải thiện sinh kế cho nông dân, đặc biệt là các cộng đồng dân tộc
thiểu số cần có sự quan tâm của Nhà nước và các tổ chức xã hội, thông qua
các hoạt động phát triển sản xuất bền vững và sử dụng các cây trồng lương
thực, thức ăn chăn nuôi cần được đầu tư cả về vốn, vật tư nông nghiệp, tiến
bộ khoa học kỹ thuật để phát triển nông nghiệp nông thôn, phát triển các
hoạt động sinh kế, giúp người nông dân cải thiện cuộc sống. Qua đó ta thấy
rằng sinh kế bền vững đang là một mối quan tâm đặt lên hàng đầu hiện nay

2


của con người. Nó là điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển, nâng cao
đời sống của con người nhưng vẫn đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng môi
trường tự nhiên. Trên thực tế, đã có nhiều chương trình, tổ chức dự án hỗ trợ
cho cộng đồng để hướng đến mục tiêu phát triển ổn định và bền vững.
Vĩnh Kiên là một xã thuộc huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái với đặc trưng
là vùng trung du, đồi núi thấp, có sông Chảy đi qua và có hồ Thác Bà nên rất
thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó tiểu thủ công
nghiệp cũng khá phát triển – Vĩnh Kiên được coi là nguồn gốc chế biến tinh
bột sắn ướt trong huyện Yên Bình. Tuy nhiên xã vẫn còn gặp nhiều khó khăn
về trình độ dân trí người dân trong xã còn thấp, vấn đề về môi trường do các
nhà máy chế biến, xã lại xa khu trung tâm không thuận lợi cho phát triển công
nghiệp để chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp,
người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận khoa học kĩ thuật và các giống
mới trong sản xuất. Chính vì vậy, những người dân nghèo, gặp rất nhiều khó
khăn trở ngại trong việc tiếp cận sinh kế để từ đó tìm cho mình một kế sinh
nhai để thoát nghèo một cách bền vững.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều
tra sinh kế nông hộ tại xã Vĩnh Kiên , huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương có liên quan
đến sản xuất nông nghiệp.
- Điều tra, đánh giá các hoạt động sinh kế và thu nhập của cộng đồng các
dân tộc địa phương.
- Đề xuất giải pháp cải thiện sinh kế cộng đồng địa phương.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
+ Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp bản thân có thể vận dụng được những kiến thức đã học được để
viết báo cáo tốt nghiệp phục vụ cho học tập nghiên cứu khoa học.
- Nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho bản thân.
+ Ý nghĩa trong thực tiễn

- Đánh giá được đúng thực trạng của xã để đề ra các giải pháp phù hợp
phát triển xã.

3

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan
2.1.1. Sinh kế, tiếp cận sinh kế và khung sinh kế
- Khái niệm sinh kế:
Theo một số tác giả, sinh kế bao gồm năng lực tiềm tàng, tài sản (gồm
các nguồn lực vật chất và xã hội như: cửa hàng, nguồn tài nguyên, đất đai,
nước mặt, đường xá,…) cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện để
kiếm sống của con người (Scoones, 1998).
Sinh kế của nông hộ là hoạt động kiếm sống của con người, được thể
hiện qua hai lĩnh vực chính là nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Hoạt động nông nghiệp bao gồm: Trồng trọt (lúa, ngô, khoai, sắn, lạc,…),
chăn nuôi (lợn, gà, trâu, bò,…) và lâm nghiệp (trồng keo, bạch đàn, mỡ,…).
Hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu bao gồm các dịch vụ,
buôn bán và các ngành nghề khác.
Như vậy, trong phạm vi báo cáo này, sinh kế của người dân nông thôn
được hiểu là các hoạt động sản xuất nông nghiệp để nuôi sống cho chính gia
đình họ.
- Tiếp cận sinh kế:
Tiếp cận sinh kế là khái niệm tương đối mới mẻ. Nó phản ánh bức tranh
tổng hợp các sinh kế của người dân hay cộng đồng, chứ không chỉ theo
phương thúc truyền thống chú trọng đến một hoặc hai sinh kế (chẳng hạn như
nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp…). Tiếp cận sinh kế sẽ mang lại cho cộng
đồng cũng như những người hỗ trợ từ bên ngoài cơ hội thoát nghèo, thích

nghi với điều kiền tự nhiên xã hội và có những thay đổi tốt hơn cho chính họ
và cho các thế hệ tiếp theo.
- Khung sinh kế:
+ Sinh kế là sự kết hợp các hoạt động được thực hiện để sử dụng các
nguồn lực để duy trì cuộc sống. Các nguồn lực có thể bao gồm các khả năng và

