Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

đánh giá tác động của công tác khuyến nông tới hoạt động sinh kế người dân tại xã bản xèo – huyện bát xát – tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.74 KB, 70 trang )

BÀI LUẬN
ĐỀ TÀI:
Đánh giá tác động của công tác
khuyến nông tới hoạt động sinh kế
người dân tại xã Bản Xèo – huyện
Bát Xát – tỉnh Lào Cai
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống khuyến nông nhà nước Việt Nam chính thức được thành lập
theo Quyết định 13/CP ngày 02/03/1993 của thủ tuớng Chính phủ. Qua gần
20 năm xây dựng và phát triển khuyến nông đã và đang khẳng định vị thế
quan trọng của mình trong chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn ở
nước ta. Khuyến nông là hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về
nông nghiệp, nông thôn và phổ biến kinh nghiệm về sản xuất, quản lý
kinh tế, cơ chế chính sách, giá cả thị trường nhằm giúp cho người
nông dân có đủ khả năng tự giải quyết những vấn đề của bản thân và
cộng đồng, thúc đẩy nông nghiệp phát triển cải thiện đời sống và xây
dựng nông thôn mới. Trong giai đoạn hiện nay, khi điều kiện nguồn
lực còn hạn chế, nhà nước xóa bỏ cơ chế tổ chức bao cấp. Hoạt động
sản xuất nông nghiệp ngày càng đa dạng, phát triển theo hướng hàng
hóa nên có nhu cầu cao về các dịch vụ khuyến nông. Vì thế, đòi hỏi
đội ngũ cán bộ khuyến nông phải hiểu biết rộng và có nhiều kỹ năng
để thực hiện các phương pháp khuyến nông một cách có hiệu quả.
Khuyến nông đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp
nông thôn hiện nay. Trong đó hoạt động sinh kế của người dân chịu ảnh
hưởng nhiều từ công tác khuyến nông.
Hiện nay sinh kế bền vững đang là mối quan tâm hàng đầu của con
người. Nó là điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển nâng cao đời sống
của con nguời nhưng vẫn đáp ứng được đòi hỏi về chất luợng môi trường


tự nhiên. Thực tế cho thấy việc lựa chọn hoạt động sinh kế của người dân
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: điều kiện tự nhiên, xã hội, yếu tố con
người, vật chất, cơ sở hạ tầng… Do đó việc đánh giá tác động của công tác
2
khuyến nông tới hoạt động sinh kế của người dân giúp ta thấy được
những ảnh hưởng của công tác khuyến nông tới cuộc sống lao động sản
xuất của người dân.
Trong những năm gần đây hoạt động sinh kế của người dân xã Bản
Xèo đã có những thay đổi lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của chính gia đình họ.
Mặt khác cùng với sự thay đổi của các điều kiện ngoại cảnh như tình hình
kinh tế - xã hội - khí hậu… đã làm cho người dân có những thay đổi thích
hợp với hoàn cảnh sống. Vì vậy đây là cơ sở cho việc áp dụng các tiến bộ
khoa học kĩ thuật vào lao động sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động
cho người dân mà công tác khuyến nông chính là cầu nối giúp người dân
có những định hướng đúng đắn nhất trong sản xuất.
Xuất phát từ thực tế đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Đánh giá
tác động của công tác khuyến nông tới hoạt động sinh kế người dân tại
xã Bản Xèo – huyện Bát Xát – tỉnh Lào Cai”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá tác động của công tác khuyến nông tới hoạt động
sinh kế của người dân để đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt
động khuyến nông tại các cở sở của huyện Bát Xát và chiến lược sinh kế
bền vững phù hợp với điều kiện của cư dân địa phương.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
 Đánh giá đuợc kết quả hoạt động và tác động của khuyến nông tại xã
Bản Xèo đến sản xuất nông nghiệp của người dân trong những năm gần đây.
 Tìm hiểu được các hoạt động sinh kế chủ yếu của người dân địa phương.
 Tìm hiểu được hiệu quả của công tác khuyến nông tới các hoạt động
sinh kế của người dân xã Bản Xèo - huyện Bát Xát - tỉnh Lào Cai.
 Xác định được những khó khăn và trở ngại trong hoạt động sinh kế

của người dân.
3
 Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh công tác
khuyến nông ở địa phương.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ những ảnh hưởng của công tác khuyến
nông tới hoạt động sản xuất của người dân.
- Thấy được hiệu qủa của các hoạt động sinh kế mang lại cho người
dân địa phương.
1.5. Yêu cầu của đề tài
- Tiến hành tìm hiểu điểm nghiên cứu, quan sát và thực hiện phỏng
vấn để thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp về các nội dung nghiên cứu của đề
tài.
- Đánh giá được thực trạng tác động của công tác khuyến nông đến
hoạt động sinh kế của người dân.
- Tư liệu hóa được các thông tin để hoàn thành đề tài tốt nghiệp.
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Cơ sở lí luận về khuyến nông
2.1.1.1. Khái niệm về khuyến nông
Khuyến nông được tổ chức bằng nhiều cách khác nhau và phục vụ
nhiều mục đích có qui mô khác nhau. Vì vậy khuyến nông là một thuật ngữ
khó định nghĩa được một cách chính xác, nó thay đổi tùy theo lợi ích nó
mang lại.
Dưới đây là một số định nghĩa khuyến nông khác nhau :
‘Khuyến nông được định nghĩa như thể là một tiến trình của việc lôi
kéo quần chúng tham gia vào việc trồng và quản lý cây một cách tự
nguyện” (D.Mahony, 1987) [2]

“Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến trình của việc hòa
nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Các quan điểm, kỹ năng để
quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương
sử dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự trợ giúp từ bên ngoài để có
khả năng vượt qua các trở ngại gặp phải” (Theo tổ chức FAO,1987) [2]
“Khuyến nông khuyến lâm là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo
nhằm giúp nông dân hình thành các ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định
đúng đắn” (A.W.Van den Ban và H.S.Hawkins,1996) [2]
“Khuyến nông khuyến lâm là làm việc với nông dân, lắng nghe
những khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự giải quyết lấy vấn đề chính của
họ” (Malla,1989) [2]
“Khuyến nông là một từ tổng quát để chỉ tất cả các công việc có liên
quan đến sự nghiệp phát triển nông thôn, đó là một hệ thống giáo dục ngoài
5
nhà trường, trong đó có người già và người trẻ học bằng cách thực
hành” (Thomas)
Theo nghĩa hẹp : Khuyến nông là một tiến trình giáo dục không chính
thức mà đối tượng của nó là người nông dân. Tiến trình này đem đến cho
người nông dân những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ giải
quyết những vấn đề hoặc những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông
hỗ trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không
ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân và gia đình họ. [2]
Theo nghĩa rộng : Khuyến nông là khái niệm chung để chỉ tất cả những
hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn.[2]
Trên thế giới, từ “Extension” được sử dụng đầu tiên ở nước Anh năm 1866
có nghĩa là “mở rộng, triển khai”. Từ “Extension” ghép với từ “Agriculture”
thành “Agriculture Extension” thì được dịch là “Khuyến nông”.[2]
Theo nghĩa cấu tạo của từ ngữ Hán - Việt thì “Khuyến nông” là
những hoạt động nhằm khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện để phát triển
sản xuất nông nghiệp trên tất cả các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, lâm

sinh, thuỷ sản ở nông thôn.[2]
Ở Việt Nam, khuyến nông được hiểu là một hệ thống các biện pháp
giáo dục không chính thức cho nông dân nhằm đẩy mạnh phát triển sản
xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân,
xây dựng và phát triển nông thôn mới.[2]
Còn theo định nghĩa của Trung tâm khuyến nông khuyến lâm quốc
gia (TTKNKLQG) thì: Khuyến nông là một quá trình, một dịch vụ thông
tin nhằm truyền bá những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, những
kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý sản xuất, những
thông tin về thị trường giá cả, rèn luyện tay nghề cho nông dân, để họ có đủ
6
khả năng tự giải quyết vấn đề của sản xuất, đời sống, của bản thân họ và
cộng đồng, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao dân trí, cải thiện đời sống và
phát triển nông nghiệp nông thôn.[13]
Như vậy khuyến nông là cách giáo dục không chính thức ngoài học
đường cho nông dân, là cách đào tạo người lớn tuổi. Khuyến nông là quá
trình vận động quảng bá, khuyến cáo cho nông dân theo các nguyên tắc
riêng. Đây là một quá trình tiếp thu dần dần và tự giác của nông dân. Nói
cách khác, khuyến nông là những tác động vào quá trình sản xuất kinh
doanh của người nông dân, giúp họ sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Nội
dung của hoạt động khuyến nông phải khoa học, kịp thời và thích ứng với
điều kiện sản xuất của người nông dân.
2.1.1.2. Vai trò của khuyến nông đối với phát triển nông thôn Việt Nam
 Khuyến nông có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông
thôn :
Trong điều kiện nước ta hiện nay, trên 80% sống ở các vùng nông
thôn với 70% lao động xã hội để sản xuất ra nông sản thiết yếu cung cấp
cho toàn bộ xã hội như lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến…, và sản xuất nông nghiệp chiếm 37- 40% giá trị sản
phẩm xã hội. Khuyến nông đã góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ

về năng suất, chất lượng sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, đảm bảo an
ninh lương thực, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm
nghèo và sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân [4]

7
Sơ đồ 2.1: Khuyến nông có vai trò trong sự nghiệp phát triển nông thôn
(Nguồn: Bài giảng nguyên lý và phương pháp Khuyến nông)
 Vai trò của khuyến nông trong quá trình từ nghiên cứu đến phát triển
nông nghiệp :
Sơ đồ 2.2: Vai trò KN trong quá trình từ nghiên cứu đến phát triển nông nghiệp
(Nguồn: Bài giảng nguyên lý và phương pháp Khuyến nông)
 Khuyến nông góp phần xóa đói giảm nghèo: Thực hiện các chương
trình dự án… để nông nghiệp phát triển, nông thôn phát triển nhằm năng
cao đời sống kinh tế- văn hóa – xã hội nông thôn.
 Vai trò của khuyến nông đối với nhà nước :
8
Nông dân
Cộng đồng thôn
bản
Nhà nghiên cứu
Viện nghiên cứu
Trường đại học
Khuyến nông
Phát triển
nông thôn
Giao
thông
Khuyến
nông
Chính sách

