ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÃ THANH HẢI
Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ CAO CHƯƠNG -
HUYỆN TRÀ LĨNH - TỈNH CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên nghành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : KT&PTNT
Khóa học : 2010 – 2014
Th¸i Nguyªn, n¨m 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÃ THANH HẢI
Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ CAO CHƯƠNG -HUYỆN
TRÀ LĨNH - TỈNH CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên nghành : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : K42B - KTNN
Khoa : KT&PTNT
Khóa học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: Th S. Đặng Thị Thái
Th¸i Nguyªn, n¨m 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÃ THANH HẢI
Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ CAO CHƯƠNG -
HUYỆN TRÀ LĨNH - TỈNH CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên nghành : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : K42B - KTNN
Khoa : KT&PTNT
Khóa học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: Th S. Đặng Thị Thái
Th¸i Nguyªn, n¨m 2014
LỜI CẢM ƠN
Như chúng ta đã biết thực tập tốt nghiệp là khâu cuối cùng và rất quan
trọng của mỗi sinh viên trong quá trình thực tậpvà nghiên cứu tại trường. Qua
đó giúp cho mỗi sinh viên có điều kiện hệ thống lại toàn bộ những kiến thức
đã được học và giúp tôi áp dụng làm quen với thực tế.
Xuất phát từ thực tế và nguyện vọng của bản thân, được sự phân công
của khoa Kinh tế và phát triển nông thôn, phòng đào tạo, Ban giám hiệu nhà
trường. Tôi được về thực tập tại Xã Cao Chương – Huyện Trà Lĩnh – TP Cao
Bằng với thời gian 3 tháng nay đã kết thúc thành công tốt đẹp, có điều kiện đó
là nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của bà con nông dân xã nhà và cán bộ UBND Xã
Cao Chương – Huyện Trà Lĩnh đặc biệt là sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của
giảng viên Ths. Đặng Thị Thái đã giúp tôi vượt qua khó khăn và bỡ ngỡ
trong thời gian qua. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
thầy cô đã giảng dạy nhiệt tình trong 4 năm học.
Bản thân tôi tuy có nhiều cố gắng hết khả năng của mình nhưng trình độ
và năng lực còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô trong khoa, trong
trường.
Lời cuối xin kính chúc các thầy cô giáo trong khoa, trong trường lời chúc
sức khỏe, hạnh phúc và công tác tốt.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Lã Thanh Hải
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa
CNH - HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
UBND Ủy ban nhân dân
NN - PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
BQ Bình quân
ĐVT Đơn vị tính
CN - TTCN Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
LĐ Lao động
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng tài nguyên đất của xã năm 2013 32
Bảng 3.2 Thành phần dân tộc trên địa bàn xã Cao Chương năm 2013 33
Bảng 3.3. Tình hình dân số và lao động của xã qua 3 năm 2011-2013 34
Bảng 3.4. Giá trị sản xuất các ngành của xã Cao Chương 2011-2013 38
Bảng 3.5. Khảo sát thu nhập của nhóm hộ điều tra 39
Bảng: 3.6: Phân nhóm hộ thu nhập 40
Bảng 3.7:Tình hình cơ bản các hộ điều tra 41
Bảng 3.8. Trình độ của các chủ hộ điều tra 44
Bảng 3.9: Chi phí cho 1 sào lúa/vụ theo hộ 46
Bảng 3.10: Chi tiết chi phí chăn nuôi của các nhóm hộ 47
Bảng 3.11: Tổng thu giữa các nhóm hộ 49
Bảng 3.12: Summary 52
Bảng 3.13: ANOVA 53
Bảng 3.14: Hệ số co dãn (hồi quy) giữa tổng thu với các yếu tố cơ bản tác
động đến thu nhập của hộ năm 2013 53
DANH MỤC HÌNH
Biểu đồ 3.1: Phân bố thu nhập của hộ điều tra 40
Biểu đồ 3.2: trình độ của các chủ hộ điều tra 44
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2. Mục tiêu 1