4

kỹ năng cá nhân (nguồn lực con người), đất đai, tiền tích luỹ và các thiết bị
(nguồn lực tự nhiên, tài chính, và vật chất) và các nhóm trợ giúp chính thức hay
các hệ thống trợ giúp không chính thức tạo điều kiện cho các hoạt động được
diễn ra (nguồn lực xã hội).
+ Một sinh kế bao gồm năng lực tiềm tàng, tài sản (cửa hàng, nguồn tài
nguyên, đất đai, đường xá) và các hoạt động cần có để kiếm sống.
+ Sinh kế của con người phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng của
những nguồn vốn mà họ có hoặc có thể tiếp cận. Sự thành công của các chiến
lược và hoạt động sinh kế tùy thuộc và mức độ hiểu biết mà con người có
thể kết hợp cũng như quản lý những nguồn lực mà họ có. Vì thế, bàn về
sinh kế và sinh kế bền vững có rất nhiều ý kiến, cách tiếp cận khác nhau.
+ Có ý kiến cho rằng sinh kế là phương tiện/ cách thức để kiếm sống.
Có ý kiến cho rằng sinh kế của một hộ gia đình hay của một cộng đồng còn
được gọi là kế sinh nhai, là cách thức kiếm sống. Hoặc sinh kế là thu nhập ổn
định có được nhờ áp dụng các phương thức/ biện pháp khác nhau. Và có ý
kiến cho rằng sinh kế có thể được miêu tả như những quyết định, những hàng
động mà họ sẽ được thực hiện không những để kiếm sống mà còn để đạt được
những ước vọng của họ.
+ Ta có thể miêu tả một sinh kế như là sự kết hợp các hoạt động được
thực hiện để sử dụng các nguồn lực để duy trì cuộc sống. Các nguồn lực có
thể bao gồm các khả năng và kỹ năng cá nhân (nguồn lực con người), đất đai,
tiền tích luỹ và các thiết bị (nguồn lực tự nhiên, tài chính, và vật chất) và các

nhóm trợ giúp chính thức hay các hệ thống trợ giúp không chính thức tạo điều
kiện cho các hoạt động được diễn ra (nguồn lực xã hội).
+ Theo DFID sinh kế bao gồm 3 thành tố chính: nguồn lực và khả năng
con người có được, chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế. có quan niệm cho
rằng sinh kế không đơn thuần chỉ là vấn đề kiếm sống, kiếm miếng ăn và nơi
ở. Mà nó còn đề cập đến vấn đề tiếp cận các quyền sở hữu, thông tin, kĩ năng,
các mối quan hệ,….(Wallmann, 1984). Sinh kế cũng được xem như là “sự tập

5

hợp các nguồn lực và khả năng mà con người có được kết hợp với những
quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để sống cũng như để đạt được
các mục tiêu và ước nguyện của họ”(DFID). Về cơ bản các hoạt động sinh kế
là do mỗi cá nhân hay hộ gia đình tự quyết định dựa vào năng lực và khả năng
của họ và đồng thời chịu tác động của các thể chế chính sách và các mối quan
hệ xã hội và mỗi cá nhân và hộ gia đình tự thiết lập trong cộng đồng.
- Khung sinh kế bền vững:
Khái niệm khung sinh kế lần đầu tiên được đề cập trong báo cáo
Brundland (1987) tại hội nghị thế giới vì môi trường và phát triển. Một sinh
kế được cho là bền vững khi con người có thể đố phó và khắc phục được
những áp lực và cú sốc. Đồng thời có thể duy trì hoặc nâng cao khả năng và
tài sản ở cả hiện tại và trong tương lai mà không gây tổn hại đến cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái
niệm phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway
(1992) định nghĩa về sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao gồm
con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản
của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như
dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao gồm hoặc mở rộng tài sản
địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào và lợi ích ròng tác động đến

sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó có thể chống chịu hoặc hồi
sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ tương lai.
- Chiến lược sinh kế:
Chiến lược sinh kế dùng để chỉ phạm vi và sự kết hợp những lựa chọn và
quyết định mà người dân đưa ra trong việc sử dụng, quản lí các nguồn vốn và
tài sản sinh kế nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cũng như để đạt
được mục tiêu nguyện vọng của họ.