Nghiên cứu
công nghệ
Thị
trường
Tài
chính
Tín dụng
Giáo dục
• Giúp nhà nước thực hiện các chính sách, chiến lược về phát triển
nông lâm nghiệp, nông thôn và nông dân.
• Vận động nông dân tiếp thu và thực hiện các chính sách về nông lâm nghiệp.
• Trực tiếp góp phần cung cấp thông tin về những nhu cầu nguyện
vọng của nông dân đến các cơ quan nhà nước trên cơ sở nhà nước hoạch
định, cải tiến đề ra được chính sách phù hợp.[4]
2.1.1.3. Mục tiêu của khuyến nông
(Theo nghị định 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010)
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của người sản xuất để tăng
thu nhập, thoát đói nghèo, làm giàu thông qua các hoạt động đào tạo nông
dân về kiến thức, kỹ năng và các hoạt động cung ứng dịch vụ để hỗ trợ
nông dân sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thích ứng các điều kiện
sinh thái, khí hậu và thị trường.[3]
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát
triển sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh
thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; thúc đẩy tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn
mới, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, ổn định kinh tế - xã hội, bảo vệ
môi trường.[3]
Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài tham gia khuyến nông.[3]
2.1.1.4. Nội dung của khuyến nông

Theo nghị định số 02/2010/NĐ-CP về khuyến nông, ban hành ngày
08/01/2010. Hoạt động của khuyến nông bao gồm những nội dung sau:
Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo
 Đối tượng
9
Người sản xuất, bao gồm: nông dân sản xuất nhỏ, nông dân sản xuất
hàng hóa, nông dân thuộc diện hộ nghèo; chủ trang trại, xã viên tổ hợp tác
và hợp tác xã; công nhân nông, lâm trường; doanh nghiệp vừa và nhỏ; chưa
tham gia chương trình đào tạo dạy nghề do Nhà nước hỗ trợ.
Người hoạt động khuyến nông là cá nhân tham gia thực hiện các hoạt
động hỗ trợ nông dân để phát triển sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh
vực như: ngành nghề sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ trong nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy nông, cơ điện nông nghiệp, ngành
nghề nông thôn;
 Nội dung
Bồi dưỡng, tập huấn cho người sản xuất về chính sách, pháp luật; tập
huấn, truyền nghề cho nông dân về kỹ năng sản xuất, tổ chức, quản lý sản
xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khuyến nông; tập huấn cho người hoạt
động khuyến nông nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
 Hình thức
Thông qua mô hình trình diễn;
Tổ chức các lớp học ngắn hạn gắn lý thuyết với thực hành;
Thông qua các phương tiện truyền thông: báo, đài, tờ rơi, tài liệu (sách,
đĩa CD-DVD);
Qua chương trình đào tạo từ xa trên kênh truyền thanh, truyền hình, xây
dựng kênh truyền hình dành riêng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
ưu tiên là đào tạo nông dân trên truyền hình;
Qua trang thông tin điện tử khuyến nông trên internet;
Tổ chức khảo sát, học tập trong và ngoài nước.
 Tổ chức triển khai

10
Việc đào tạo nông dân và đào tạo người hoạt động khuyến nông do các
tổ chức khuyến nông đảm trách.
Giảng viên nòng cốt là các chuyên gia, cán bộ khuyến nông có trình độ
đại học trở lên, các nông dân giỏi, các cá nhân điển hình tiên tiến, có nhiều
kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, có đóng góp, cống hiến cho xã
hội, cộng đồng, đã qua đào tạo về kỹ năng khuyến nông.[3]
Thông tin tuyên truyền
Phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thông qua hệ thống truyền thông đại chúng và các tổ chức chính
trị xã hội.
Phổ biến tiến bộ khoa học và công nghệ, các điển hình tiên tiến trong
sản xuất, kinh doanh thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, tạp chí
khuyến nông, tài liệu khuyến nông, hội nghị, hội thảo, hội thi, hội chợ, triển
lãm, diễn đàn và các hình thức thông tin tuyên truyền khác; xuất bản và
phát hành ấn phẩm khuyến nông.
Xây dựng và quản lý dữ liệu thông tin của hệ thống thông tin khuyến
nông. [3]
Trình diễn và nhân rộng mô hình
Xây dựng các mô hình trình diễn về tiến bộ khoa học và công nghệ phù
hợp với từng địa phương, nhu cầu của người sản xuất và định hướng của
ngành, các mô hình thực hành sản xuất tốt gắn với tiêu thụ sản phẩm.
Xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
Xây dựng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh nông nghiệp
hiệu quả và bền vững.
11
Chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ từ các mô hình trình diễn,
điển hình sản xuất tiên tiến ra diện rộng.[3]
Tư vấn và dịch vụ khuyến nông
Tư vấn về :

Chính sách và pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn;
Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tổ chức, quản lý để nâng cao
năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành, nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm;
Khởi nghiệp cho chủ trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ về lập dự án
đầu tư, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, huy động vốn, tuyển dụng và đào tạo
lao động, lựa chọn công nghệ, tìm kiếm thị trường;
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng bảo hiểm sản xuất, kinh doanh;
Cung ứng vật tư nông nghiệp.
Tư vấn và dịch vụ khác liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông
thôn.[3]
Hợp tác quốc tế về khuyến nông
Tham gia thực hiện hoạt động khuyến nông trong các chương trình hợp
tác quốc tế.
Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông với các tổ chức, cá nhân nước ngoài
và tổ chức quốc tế theo quy định của luật pháp Việt Nam .
Nâng cao năng lực, trình độ ngoại ngữ cho người làm công tác khuyến
nông thông qua các chương trình hợp tác quốc tế và chương trình học tập
khảo sát trong và ngoài nước. [3]
2.1.1.5. Các nguyên tắc của khuyến nông
12
Xuất phát từ nhu cầu của nông dân và yêu cầu phát triển nông nghiệp
của Nhà nước.
Phát huy vai trò chủ động, tích cực và sự tham gia tự nguyện của nông
dân trong hoạt động khuyến nông.
Liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, cơ sở nghiên cứu khoa học, các
doanh nghiệp với nông dân và giữa nông dân với nông dân.
Xã hội hóa hoạt động khuyến nông, đa dạng hóa dịch vụ khuyến nông
để huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
tham gia hoạt động khuyến nông.