2.1. Mục tiêu chung 1
2.2. Mục tiêu cụ thể 2
3. Ý nghĩa của đề tài 2
3.1. Ý nghĩa trong học tập và trong nghiên cứu khoa học 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
4. Bố cục khóa luận 2
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3
1.1. Cơ sở lý luận 3
1.1.1. Khái niệm về hộ 3
1.1.2. Các quan điểm về hộ và phát triển kinh tế hộ 4
1.1.2.1. Các quan điểm về hộ nông dân 4
1.1.2.2. Quan điểm về phát triển kinh tế hộ nông dân 4
1.1.3. Đặc điểm của kinh tế hộ trong quá trình sản xuất 6
1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ nông dân ở việt nam 7
1.1.5. Phân loại hộ nông dân 9
1.2. Cơ sở thực tiễn 10
1.2.1. Kinh tế hộ nông dân ở các nước trên thế giới 10
1.2.2. Kinh tế hộ nông dân của một số địa phương ở Việt Nam 12
1.2.3. Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở xã Cao Chương 18
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 20
2.1 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 20
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 20
2.1.2. Phạm vi không gian 20
2.1.3. Phạm vi thời gian 20
2.2. Nội dung nghiên cứu 20
2.3. Phương pháp nghiên cứu 21
2.3.1 Phương pháp thu thập số liệu 21
2.3.1.1. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 21
2.3.1.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 22
2.3.2. Phương pháp sử lý số liệu 22
2.4. Các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế hộ 22
2.5. Lý thuyết cho hàm hồi quy 23
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 27
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 27
3.1.1.1. Vị trí địa lý 27
3.1.1.2. Địa hình, địa mạo 27
3.1.1.3. Khí hậu 28
3.1.1.4. Thuỷ văn 29
3.1.2. Cơ sở hạ tầng 29
3.1.3. Các nguồn tài nguyên 31
3.1.3.1. Tài nguyên nhân văn 31
3.1.3.2. Tài nguyên đất 31
3.1.4. Đặc điểm kinh tế xã hội 33
3.1.4.1. Dân số và lao động 33
3.1.4.2. Thực trạng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã 35
3.2. Tình hình cơ bản của các hộ trên địa bàn xã Cao Chương 39
3.2.1. Tình hình kinh tế các chủ hộ điều tra 39
3.2.1.1. Tiêu chí phân loại hộ 39
3.2.1.2. Khảo sát thu nhập của các nhóm hộ điều tra 39
3.2.1.3. Tình hình cơ bản của nhóm hộ điều tra 41
3.2.1.4. Trình độ của các chủ hộ điều tra 43
3.2.2. Những khoản chi phí trong sản xuất 45
3.2.2.1. Đối với trồng lúa 45
3.2.2.2. Đối với ngành chăn nuôi 47
3.2.2.3. Tổng thu giữa các nhóm hộ 48
3.2.3. Các nhân tố tự nhiên tác động đến kinh tế hộ 49
3.2.3.1.Tác động thị trường đầu vào 49
3.2.3.2. Tác động thị trường đầu ra 50
3.3. Mối quan hệ giữa thu nhập và các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế
hộ 51
Chương 4 CÁC GIẢI PHÁP 54
4.1. Kế hoạch, phương hướng phát triển của địa phương 54
4.1.1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi. 54
4.1.2. Định hướng kế hoạch chiến lược đến năm 2020 54
4.2. Các giải pháp 55
4.2.1. Giải pháp từ địa phương 55
4.2.1.1. Giải pháp về thị trường 55
4.2.1.2. Giải pháp về khoa học kỹ thuật 56
4.2.2. Giải pháp từ phía hộ 57
4.2.2.1. Giải pháp về nguồn lực của hộ 57
4.2.2.2. Giải pháp tiếp cận chính sách 58
4.2.2.3. Giải pháp về tài chính 58
KẾT LUẬN 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn,kinh tế hộ nông dân
giữ vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế khu vực
và thế giới.Nó là đơn vị kinh tế đặc thù và phù hợp với thực trạng phát triển
sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay.Kinh tế hộ nông dân được coi trọng
và nó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nước ta và góp phần giải quyết vấn đề
việc làm và xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn,đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao và phong phú của con người về lương thực thực phẩm [2].