6

2.1.2. Cơ sở lí luận về sinh kế
* Khung phân tích sinh kế bền vững IFAD



























Hình 2.1: Khung phân tích sinh kế



Kết quả
sinh kế
+ Tăng thu
nhập
+ Tăng sự
ổn định
+ Giảm rủi
ro
+ Nâng cao
an toàn
lương thực
+ Sử dụng
bền vững
hơn các
nguồn lực
tự nhiên


TÀI SẢN SINH KẾ
Ảnh
hưởng
và khả
năng
tiếp
cận
Cơ cấu và tiến
trình th
ực hiện

Cơ cấu
+ Các
cấp
chính
quyền
+ Đơn
vị tổ
chức

CHIẾN
LƯỢC
SINH
KẾ
Quá
trình
tiến
hành
+ Luật

lệ
+ Chính
sách
+ Văn
hóa
+ thể
chế
chính
sách
Ký hiệu:
- H: Nguồn lực con người
- N: Nguồn lực tự nhiên
- S: Nguồn lực xã hội
- P: Nguồn lực tài chính
- P: Nguồn lực vật chất
P
H
S
N
P
Phạm
vi rủi
ro
+ Các
cú sốc
+ Các
khuynh
hướng
+ Tính
thời vụ


7

* Khái niệm chiến lược sinh kế
Chiến lược sinh kế dùng để chỉ phạm vi và sự kết hợp những lựa chọn
và quyết định mà người dân đưa ra trong việc sử dụng, quản lí các nguồn vốn
và tài sản sinh kế nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cũng như để đạt
được mục tiêu nguyện vọng của họ.
* Khái niệm các nguồn vốn sinh kế
Nguồn vốn sinh kế được hiểu như là các điều kiện khách quan và chủ
quan tác động vào một sự vật hiện tượng làm cho nó thay đổi về chất hoặc
lượng. Trong phạm vi đề tài này, các yếu tố về con người, tự nhiên, vật chất,
tài chính, xã hội, các thể chế chính sách mà xã hội quy định. Các nguồn vốn
đó được hiểu như sau:
+ Nguồn vốn con người: Con người là cơ sở nguồn vốn này. Vốn con
người bao gồm các yếu tố như cơ cấu nhân khẩu của hộ gia đình, kiến thức và
giáo dục của các thành viên trong gia đình (bao gồm trình độ học vấn, kiến
thức truyền được hoặc được kế thừa trong gia đình ), những kỹ năng và năng
khiếu của từng cá nhân, khả năng lãnh đạo, sức khỏe, tâm sinh lí của các
thành viên trong gia đình, quỹ thời gian, hình thức phân công lao động. Đây
là một yếu tố được xem như là quan trọng nhất vì nó quyết định khả năng một
cá nhân, một hộ gia đình sử dụng và quản lí các nguồn vốn khác.
+ Nguồn vốn xã hội: Bao gồm các mạng lưới xã hội, các mối quan hệ
với họ hàng, người xung quanh, bao gồm ngôn ngữ, các giá trị về niềm tin tín
ngưỡng, văn hóa, các tổ chức xã hội, các nhóm chính thức cũng như phi chính
thức mà con người tham gia để có được những lợi ích và cơ hội khác nhau,…
Việc con người tham gia vào xã hội và sử dụng nguồn vốn này như thế nào
cũng tác động không nhỏ đến quá trình tạo dựng sinh kế của họ. Vốn xã hội
được duy trì, phát triển và tạo ra những lợi ích mà người sở hữu nó mong
muốn như khả năng tiếp cận và huy động nguồn lực có từ các mối quan hệ,

chia sẻ thông tin, kiến thức hay các giá trị chuẩn mực. Vốn xã hội của mỗi cá
nhân được tích lũy trong quá trình xã hội hóa của họ thông qua sự tương tác
giữa cá các cá nhân.
+ Nguồn vốn tài chính: Tài chính là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối
với bất kỳ hoạt động sản xuất, kinh doanh nào. Các hoạt động sinh kế của

8

người dân nông thôn cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của các nhân tố
vốn sản xuất (tài chính). Trước đây vốn của các hộ sản xuất thường là vốn tự
có của từng gia đình hoặc vay mượn của bà con họ hàng, láng giềng nên quy
mô sản xuất không được mở rộng. Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ
sản xuất phải có lượng vốn nhiều hơn để đầu tư, cải tiến công nghệ, đưa thiết
bị máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, công việc này có thể thay
thế kỹ thuật lao động thủ công được, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao chất lượng cuộc
sống người dân
* Quan điểm phát triển bền vững
Đây là một quan điểm thuộc xã hội hiện đại khi quan niệm về phát
triển không đơn thuần chỉ là sự tăng trưởng về mặt kinh tế. Lý thuyết này
ra đời sau một thời gian dài, sự phát triển được hiểu thiên lệch là sự tăng
trưởng về mặt kinh tế đã gây nên những hậu quả nặng nề: Sự phân hóa giàu
nghèo một cách sâu sắc, biến đổi khí hậu, môi trường bị tàn phá nặng nề,
sự nóng dần lên của trái đất,…những hậu quả ấy do bởi những hoạt động
phát triển của con người.
Khái niệm phát triển bền vững xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường những năm 70 của thế kỷ XX và được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau. Phát triển bền vững được hiểu như là: “Sự đáp ứng nhu cầu hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng

nhu cầu của bản thân họ” (Báo cáo Bruland, 1987). Hoặc là “Sự cải thiện chất
lượng cuộc sống của con người trong khuôn khổ phạm vi sức chứa của hệ
sinh thái trợ giúp” (chăm lo trái đất),… Phát triển bền vững cũng có thể được
hiểu là một sự phát triển lâu dài, phát triển đi đôi với việc làm phong phú các
nguồn vốn sinh kế để từ đó dẫn đến các tác động tích cực tới đời sống của con
người. Sự phát triển đó làm tăng khả năng chống chọi với những cú sốc, tổn
thương do con người và tự nhiên gây ra.
Nói tóm lại quan niệm về sinh kế bền vững đều hướng đến một thế
đứng kiềng 3 chân: “Kinh tế - môi trường - xã hội”. Đây cũng được xem là
mục tiêu mà con người hướng tới trong tương lai khi tác động ngược của

9

các quan điểm phát triển sai lệch trước đây đã và đang ngày càng ảnh
hưởng tiêu cực đến con người. Lý thuyết này được áp dụng trong đề tài để
phân tích hoạt động sinh kế của người dân và xây dựng một mô hình phát
triển tiến bộ hơn so với mô hình sinh kế hiện tại - mô hình sinh kế bấp
bênh và thiếu tính bền vững.
* Quan điểm lý thuyết cấu trúc chức năng
Cơ cấu chức năng được các nhà xã hội học như A.Comte và H.Spencer,
E.Durkheim khởi xướng, sau được các nhà xã hội học hiện đại phát triển
thành một trong những chủ thuyết của xã hội học hiện đại. Chủ thuyết chức
năng hay còn gọi là cấu trúc chức năng được nhắc đến với tính liên kết chặt
chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể. Trong hệ thống đó mỗi bộ
phận đều có chức năng nhất định góp phần làm nên sự tồn tại với 2 mặt tĩnh
và động, tồn tại trong sự vận động biến đổi nhưng lại là một thực thể thống
nhất trong đa dạng. H.Spencer đưa thuyết sinh vật học vào để giải thích sự tồn
tại của xã hội và cho rằng xã hội tồn tại như một cơ thể sống, nó có đầy đủ
các bộ phận và thực hiện các chức năng khác nhau trong một cơ thể thống
nhất, tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp.

Lý thuyết này sẽ được vận dụng để giải thích các mối quan hệ kinh tế -
xã hội trong đời sống của người dân thôn (thôn 2, 3, 5, 6). Từ đó đưa ra giải
thích hợp lí cho lựa chọn hợp lí các hoạt động sinh kế của họ. Việc vận dụng
lý thuyết sẽ được đưa vào trong từng phần của bài nghiên cứu. Thôn được
xem như là một chỉnh thể xã hội thống nhất trong hệ thống quản lí chức năng
đoàn thể. Thôn nằm trong sự kiểm soát và quản lí của một hệ thống xã hội lớn
hơn là UBND xã Xuân Trạch. Xét về phạm vi tổ chức, cư dân trong thôn
được quản lý trực tiếp bởi ban điều hành như thôn trưởng, thôn phó, đội
trưởng đơn vị, ban công an, ban mặt trận, ban dân sự,… Là một chỉnh thể
thống nhất, các hộ gia đình trong thôn đều tồn tại với vai trò và chức năng
riêng song đều nằm trong mỗi liên kết chặt chẽ với những mối quan hệ hàng
xóm láng giềng thân thích và môi trường sống xung quanh.
* Quan điểm lý thuyết lựa chọn hợp lý
Lý thuyết lựa chọn hợp lý có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học, nhân
học thế kỷ XVIII - XIX đại diện là các nhà xã hội học như: G.Simmel,