Dân chủ, công khai, có sự giám sát của cộng đồng.
Nội dung, phương pháp khuyến nông phù hợp với từng vùng miền, địa
bàn và nhóm đối tượng nông dân, cộng đồng dân tộc khác nhau.[3]
2.1.1.6. Các phương pháp khuyến nông
Xét về phương pháp thì hoạt động khuyến nông gồm 3 loại sau: Phương
pháp cá nhân, phương pháp nhóm, và phương pháp thông tin đại chúng.
Phương pháp tiếp xúc cá nhân: Là phương pháp được sử dụng rộng
rãi trong khuyến nông. Người cán bộ khyến nông đến thăm nhà nông dân,
hoặc gặp gỡ họ ngoài đồng, trên nương để thảo luận những chủ đề mà hai
bên cùng quan tâm và cung cấp cho họ thông tin hoặc những lời khuyên.
Những cuộc gặp gỡ này thường rất thoải mái và ít khi phải câu nệ điều
gì.Nó biểu hiện sự quan tâm của cán bộ khuyến nông đối với từng người
dân cho nên nó là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc củng cố lòng tin và
tình cảm giữa người dân và cán bộ khuyến nông. Phương pháp này được
thực hiện bằng cách: Thăm và gặp gỡ, gửi thư hoặc điện thoại giữa nông
dân và cán bộ khuyến nông. [6]
13
Ưu điểm: - Củng cố lòng tin và tranh thủ tình cảm của hộ nông dân
- Tạo được bầu không khí thoải mái và ấm cúng
- Dễ thực hiện, nhanh, kịp thời, đáp ứng thông tin theo
yêu cầu.
Nhược điểm:
- Tốn nhiều thời gian
- Quá trình phổ biến thông tin chậm, diện hẹp
- Đến từng nông dân nên dễ gây nghi kỵ trong cộng đồng.
Phương pháp nhóm: Là phương pháp khuyến nông mà thông tin
được truyền đạt cho một nhóm người có chung một mối quan tâm và nhằm
mục đích giúp nhau phát triển. Phương pháp này được thực hiện bằng cách:
hội họp, trình diễn, hội thảo đầu bờ, thăm quan và tập huấn kỹ thuật.[6]
Ưu điểm: Phương pháp này có tính phổ cập thông tin cao, tốn ít nhân

lực, khơi dậy sự tham gia của dân, cải tiến kỹ thuật do dân góp ý, phát hiện
vấn đề mới nhanh chóng.
Nhược điểm: Chỉ giải quyết được những vấn đề chung của nhóm,
không giải quyết được những vấn đề riêng của từng cá nhân.
Việc tổ chức nhóm và duy trì hoạt động thường xuyên và có hiệu quả
đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và kinh phí lớn.
Phương pháp thông tin đại chúng: Là phương pháp được thực hiện
bằng phương tiện nghe (đài), phương tiện đọc (sách, báo, tạp chí), phương
tiện nhìn (tranh ảnh, mẫu vật), phương tiện nghe nhìn (phim video, phim
nhựa, tivi).[6]
Ưu điểm của phương pháp này là phạm vi tuyên truyền rộng, phục vụ
được nhiều người, linh hoạt ở mọi nơi, truyền thông tin nhanh và chi phí thấp.
Nhược điểm của nó là không có lời khuyên và sự giúp đỡ cụ thể cho
từng cá nhân
14
2.1.2. Cơ sở lí luận về sinh kế
Theo DFID (Department For International Development) sinh kế
gồm 3 thành tố chính : nguồn lực và khả năng con người có được, chiến
lược sinh kế và kết quả sinh kế. Có quan niệm cho rằng sinh kế không đơn
thuần chỉ là vấn đề kiếm sống, kiếm miếng ăn và nơi ở. Mà nó còn đề cập
đến vấn đề tiếp cận các quyền sở hữu, thông tin, kĩ năng, các mối quan
hệ… (Wallmann, 1984). Sinh kế cũng được xem như là “sự tập hợp các
nguồn lực và khả năng mà con người có được kết hợp với những quyết
định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để sống cũng như để đạt được các
mục tiêu và ước nguyện của họ”(DFID). Về cơ bản các hoạt động sinh kế
là do mỗi cá nhân hay hộ gia đình tự quyết định dựa vào năng lực và khả
năng của họ và đồng thời chịu tác động của các thể chế chính sách và các
mối quan hệ xã hội và mỗi cá nhân và hộ gia đình tự thiết lập trong cộng
đồng.[14]
2.1.2.1. Khái niệm sinh kế bền vững