Cùng với sự phát triển chung của kinh tế xã hội đời sống của người dân
trong xã Cao Chương huyện Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng ngày càng thay đổi, kinh
tế từng bước được nâng lên tỷ lệ hộ nghèo giảm, tỷ lệ giàu và khá tăng lên so
với cả nước.
Có thể nói xem xét các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế gia
đình,sự cần thiết tháo gỡ những bất cập,để có hiệu quả sử dụng tối ưu các
nguồn lực đã trở thành mối quan tâm của mọi người,đặc biệt là những người
dân ở nông thôn, những chủ thể trực tiếp chịu sự tác động đó.
Từ thực tế này, tôi đi nghiên cứu đề tài: ‘Phân tích các nhân tố tác động
đến phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Cao Chương, huyện Trà Lĩnh, tỉnh
Cao Bằng’. Nhằm làm rõ những mặt khó khăn cũng như thuận lợi của các yếu
tố tác động đến sự tăng trưởng kinh tế hộ nông dân tại xã Cao Chương. Trên
cơ sở đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị để phát triển các tiềm năng sẵn có
khắc phục những khó khăn mà hộ gia đình gặp phải.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
-Tìm hiểu nhân tố tác động đến phát triển kinh tế hộ.
-Đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân tại xã Cao
2
Chương huyện Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
-Khái quát được địa bàn nghiên cứu,vai trò của hộ và đặc điểm phát
triển kinh tế hộ trên địa bàn xã.
-Tìm hiểu đặc điểm,thực trạng kinh tế hộ nông dân trong năm 2013.
- Nghiên cứu,phân tích nhân tố tác động đến phát triển kinh tế hộ nông
dân trên địa bàn xã.
-Đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn để phát triển
kinh tế của hộ nông dân.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và trong nghiên cứu khoa học
- Vận dụng những kiến thức đã học ở nhà trường áp dụng vào thực tiễn.
- Giúp sinh viên bổ sung thêm kiến thức và kinh nghiệm thực tế.
- Rèn luyện được kỹ năng thu thập, xử lý số liệu và viết báo cáo.
- Làm rõ thêm về các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế hộ tại địa
bàn xã Cao chương, huyện Trà Lĩnh, TP Cao Bằng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài phân tích đánh giá một cách khái quát về các nhân tố tác động
đến phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Cao Chương – huyện Trà Lĩnh – TP
Cao Bằng.
4. Bố cục khóa luận
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Các giải pháp
Kết luận
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về hộ
Trong quá trình phát triển và tồn tại, con người trải qua mỗi thời kỳ
khác nhau. Hộ và kinh tế hộ đều chung một bản chất là “Sự hoạt động sản
xuất kinh doanh của các thành viên trong gia đình cố gắng làm ra nhiều của
cải vật chất để nuôi sống và tăng thêm thu nhập cho gia đình và xã hội”.
Qua tìm hiểu cho thấy, có nhiều khái niệm của các nhà khoa học về hộ
như sau:
Hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, gồm những
người cùng chung huyết thống và những người làm công [4].
Hộ là tất cả những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn
chung và có chung một ngân quỹ [4].
Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội, có liên quan đến sản xuất và tái sản
xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác [2,5].
Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc, hay không có chung
huyết tộc, ở chung một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một
ngân quỹ.
Hộ là một đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động [4].
Hộ là một đơn vị đảm bảo quá trình tái sản xuất nguồn lao động thông
qua việc tổ chức nguồn lao động chung [4].
Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc, có quan hệ mật
thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân
họ và cộng đồng [4].
4
1.1.2. Các quan điểm về hộ và phát triển kinh tế hộ
1.1.2.1. Các quan điểm về hộ nông dân
Hộ nông dân theo Frank Ellis định nghĩa “Hộ nông dân là các hộ gia
đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử
dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ
thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào
thị trường và có xu hướng hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không
cao[5].