10

Hormans, J.Elster. Thuyết lựa chọn hợp lý dựa vào việc cho rằng con người
luôn hành động có chủ đích với những hành động xã hội. Khi làm việc gì,
người ta cũng suy nghĩ để lựa chọn phương án nhằm sử dụng các nguồn lực có
được để đạt được kết quả tối đa với chi phi thấp nhất. Thuật ngữ “lựa chọn”
được dùng để nhấn mạnh sự cân nhắc, tính toán để quyết định sử dụng phương
tiện tối ưu nào mà đạt được kết quả cao trong một điều kiện nguồn lực khan
hiếm. Bắt nguồn từ việc vận dụng quy luật này để giải thích các hiện tượng
kinh tế, các nhà xã hội học áp dụng vào nhằm giải thích các hành động xã hội.
Vận dụng lý thuyết này vào trong đề tài nghiên cứu để giải thích cho việc tại
sao người dân ở địa bàn nghiên cứu lại lựa chọn phương thức sinh kế hiện tại
mà không phải lựa chọn phương thức sinh kế khác, với lựa chọn phương thức
đó liệu họ có đạt được hiệu quả tối đa trong cuộc sống hay không. Ngoài ra

quan điểm về lựa chọn hợp lý sẽ được lồng ghép phân tích và vận dụng trong
việc đưa ra các giải pháp cho một chiến lược sinh kế bền vững.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình phát triển sinh kế hộ nông dân ở các nước trên thế giới và
những bài học kinh nghiệm
Thực tiễn cho thấy, quá trình xây dựng và phát triển sinh kế nông hộ
của các nước đã có nhiều kinh nghiệm để chúng ta học tập.
* Thái Lan: Là một nước trong khu vực Đông Nam Á của châu Á,
chính phủ Thái Lan đã thực hiện nhiều chính sách để đưa đất nước từ lạc hậu
trở thành nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một số chính sách có liên
quan đến việc phát triển sinh kế vùng núi ban hành (Từ 1950 đến năm 1980).
+ Thứ nhất: Xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Mạng lưới
đường bộ bổ sung cho mạng lưới đường sắt, phá thế cô lập
Các vùng ở xa (Bắc, Đông bắc, Nam…), đầu tư xây dựng đập nước ở
các vùng.
+ Thứ hai: Chính sách mở rộng diện tích canh tác và đa dạng hóa sản
phẩm như cao su ở vùng đồi phía Nam, ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở
vùng núi phía Đông Bắc.
+ Thứ ba: Đẩy mạnh công nghiệp hóa công nghiệp hóa chế biến nông
sản để xuất khẩu như: Ngô, sắn,… sang các thị trường Châu Âu và Nhật Bản.

11

+ Thứ tư: Thực hiện chính sách đầu tư nước ngoài và chính sách thay
thế nhập khẩu trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện
chính sách trợ giúp tài chính cho nông dân như: cho nông dân vay tiền với lái
suất thấp, ứng trước tiền cho nông dân và cam kết mua sản phẩm với giá trị
định trước,… cùng với nhiều chính sách khác đã thúc đẩy vùng núi Thái Lan
phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Hàng năm có khoảng 95% sản lượng
cao su, hơn 4 triệu tấn dầu cọ do nông dân sản xuất ra. Song trong quá trình

thực hiện có bộc lộ một số vấn đề còn tồn tại: Đó là việc mất cân bằng sinh
thái, là hậu quả của một nền nông nghiệp làm nghèo kiệt đất đai. Kinh tế vẫn
mất cân đối giữa các vùng, xu hướng nông dân rời bỏ nông thôn ra thành thị
lâu dài hoặc rời bỏ nông thôn theo thời vụ ngày càng gia tăng.
* Trung Quốc: Trong những năm qua phát triển rất mạnh trong lĩnh
vực đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Một trong những thành tựu của Trung
Quốc trong cải cách mở cửa là phát triển nông nghiệp hương trấn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ đó tăng trưởng với tốc độ cao. Nguyên nhân
của thành tựu đó có nhiều, trong đó điều chỉnh chính sách đầu tư rất quan
trọng, tăng vốn đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp để tạo ra tiền đề vật chất cho
sự tăng trưởng trước hết là đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, mở rộng sản
xuất lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nghiên cứu ứng dụng cây
trồng ,vật nuôi, vào sản xuất nhất là lúa, ngô, bông.
* Malaysia: Mục tiêu của Malaysia là xây dựng một nền nông nghiệp
hiện đại, sản xuất hàng hóa có giá trị cao. Vì thế chính sách nông nghiệp của
Malaysia tập trung chủ yếu vào khuyến nông và tín dụng. Bên cạnh đó chính
phủ nước này cũng chú trọng tìm kiếm thị trường xuất khẩu nông sản. Nhờ đó
một vài năm gần đây kinh tế nông hộ của người dân nước này có thu nhập cao
và ổn định hơn.
2.3. Hộ và kinh tế hộ
- Một số khái niệm về hộ:
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về hộ gia đình.Hộ là một tổ chức
kinh tế - xã hội ra đời từ rất lâu, trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau
của đất nước. Trong bất kỳ giai đoạn nào hộ luôn là đối tượng nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học trên thế giới theo đó cũng có những khái niệm khác nhau.