Khái niệm sinh kế lần đầu tiên được đề cập trong báo cáo
Brundland (1987) tại hội nghị thế giới vì môi trường và phát triển. Một sinh
kế được cho là bền vững khi con người có thể đối phó và khắc phục được
những áp lực và cú sốc. Đồng thời có thể duy trì hoặc nâng cao khả năng
và tài sản ở cả hiện tại và tương lai mà không gây tổn hại đến cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. [14]
15
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái
niệm phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway
(1992) định nghĩa về sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao
gồm con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập
và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô
hình như dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao gồm hoặc mở
rộng tài sản địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào và lợi ích
ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó có
thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho
thế hệ tương lai.[11]
2.1.2.2. Khái niệm chiến lược sinh kế
Chiến lược sinh kế dùng để chỉ phạm vi và sự kết hợp những lựa chọn và
quyết định mà người dân đưa ra trong việc sử dụng, quản lý các nguồn vốn
và tài sản sinh kế nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cũng như để
đạt được mục tiêu nguyện vọng của họ.[11]
Sơ đồ 2.3: Phân tích khung sinh kế của nông dân nghèo
Tự nhiên
Tài chính
Xã hội
Vật chất
Con người
Bối cảnh
dễ tổn

thương
- Xu hướng
- Thời vụ
- Chấn động
(trong tự
nhiên và
môi trường,
thị trường,
chính trị,
chiến
tranh…)
Chính sách, tiến
trình và cơ cấu
-Ở các cấp khác
nhau của Chính
phủ, luật pháp,
chính sách công,
các động lực, các
qui tắc
-Chính sách và
thái độ đối với
khu vực tư nhân
-Các thiết chế
công dân, chính
trị và kinh tế (thị
trường, văn hoá)
Các chiến
lược SK
-Các tác nhân
xã hội (nam,

nữ, hộ gia
đình, cộng
đồng …)
-Các cơ sở tài
nguyên thiên
nhiên
-Cơ sở thị
trường
- Đa dạng
-Sinh tồn
hoặc tính bền
vững
Các kết quả SK
-Thu nhập nhiều hơn
-Cuộc sống đầy đủ
hơn
-Giảm khả năng tổn
thương
-An ninh lương thực
được cải thiện
-Công bằng xã hội
được cải thiện
-Tăng tính bền vững
của tài nguyên thiên
nhiên
-Giá trị không sử
dụng của tự nhiên
được bảo vệ
16
(Nguồn: DFI, 2003)

2.1.2.3. Khái niệm các nguồn vốn sinh kế
Nguồn vốn sinh kế được hiểu như là các điều kiện khách quan và chủ
quan tác động vào một sự vật hiện tượng làm cho nó thay đổi về chất hoặc
lượng. Các loại nguồn vốn sinh kế gồm vốn về con người, vật chất, tài
chính, xã hội, tự nhiên, …[11 ]
Vốn con nguời : con người là cơ sở của nguồn vốn này. Vốn con người
bao gồm các yếu tố như cơ cấu nhân khẩu của hộ gia đình, kiến thức và
giáo dục của các thành viên trong gia đình, những kĩ năng và năng khiếu
của từng cá nhân, khả năng lãnh đạo, sức khỏe, tâm sinh lý của các thành
viên trong gia đình, quỹ thời gian, hình thức phân công lao động. Đây là
yếu tố được xem như là quan trọng nhất vì nó quyết định khả năng của một
cá nhân, một hộ gia đình sử dụng và quản lý các nguồn vốn khác.[11]
Vốn xã hội : Bao gồm các mạng lưới xã hội các mối quan hệ với họ
hàng, người xung quanh, bao gồm ngôn ngữ, các giá trị về niềm tin tín
ngưỡng, văn hóa,các tổ chức xã hội, các nhóm chính thức cũng như phi
chính thức mà con người tham gia để có được những lợi ích và cơ hội
khác nhau… Việc con người tham gia vào xã hội và sử dụng nguồn vốn
này như thế nào cũng tác động không nhỏ đến quá trình tạo dựng sinh kế
của họ [11] .
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Lịch sử khuyến nông trong và ngoài nước
2.2.1.1. Lịch sử khuyến nông trên thế giới
• Pháp
Thế kỷ 15 – 16: một số công trình khoa học nông nghiệp ra đời như:
“ngôi nhà nông thôn” của Enstienne và Liebault nghiên cứu về kinh tế
nông thôn và khoa học nông nghiệp. Tác phẩm diễn trường nông nghiệp
17
của Oliver de Serres đề cập tới nhiều vấn đề trong nông nghiệp như cải tiến
giống cây trồng vật nuôi.[4]
Thế kỷ 18 cụm từ Phổ cập nông nghiệp (Vulgazigation Agricole),

hoặc chuyển giao kỹ thuật đến người nông dân (Transfert des Technologies
Agrcoles au Payan) được sử dụng phổ biến. [4]
Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đến nay.
Trung tâm CETA (Centre d’Etuder Techniques Agricoles) nghiên cứu kỹ
thuật nông nghiệp đầu tiên được tổ chức do sáng kiến của nông dân vùng
Pari hoạt động với nguyên tắc:
- Người nông dân có trách nhiệm và chủ động trong công việc
- Sáng kiến từ cơ sở
- Hoạt động nhóm rất quan trọng
• Mỹ
Năm 1845 tại Ohio, N.S.Townshned chủ nhiệm khoa Nông học đề
xuất việc tổ chức những câu lạc bộ nông dân tại các quận, huyện và sinh
hoạt định kỳ. Đây là tiền thân của khuyến nông Mỹ.
Năm 1891 Bang New York dành 10.000 đôla cho khuyến nông
đại học.
Năm 1892 Trường đại học Chicago, trường Wicosin bắt đầu tổ chức
chương trình khuyến nông đại học.
Năm 1907, có 42 trường đại học trong 39 Bang đã thực hiện công tác
Khuyến nông
Năm 1910, có 35 trường Đại học đã có Bộ môn khuyến nông
Năm 1914 tổ chức khuyến nông được hình thành chính thức ở Mỹ, có
1861 hội nông dân với 3.050.150 hội viên
Thuật ngữ Extension Education đã được sử dụng để chứng tỏ rằng đối
tượng giáo dục của trường đại học không nên chỉ hạn chế ở những sinh
18
viên do nhà trường quản lý, mà nên mở rộng tới những người đang sống ở
khắp nơi trên đất nước.[4]
Cho tới nay Mỹ là nước có nền nông nghiệp rất phát triển với chỉ 6%
dân số sống bằng sản xuất nông nghiệp nhưng năng suất và sản lượng nông
nghiệp của Mỹ vẫn đạt mức cao. Điển hình là sản lượng đậu tương năm 1985