Nhà khoa học Traianốp cho rằng “ Hộ nông dân là một đơn vị sản xuất
rất ổn định” và ông coi “hộ nông dân là đơn vị tuyệt đối để tăng trưởng và
phát triển nông nghiệp[3, 7].
Ở nước ta, theo nhà khoa học Lê Đình Thắng cho rằng: “Nông hộ là tế
bào kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và trong nông
thôn [5, 2].
Qua tìm hiểu những quan điểm trên về hộ nông dân cho thấy rằng:
Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất
chính là nông nghiệp mà nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề
nông. Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động
phi nông nghiệp như: Tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ… ở mức độ
khác nhau.
1.1.2.2. Quan điểm về phát triển kinh tế hộ nông dân
- Quan điểm về phát triển
Theo quan điểm phát triển của Patchanee napracha and Alexxandra
Steppens trong tác phẩm “Tallking hold of ruallif” thì “ phát triển là một quá
trình không thay đổi”. Đó đã nói lên sự hoàn thiện trong các lĩnh vực mà các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nghĩa là nó đáp ứng nhu cầu
của con người ở mức độ cao trong mọi lĩnh vực, cả về đời sống vật chất và
5
đời sống tinh thần, cả phát triển kinh tế và phát triển xã hội theo xu hướng văn
minh nhân loại. Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt trong nền
kinh tế trong thời kỳ nhất định trong đó bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản
lượng và tiến bộ mọi mặt của xã hội hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Luận điểm cơ bản nhất của Tchayanov (1992) cho rằng coi kinh tế hộ nông
dân là phương thức sản xuất tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Mỗi phương thức
sản xuất có quy luật phát triển riêng của nó, và trong mỗi chế độ, nó là cách
thích ứng với cơ chế kinh tế hiện hành. Mục tiêu của hộ nông dân là có thu
nhập cao không kể thu nhập ấy do nguồn gốc nào, trồng trọt, chăn nuôi hay
ngành nghề đó là kết quả chung của lao động gia đình.
Khái niệm gốc để phân tích kinh tế gia đình là sự cân bằng lao động –
tiêu dùng giữa sự thỏa mãn các nhu cầu của gia đình và sự nặng nhọc của lao
động. Sản lượng chung của các hộ gia đình hàng năm trừ đi chi phí sẽ là sản
lượng thuần mà gia đình dùng để tiêu dùng, đầu tư sản xuất và tiết kiệm. Mỗi
hộ nông dân cố gắng đạt được một thỏa mãn nhu cầu thiết yếu bằng cách tạo
một sự cân bằng giữa mức độ thỏa mãn nhu cầu của gia đình với mức độ nặng
nhọc của lao động. Sự cân bằng này thay đổi theo thời gian, theo cân bằng
sinh học, do tỷ lệ giữa người tiêu dùng và người lao động quyết định [7, 7].
Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất
xã hội, trong đó các nguồn lực như đất đai, tiền vốn và tư liệu sản xuất được
coi là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một
nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất – kinh doanh và đời sống là tuy
thuộc vào chủ hộ, được nhà nước thừa nhận, hỗ trợ tạo điều kiện phát triển.
- Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế xã hội với mức độ liên tục
trong thời gian dài. Sự phát triển của nó dựa trên việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên một cách có hiệu quả mà vẫn bảo vệ môi trường sinh thái. Phát
6
triển kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến việc
đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai.
Về quan điểm phát triển bền vững kinh tế hộ nông dân không tách rời
với quan điểm phát triển bền vững nông thôn và có những nội dung phát triển
như sau:
+ Đảm bảo nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp
ứng nhu cầu tương lai.
+ Phát triển kinh tế xã hội nông thôn gắn liền với giữ gìn và bảo vệ môi
trường.