12

Liên hợp quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng sống chung dưới một
mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”.

Tác giả Frank Ellis định nghĩa "Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông
nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu
sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn
hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có
xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao”.
Tại cuộc thảo luận Quốc tế lần thứ tư về quản lý nông trại tại Hà Lan
năm 1980, các đại biểu nhất trí rằng: “Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có
liên quan đến sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác”.
Theo Raul Ituna, một nhà nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp
Lisbon, khi nghiên cứu cộng đồng nông dân trong quá trình quá độ ở một số
nươc Châu Á đã chứng minh: “Hộ là tập hợp những người có chung huyết
tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để
bảo tồn chính bản thân của họ và cộng đồng”.
Theo Dương Văn Sơn và Nguyễn Trường Kháng (2010): Hộ gia đình là
khái niệm chỉ một hình thức tồn tại của một kiểu nhóm xã hội lấy gia đình
làm nền tảng. Hộ gia đình trước hết là một tổ chức kinh tế có chất hành chính
và địa lý. Còn gia đình là một nhóm người, một cộng đồng người mà các
thành viên gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, vừa
nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng tư của các cá nhân, vừa thoả mãn nhu cầu
xã hội về tái sản xuất dân cư theo cả nghĩa thể xác lẫn tinh thần. Gia đình là
một hệ thống phức tạp các vị trí và vai trò xã hội mà các thành viên chiếm giữ
và thực hiện, là những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của
con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và
phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng và giáo dục, giữa các thành viên.
- Hộ nông dân:
Theo ông Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ
yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá
và các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn”.
Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (1993) cho rằng: “nông hộ là tế bào

kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”.

13

Tác giả Frank Ellis định nghĩa: “hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông
nghiệp, tự kiếm sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu sức
lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn hơn,
nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có su
hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao”.
Theo Nguyễn Sinh Cúc, trong phân tích điều tra nông thôn năm 2011
cho rằng: “hộ nông nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động
thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn
nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thủy nông, giống cây trồng, bảo vệ thực
vật…) và thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp”.
- Kinh tế hộ nông dân:
Về hộ nông dân, tác giả Frank Ellis định nghĩa "Hộ nông dân là các hộ
gia đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình,
sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ
thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các
thị trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao”.
Tác giả T.G.Mc Gee (1989), Giám đốc Viện nghiên cứu Châu Áthuộc
trường Đại học Tổng hợp Britiah Columbia, cho rằng: “Ở các nước Châu Á
hầu hết người ta qua niệm hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc, hay
không cùng chung huyết tộc ở chung một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có
chung một ngân quỹ”.
“Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế cơ bản và tự chủ trong
nông - lâm nghiệp được hình thành và tồn tại trên cơ sở sử dụng đất đai, sức
lao động, tiền vốn, của gia đình mình là chính.
2.4. Quá trình phát triển và một số nghiên cứu về sinh kế
2.4.1. Quá trình phát triển sinh kế hộ nông dân ở một số địa phương nước ta

* Trong thời kỳ Pháp thuộc: Ở thời kỳ này đại bộ phận nông dân đi
làm thuê cho địa chủ, một bộ phận rất ít nông dân sản xuất hàng hóa nhỏ theo
kiểu cổ truyền với kinh nghiệm và kỹ thuật thô sơ. Trong thời kỳ này Chính
phủ đưa ra chính sách giảm tô cho nông dân, vận động gia tăng sản xuất thực
hiện tiết kiệm nhờ vậy mà sản lượng quy thóc năm 1954 đạt 3 triệu tấn tăng
13,70% so với năm 1946.

14

* Tờ năm 1955 đến năm 1959: Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện chính sách cải cách với mục đích
‘‘Người cày có ruộng’’. Năm 1957 cải cách ruộng đất cơ bản được hoàn
thành cải cách ruộng đất đã chia 81 vạn hecta ruộng, 74 nghìn con trâu bò cho
2,1 triệu hộ nông dân. Kết quả là nông dân có đất canh tác, trâu bò để sản xuất
đời sống kinh tế có phần cải thiện.
* Từ 1960 đến 1980: Đây là giai đoạn chúng ta tiến hành cải cách
ruộng đất, thực hiện tập thể hóa một cách ồ ạt, xong đây cũng là tập thể thể
hiện rõ tính yếu kém của mình, thời kì này kinh tế nông hộ không được coi
trọng. Đây là thời kỳ xuống dốc của nền kinh tế nước ta.
* Từ 1981 đến 1987: Chỉ thị 100CT/TW được ban bí thư trung ương
Đảng ban hành, quyết định chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và
người lao động, đây là việc làm có ý nghĩa trong việc thực hiện quyền tự chủ
trong sản xuất hộ nông dân đời sống của nhân dân phần nào được cải thiện,
nhờ vậy mà sản lượng lương thực tăng lên liên tiếp (mỗi năm tăng gần 1 triệu
tấn. Năm 1985 đạt 15,875 triệu tấn).
* Từ 1988 đến 2003: Ngày 5/5/1988 Bộ Chính Trị và Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết 10 về ‘‘Đổi mới quản lý kinh tế bản
trong nông nghiệp và nông thôn’’. Thừa nhận kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ
bản trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn đổi mới. Hộ gia đình
được giao quyền sử dụng đất lâu dài, hộ trở thành đơn vị kinh tế độc lập.