là 55 triệu tấn, tới năm 2001 sản lượng đậu tương của Mỹ đã tăng lên 70 triệu
tấn cho đến nay Mỹ là nước xuất khẩu đậu tương lớn nhất thế giới, hàng năm
xuất khẩu 16,9 triệu tấn chiếm 54% tổng khối lượng xuất khẩu đậu tương thế giới.
• Ấn Độ
Tại Ấn Độ tổ chức khuyến nông ra đời từ những năm 1950 tổ chức
đào tạo theo 5 cấp: cấp Quốc gia, cấp vùng, cấp bang, cấp huyện và cấp xã.
Do làm tốt công tác khuyến nông cho nên Ấn Độ đã có một nền nông
nghiệp phát triển mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc “Cách mạng xanh” đã giải
quyết cơ bản về vấn đề lương thực. Sau đó là “Cách mạng trắng” với phong
trào sản xuất sữa và hiện tại nền nông nghiệp Ấn Độ đang thực hiện cuộc
“Cách mạng nâu” đó là phát triển chăn nuôi trâu, bò. [4]
• Thái Lan
Ngày 20/10/1967 Chính phủ Thái Lan mới có quyết định thành lập tổ
chức khuyến nông. Tuy ra đời hơi muộn so với một số nước khác nhưng
Chính phủ Thái Lan đặc biệt quan tâm đến hoạt động này. Hàng năm Chính
phủ Thái Lan chi từ 120 – 150 triệu USD, thậm trí đến 200 triệu USD/năm
để đầu tư cho hoạt động khuyến nông. Thái Lan cho tới nay có một hệ
thống khuyến nông khá mạnh, có thể nói khuyến nông Thái Lan có mặt tới
tận làng, xã. Ở Bộ nông nghiệp thuỷ sản có cục khuyến nông, ở cấp tỉnh có
Trung tâm khuyến nông, ở cấp huyện có trạm Khuyến nông.
Trung Quốc
Trung Quốc là một nước đông dân nhất trên thế giới với hơn 1,3 tỷ
người nhưng nền nông nghiệp Trung Quốc không những đủ cung cấp nhu
19
cầu trong nước mà còn là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn
nhất thế giới. Theo Jinguguan: “Hiện nay và trong tương lai, khuyến nông
vẫn đóng vai trò quan trọng đối với nền nông nghiệp của Trung Quốc”.
Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc áp dụng chính sách hỗ trợ nông
nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương trình khuyến nông
chuyển giao giống cây trồng, lúa lai chất lượng cao, sản xuất đỗ tương xuất

khẩu kết hợp cải tạo đất; dự án sản xuất giống vật nuôi, nâng cao sản lượng
sữa được tập trung góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống
cho nông dân. Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư xây dựng, góp phần
đẩy mạnh tiêu thụ nông sản thông qua chương trình khuyến nông quốc gia,
giống mới cung cấp cho nông dân gần như cho không, hàng loạt các hoạt
động tập huấn, mô hình trình diễn được tổ chức giúp người nông dân nắm
bắt được những kỹ thuật mới. Nhờ những chính sách đúng đắn của Nhà
nước và hoạt động hiệu quả của khuyến nông, nông nghiệp Trung Quốc đã
đạt được kết quả không ngờ sau vài năm thực hiện.
Từng bước Khuyến nông trên khắp các vùng miền của Trung Quốc đã
giúp nông dân hiểu được vai trò, trách nhiệm của họ dưới sự phát triển
chung của nông nghiệp. Các Khuyến nông viên giúp nông dân nâng cao
trình độ canh tác, giúp họ hiểu được phải làm gì, làm khi nào và làm như
thế nào? Cùng họ nghiên cứu ngay trên mảnh ruộng của mình để chính họ
trở thành những chủ nhân – chuyên gia kỹ thuật viên.
Cuối năm 1997, trên toàn đất nước Trung Quốc đã có hơn 48.500 tổ
chức khuyến nông với hơn 317.000 khuyến nông viên (từ Trung ương tới
tỉnh, huyện, xã, làng bản); khuyến nông viên phối hợp hoạt động cũng
khoảng 400.000 tổ chức nông dân là kỹ thuật viên. Hiện nay khuyến nông
Trung Quốc đã là một hệ thống hoàn thiện trên quy mô cả nước sau nhiều
năm không ngừng củng cố (Phạm Kim Oanh, 2006)
2.2.1.2. Lịch sử khuyến nông trong nước
20
Khuyến nông Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của nền sản xuất nông nghiệp. Các vua Hùng cách đây hơn 2000 năm đã
trực tiếp dạy dân cách làm nông nghiệp: gieo hạt, cấy lúa, mở các cuộc thi để
các Hoàng tử, Công chúa có cơ hội trổ tài, chế biến các món ăn từ các nông
sản tại chỗ. Công chúa Thiều Hoa là người đầu tiên dạy dân chăn tằm dệt lụa.
Vua Lê Đại Hành (979 - 1008) là ông vua đầu tiên đích thân đi cày ruộng tịnh
điền ở Đọi Sơn, Bàn Hải thuộc vùng Duy Tiên, Nam Hà ngày nay. [2]