Quan điểm phát triển bền vững kinh tế nông thôn đứng trên quan điểm
tiếp cận hệ thống trong phát triển nông thôn. Quá trình phát triển kinh tế nông
hộ có rất nhiều nhân tố tác động, song một số nhân tố như: Nhân tố nội tại của
nông hộ, nhân tố kỹ thuật, nhân tố thị trường, nhân tố tự nhiên, nhân tố xã hội
có ảnh hưởng nhiều hơn. Trong đó chúng ta cần xét đến các nội dung cụ thể
như ruộng đất, trình độ dân trí, công nghệ kỹ thuật và vấn đề khó khăn của
từng hộ gia đình.
Tóm lại, có thể thấy kinh tế nông hộ là một hình thức cơ bản và tự chủ
trong nông nghiệp. Nó được hình thành và phát triển một cách khách quan,
lâu dài, dựa trên sự tư hữu các yếu tố sản xuất, là loại hình kinh tế có hiệu
quả, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, thích ứng, tồn tại và phát triển trong
mọi chế độ kinh tế xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của kinh tế hộ trong quá trình sản xuất
Quy mô sản xuất nhỏ, có sức lao động, có các điều kiện về đất đai, tuy
nhiên lại thiếu vốn, thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, thiếu kiến thức về
thị trường nên sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Nếu
không có sự hỗ trợ của Nhà nước và các cơ chế chính sách về vốn thì kinh tế
7
hộ không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận với cơ chế
thị trường.
1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ nông dân ở việt nam
- Trong xã hội kinh tế hộ nông dân luôn tồn tại và phát triển, trải qua
nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau ngày càng khẳng định được tầm quan trọng
với việc phát triển kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế hộ là phát triển người dân,
nâng cao mức sống và nguồn thu nhập của người nông dân.
- Kinh tế hộ là một tế bào của xã hội, nó đóng vai trò rất quan trọng
trong việc đổi mới công nghệ sản xuất nâng cao đời sống của người dân và
góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Hộ là nơi tích lũy kinh nghiệm
sản xuất truyền thống cũng là nơi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Khi
xu thế xã hội ngày càng phát triển, chuyển sang xu hướng sản xuất hàng hóa
và cạnh tranh trên thị trường thì hộ buộc phải đổi mới phương pháp sản xuất
nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn với giá cả hợp lý.
- Mặc dù kinh tế hộ có những bước thăng trầm nhưng hộ nông dân và
kinh tế hộ vẫn tồn tại bền vững, thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển. Các
thành viên trong hộ được gắn bó chặt chẽ với nhau bởi quan hệ huyết thống,
quan hệ hôn nhân, với những mỗi quan hệ thật sự bình đẳng đó là quan hệ sở
hữu tài sản, quan hệ phân phối các nguồn thu nhập và chi tiêu. Đó chính là
mối quan hệ gắn bó và cảm thông truyền thống nhằm tạo ra những lợi ích
kinh tế cho gia đình.
- Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội; Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn vốn, lao
động, tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội; Là
đối tác cạnh tranh của kinh tế quốc doanh trong quá trình đó để cùng vận
động và phát triển. Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm
được chi phí, chuyển hướng sản xuất nhanh tạo được quỹ hàng hoá cho tiêu
8
dùng và xuất khẩu tăng thu cho ngân sách nhà nước. Xét về lĩnh vực tài chính
tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị trường vốn, thu hút nhiều
nguồn đầu tư. Cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển đã góp phần đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia và tạo được nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn
định an ninh trật tự xã hội, nâng cao trình độ dân trí, sức khoẻ và đời sống của
người dân. Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh". Kinh tế hộ được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát
triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn,
công nghệ và lợi thế sinh thái từng vùng. Kinh tế hộ nông thôn và một bộ
phận kinh tế trang trại đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông lâm, thủy sản,
sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất: Đáp ứng
nhu cầu vốn cho kinh tế hộ sản xuất mở rộng sản xuất, kinh doanh, mở rộng
thêm ngành nghề. Khai thác các tiềm năng về lao động, đất đai, mặt nước và
các nguồn lực vào sản xuất. Tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho hộ
sản xuất. Tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất tiếp cận và áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận với cơ chế thị trường
và từng bước điều tiết sản xuất phù hợp với tín hiệu của thị trường. Thúc đẩy
kinh tế hộ sản xuất chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá,
góp phần thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn và thúc đẩy các hộ
gia đình tính toán, hạch toán trong sản xuất kinh doanh, tính toán lựa chọn đối
tượng đầu tư để đạt được hiệu quả cao nhất. Tạo nhiều việc làm cho người lao
động. Hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nông thôn, tình trạng bán lúa
non Kinh tế hộ sản xuất trong nông nghiệp dù họ làm nghề gì cũng có đặc
trưng phát triển do nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp quy định. Như vậy hộ
9
sản xuất kinh doanh trong nền sản xuất hàng hoá không có giới hạn về
phương diện kinh tế xã hội mà phụ thuộc rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh
doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ những tư liệu sản xuất và mức độ
vốn đầu tư của mỗi hộ sản xuất.