Hàng loạt những chính sách đổi mới đó đã tạo được động lực thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp phát triển. Kết quả là sản lượng lương thực từ chỗ dưới 18
triệu tấn năm 1984 - 1987 đã đạt 21,5 triệu tấn vào năm 1989 bình quân giai
đoạn 1986 - 1990 sản lượng lương thực tăng 13,50% năm. Từ một nước thiếu
lương thực trở thành nước xuất khẩu lương thực, năm 1989 xuất khẩu được
1,4 triệu tấn gạo, năm 1990 được 1,6 triệu tấn gạo, Đến năm 2003 Việt Nam
trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan.
* Từ 2009 đến nay: Đã cho thấy kinh tế hộ có nguồn thu nhập rất đa
dạng, bao gồm cả sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việc tập chung
phát triển kinh tế hộ mang lại nhiều lợi ích do hộ là đơn vị kinh tế nhỏ,
năng động, có khả năng ứng phó nhanh với những cú sốc thị trường, trợ
giúp kinh tế hộ cũng dễ đảm bảo tính công bằng hơn. Ngoài ra, đối với cấp

15

hộ cũng dễ áp dụng nông nghiệp xanh, hạn chế việc sử dụng phân bón hóa
học, thuốc trừ sâu trên diện rộng.
2.4.2. Một số nghiên cứu về sinh kế
- Sinh kế của các hộ dân tái định cư ở vùng bán ngập huyện Thuận
Châu, tỉnh Sơn La
Đề tài nghiên cứu và đánh giá thực trạng, sinh kế của các hộ dân tái định
cư vùng bán ngập của công trình thủy điện Sơn La. Trên cơ sở đánh giá phân
tích, đề xuất một số giải pháp tạo sinh kế nhằm ổn định sản xuất và đời sống
của các hộ dân di chuyển đến nơi ở mới.
- Nghiên cứu đặc điểm văn hóa kiến thức bản địa và chiến lược sinh kế của
đồng bào dân tộc thiểu số tại Đakrong - Quảng Trị (Đại học Nông Lâm Huế)
Đề tài này nghiên cứu về kiến thức bản địa và mối liên hệ của nó với
chiến lược sinh kế của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đề tài cũng đưa ra
những điểm được và chưa được trong việc vận dụng kiến thức bản địa vào các
hoạt động sinh kế, đề cập đến việc xây dựng một chiến lược sinh kế bền vững

để người dân tự xây dựng và phát triển chiến lược sinh kế cho bản thân và gia
đình vừa đảm bảo điều kiện sống hiện tại vừa bảo đảm cho sự phát triển vững
chắc cho tương lai.
- Nghiên cứu phát triển nông thôn bền vững tại xã Phong Mỹ, miền Trung
Việt Nam của trường Đại học Khoa học & đời sống Praha - Czech
Nghiên cứu này được thực hiện tại xã Phong Mỹ huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên - Huế, đề tài này nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp phát triển
nông thôn, bảo tồn đa dạng sinh học. Đặc biệt đi sâu tìm hiểu phương thức sinh
kế của người dân, phân tích các nguồn vốn về con người và nguồn vốn tự nhiên,
các khả năng sử dụng nguồn đất sẵn có và nguồn tài nguyên khác: nước, rừng,…
tác động đến hoạt động sinh kế của người dân. Ngoài ra, đề tài cũng vẽ lên một
bức tranh về cuộc sống của người dân qua các chỉ báo về thu nhập, cơ cấu chi
tiêu, tình hình giáo dục - y tế, tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Đánh giá hoạt động sinh kế của người dân miền núi thôn 1 - 5, Cẩm
Sơn, Anh Sơn, Nghệ An (Đại học Nông Lâm Huế)