Các vua Lý (1009 -1056) rất coi trọng nghề nông và đã ra nhiều chính
sách chăm lo phát triển nông nghiệp.
Triều vua Lê Thái Tông (1492). Triều đình đặt chức Hà Đê Sứ và
Khuyến nông sứ đến cấp phủ huyện và từ năm 1492 mỗi xã có một xã
trưởng phụ trách nông nghiệp và đê điều. Triều đình ban bố chiếu khuyến
nông, chiếu lập đồn điền, và lần đầu tiên sử dụng từ “khuyến nông” trong
bộ luật Hồng Đức.[2]
Thời vua Quang Trung (1807 – 1792): Từ năm 1789 sau khi thắng
giặc ngoại xâm, Quang Trung ban bố ngay “chiếu khuyến nông” nhằm
phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, sau 3 năm những đất
đai hoang hóa đã được phục hồi, sản xuất phát triển.[2]
Đến thời kỳ nhà Nguyễn (1807 - 1884) đã định ra chức đinh điền
sứ. Nguyễn Công Trứ được giao chức vụ này. Ông đã có công khai
khẩn đất hoang để lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn
(tỉnh Ninh Bình).
Thời kỳ pháp thuộc (1884 – 1945) phát triển nông nghiệp và khuyến
nông chủ yếu phục vụ chính sách thuộc địa phong kiến của thực dân pháp.
Người Pháp tổ chức các Sở canh nông ở Bắc Kỳ, các Ty khuyến nông ở
các tỉnh.
21
Từ sau cách mạng tháng 8/1945 – 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm tới nông nghiệp, người kêu gọi quốc dân “Tăng gia sản xuất!
Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa! Đó là những việc cấp bách
của chúng ta lúc này”.[2] Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân
bắt tay vào khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất.
Từ năm 1958 – 1975 nông nghiệp Miền Bắc Việt Nam phát triển
trong sự tác động mạnh mẽ của mô hình HTX nông nghiệp. Từ đổi công
(1956), đến HTX bậc thấp năm 1960, đến HTX cấp cao (1968), đến HTX
toàn xã năm 1974. Thành lập các đoàn cán bộ nông nghiệp ở Trung ương,
cấp tỉnh, huyện chỉ đạo sản xuất ở cơ sở. Giai đoạn 1976 – 1988 nông

nghiệp Việt Nam thống nhất thành một mối hai miền cùng tăng gia phát
triển sản xuất. Song diễn biến tình hình có nhiều phức tạp, do sự tác động
của quan hệ sản xuất tập thể và mô hình quản lý tập chung, kế hoạch hóa
tập chung. Nhiều thiếu sót đã nảy sinh trong quản lý kinh tế và quản lý
nông nghiệp, đã làm cho nông nghiệp phát triển chậm lại đời sống nông
thôn nảy sinh nhiều vướng mắc, nông dân không yên tâm sản xuất và sinh
sống.
Trước thực trạng suy thoái kinh tế những năm cuối thập kỷ 70 và đầu
năm 80 nói chung và nông nghiệp nói riêng, ngày 13/01/1981 chỉ thị
100CT/TW của ban Bí thư Trung ương Đảng về “cải tiến công tác khoán,
mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông
nghiệp” được ban hành (gọi tắt là khoán 100). Khoán 100 mặc dù chưa
phải là mô hình mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp, mà mới chỉ là cải
tiến hình thức khoán, từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội
sang khoán hộ. Đây cũng được coi là đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý
tập chung, quan liêu, sản xuất tập thể. Vì vậy, coi là “Chìa khóa vàng” để
mở ra thời kỳ mới của sản xuất nông nghiệp Việt Nam.[6]
Tới tháng 12/1986, đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối đổi mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI (5/4/1988) về “đổi mới quản lý
22
trong nông nghiệp” nhằm giải phóng sản xuất trong nông thôn đến từng
hộ nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn
(gọi tắt là khoán 10). PGS.TS Chanock Jacobsen đã khẳng định: “Trong
một thế giới đang chuyển đổi mà sự khởi đầu của cá thể và tư nhân chiếm
vị trí cao trong sự phát triển nông nghiệp, khuyến nông đã trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết”.
Ngày 02/3/1993 Chính phủ ra nghị định 13CP về công tác khuyến
nông. Bắt đầu hình thành hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến địa
phương. Năm 1993 Cục khuyến nông Khuyến lâm được thành lập: vừa

quản lý nhà nước vừa làm công tác khuyến nông. Năm 2001 Trung tâm
Khuyến nông Trung ương ra đời (trực thuộc cục khuyến nông). Tới năm
2003 Trung tâm khuyến nông Quốc gia được thành lập.
Ngày 26/4/2005 Chính phủ đã ban hành nghị định 56/2005/CP thay thế
cho Nghị định 13CP. Trong nghị định này quy định rõ hơn về hệ thống tổ
chức khuyến nông ( đặc biệt đội ngũ CBKN cơ sở). Bổ sung thêm nội dung
tư vấn, dịch vụ khuyến nông và hợp tác quốc tế về khuyến nông; mở rộng
đối tượng tham gia đóng góp và hưởng thụ khuyến nông nhằm thực hiện
mục tiêu xã hội hoá công tác khuyến nông.
2.2.1.3. Hệ thống tổ chức khuyến nông Việt Nam hiện nay
a. Ở Trung ương:
Theo Nghị định số 02/2010/NĐ- CP của Chính phủ và Quyết định số
1816 /QĐ- TCCB ngày 28/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
PTNT, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập
phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và PTNT về
khuyến nông. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công
lập phục vụ quản lý nhà nước của Bộ, song trên thực tế vẫn phải thực hiện
một số nhiệm vụ có tính chất quản lý nhưng không chính danh như: xây
dựng kế hoạch khuyến nông trung hạn và hàng năm; lập kế hoạch kiểm tra,
giám sát, đánh giá các chương trình, dự án khuyến nông trung ương; hướng
dẫn phương pháp, nghiệp vụ khuyến nông cho hệ thống khuyến nông địa
23
phương; tổng hợp báo cáo kết quả hoạt động khuyến nông trên phạm vi
toàn quốc; đề xuất các cơ chế chính sách về khuyến nông…
b. Ở Địa phương:
Tổng số cán bộ, khuyến nông viên ở các địa phương trong cả nước
tính đến thời điểm 31/12/2011 là 34.747 người, tăng 3% so với năm 2010
Về cơ cấu:
- Cán bộ nữ chiếm tỷ lệ 31,6%;
- Cán bộ là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 34,8%;

- Phân theo cấp hành chính: cấp tỉnh có 1.903 người (chiếm 5,5%),
cấp huyện có 4.025 người (chiếm 11,6%), cấp xã có 11.232 người (chiếm
32,3%), cộng tác viên khuyến nông thôn bản có 17.587 người (chiếm 50,6%).
- Phân theo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ:
+ Trình độ đội ngũ cán bộ khuyến nông chuyên trách (cấp tỉnh và
cấp huyện) cả nước như sau: trình độ trên đại học chiếm 3,6% (2 tiến sỹ,
187 thạc sỹ); đại học 66,8%; cao đẳng 5,6%; trung cấp 17,3%; khác 6,7%.
+ Trình độ đội ngũ cán bộ khuyến nông viên cơ sở (cấp xã và thôn,
bản): chủ yếu là trình độ trung cấp và sơ cấp, đã được đào tạo ngắn hạn về
phương pháp và nghiệp vụ khuyến nông.
- Bình quân cả nước: 280 hộ sản xuất nông lâm, ngư nghiệp có 01
cán bộ khuyến nông.
Tổ chức và nhiệm vụ của hệ thống khuyến nông địa phương:
Thực hiện Nghị định 02/2010/NĐ-CP của Chính phủ, hệ thống
khuyến nông của các địa phương tiếp tục được củng cố và phát triển:
Cấp tỉnh: cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung ương có Trung tâm
Khuyến nông. Đến nay tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã có tổ
chức khuyến nông cấp tỉnh. Tuy nhiên tên gọi và nhiệm vụ chưa hoàn toàn
đồng nhất:
- Về tên gọi: hiện có 6 loại tên gọi khác nhau đối với tổ chức khuyến
nông cấp tỉnh là:
+ Trung tâm khuyến nông;
24
+ Trung tâm khuyến nông - khuyến ngư;
+ Trung tâm khuyến nông - khuyến lâm (Bắc Kạn);
+ Trung tâm khuyến nông - khuyến lâm - khuyến ngư (Ninh Bình);
+ Trung tâm khuyến ngư nông lâm (Đà Nẵng);
+ Trung tâm khảo nghiệm và khuyến nông - khuyến ngư (Thái Bình)
- Về nhiệm vụ: hiện còn 07 tỉnh, thành phố là: Tuyên Quang,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Đồng Nai, Long An, Vĩnh Long, Cần Thơ,

nhiệm vụ khuyến ngư chưa giao cho các Trung tâm khuyến nông tỉnh
mà giao cho các đơn vị khác nhau như: Trung tâm thuỷ sản hoặc Chi cục
thuỷ sản tỉnh thực hiện.
- Tổng số cán bộ khuyến nông cấp tỉnh là 1.903 người, giảm 10% so
với năm 2010, bình quân hiện nay mỗi Trung tâm khuyến nông tỉnh có 30
cán bộ viên chức đang làm việc; đơn vị có số lượng cán bộ khuyến nông
cấp tỉnh lớn nhất là thành phố Hà Nội: 65 cán bộ; tỉnh có số lượng ít nhất là
Kon Tum: 14 cán bộ.
Trung tâm khuyến nông tỉnh, thành phố là đầu mối để triển khai các
hoạt động khuyến nông trên địa bàn. Ngoài các chức năng, nhiệm vụ về
khuyến nông, một số đơn vị còn tham gia các hoạt động đào tạo nghề,
nghiên cứu khoa học, khảo kiểm nghiệm các giống mới, thực hiện các dự
án, đề án theo phân công của Sở Nông nghiệp và PTNT.
Cấp huyện: Theo Nghị định 02/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy
định ở cấp huyện (huyện, thị xã có sản xuất nông nghiệp) có Trạm khuyến
nông huyện.
Tính đến 31/12/2011, cả nước có 567 Trạm khuyến nông cấp huyện/
596 đơn vị cấp huyện, thị xã trong cả nước (đạt 95%). Trong đó tên gọi ở
các địa phương cũng khác nhau, đa số là Trạm Khuyến nông hoặc Trạm
Khuyến nông - Khuyến ngư; tuy nhiên ở một số tỉnh có tên gọi khác như
Trạm Khuyến ngư (Cà Mau); 02 tỉnh không có hệ thống khuyến nông
chuyên trách cấp huyện, mà giao cho các đơn vị khác nhau ở cấp huyện
như: Đà Nẵng, Quảng Nam (chỉ có bộ phận Khuyến nông thuộc Phòng
25

×