16

Đề tài này phân tích các hoạt động sinh kế của người dân miền núi.
Qua đó xem xét và rút ra những phương thức, tập quán trong lao động sản
xuất của người dân nhằm tìm ra một số giải pháp khả thi cho chiến lược sinh
kế bền vững phù hợp với điều kiện của cư dân địa phương.
Nhận xét về các công trình nghiên cứu về sinh kế trên đây: Đây là
những công trình nghiên cứu mới tại Việt Nam, góp phần nâng cao năng lực,
thay đổi nhận thức của người dân trong vấn đề phát triển kinh tế hộ gia đình.
Trên cơ sở đó giúp người dân thay đổi được nhận thức, tư duy, phương thức,
tập quán sản xuất. Tất cả các nghiên cứu trên đây đều đi từ việc phân tích hiện
trạng sinh kế để từ đó đề xuất các can thiệp và giải pháp nhằm phát triển sinh
kế bền vững, cải thiện và nâng cao giá trị sản xuất tại địa phương, giúp người
dân ổn định cuộc sống.





















17

Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các hộ gia đình nông dân cùng với các hoạt động sinh kế của của họ
tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu

Các hoạt động sinh kế trong đề tài bao gồm hoạt động nông nghiệp
(trồng trọt, chăn nuôi) và hoạt động phi nông nghiệp. Thu nhập được tính trên
thu nhập của nông nghiệp và phi nông nghiệp
Nghiên cứu chọn mẫu 40 hộ trong vùng dự án tại 4 thôn: Khuân Đát,
Đồng Tha, Đồng Tâm, Khe Tam thuộc xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái.
3.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm thực hiện: Đề tài được nghiên cứu tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái.
Thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài:
+ Thu thập số liệu điều tra nông hộ được thực hiện từ tháng 3 năm 2014.
Thu thập các số liệu thứ cấp và phân tích số liệu được thực hiện từ ngày
14/02/2014 đến ngày 19/05/2014.
3.2. Nội dung nghiên cứu
+ Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương có liên quan đến
sản xuất nông nghiệp.
- Điều kiện tự nhiên;
- Điều kiện kinh tế xã hội;
- Tình hình sản xuất nông nghiệp;
+ Đánh giá và phân tích các hoạt động sinh kế, thu nhập của cộng đồng địa
phương.
- Thông tin về các hộ điều tra tại

xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái;
- Diện tích đất canh tác, đất rừng và đất thuê mướn;

18

- Thu nhập về nông nghiệp và phi nông nghiệp của nông hộ;

- Số hộ trồng và thu nhập về trồng trọt;
- Số hộ nuôi và thu nhập về chăn nuôi;
+ Đề xuất giải pháp cải thiện sinh kế cộng đồng địa phương.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Thu thập thông tin số liệu thứ cấp
Đây là phương pháp được sử dụng để thu thập các thông tin số liệu đã có
sẵn từ tất cả các nguồn có thể tiếp cận được. Đó là các số liệu, tài liệu được
thu thập từ UBND xã Vĩnh Kiên, từ thư viện của Khoa Kinh tế và PTNT
(Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên), từ các trang mạng khai thác trên
Internet thông qua công cụ tìm kiếm Google,…
Đây là những nguồn tài liệu có giá trị để xây dựng tổng quan, cũng như
những thông tin cơ bản liên quan đến điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và
tình hình sản xuất nông nghiệp của địa phương.
3.3.2. Thu thập thông tin số liệu sơ cấp
- Phương pháp điều tra bảng hỏi: Đây là phương pháp chủ yếu để thu
thập số liệu liên quan đến đề tài. Một bảng hỏi (xem phụ lục) được hình
thành, gồm nhiều bộ phận khác nhau, từ những thông tin cơ bản của chủ hộ,
an ninh lương thực, sinh kế và thu nhập nông hộ, những liên quan đến tác động
của can thiệp trong sản xuất sắn, những tác động liên quan đến chế biến thức ăn
chăn nuôi và phát triển chăn nuôi trâu bò và lợn, thị trường, chế biến sắn,…
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung phân tích và đánh giá
các hoạt động sinh kế, thu nhập và thời gian giành cho các hoạt động sinh kế
(nông nghiệp và phi nông nghiệp) của cộng đồng địa phương. Đây là cơ sở để
có các tác động của can thiệp liên quan nhằm cải thiện sinh kế của cộng đồng
địa phương.
Số liệu được thu thập tại bốn thôn xác định là Khuân Đát, Đồng Tha,
Đồng Tâm, Khe Tam (thuộc xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái).
Tổng số có 40 phiếu điều tra đã được thu thập tại 40 hộ trong 4 thôn trên.
Nghiên cứu chọn mẫu dựa trên phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.

×