Vì vậy kinh tế hộ có vai trò rất quan trọng để phát triển đất nước trong
thời kỳ hội nhập và phát triển.
1.1.5. Phân loại hộ nông dân
- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động gồm có:
Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường.
Loại hộ này có mục tiêu tối đa hóa lợi ích, đó là việc sản xuất các sản
phẩm cần thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động
trong nông hộ phải hoạt động cật lực và đó cũng được coi là một lợi ích, để có
thể tự cấp tự túc cho sinh hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào:
-Khả năng mở rộng diện tích đất đai.
- Có thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi.
- Có thị trường lao động để họ bán sức lao động để tăng thu nhập.
- Có thị trường sản phẩm để trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
Hộ nông dân sản xuất hàng hóa chủ yếu: loại hộ này có mục tiêu là tối
đa hóa lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị
trường vốn, ruộng đất, lao động [4].
- Theo tính chất của ngành sản xuất hộ gồm có:
Hộ thuần nông là loại hộ chỉ thuần túy sản xuất nông nghiệp [4].
Hộ chuyên nông là loại hộ chuyên làm các ngành như cơ khí, mộc rèn,
sản xuất vật liệu xây dựng, vận tải thủ công mỹ nghệ, dệt may, làm dịch vụ kỹ
thuật cho nông nghiệp [4].
Hộ kiêm nông là hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ công
nghiệp, nhưng thu từ nông nghiệp là chính [4].
10
Hộ buôn bán là hộ ở nơi đông dân cư, có quầy hàng và buôn bán ở chợ.
Các loại hộ trên không ổn định mà thay đổi khi điều kiện cho phép, vì
vậy sản xuất nông nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng sản xuất và xã
hội nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế để hộ đa dạng hóa ngành nghề hoặc chuyên môn hóa. Từ đó làm cho
lao động trong nông nghiệp giảm, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hoặc
làm cho đối tượng phi nông nghiệp tăng lên [8].
- Căn cứ mức thu nhập của hộ bao gồm:
+ Hộ khá
+ Hộ trung bình
+ Hộ cận nghèo
+ Hộ nghèo
Căn cứ vào tính chất ổn định của tình trạng ăn ở và canh tác bao gồm: hộ du
canh du cư, hộ định canh định cư, hộ định cư du canh, hộ định cư du cư.
Sự phân biệt dựa trên những quy định chung của nhà nước hoặc quy
định của địa phương. Bài khóa luận này dựa trên những quy định của địa bàn
nghiên cứu và để đơn giản cho việc phân loại hộ nông dân theo thu nhập,
khóa luận chia thành 3 loại hộ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh tế hộ nông dân ở các nước trên thế giới
Khi kinh tế hộ lần đầu xuất hiện ở các nước Tây Âu đã đem lại hiệu quả kinh
tế - xã hội rõ rệt, sau đó kinh tế hộ lan sang các nước công nghiệp hóa Châu
Âu, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương cho đến nay kinh tế hộ phát triển ở các nước
Châu Á như:
- Thái Lan: Sớm nhận biết được tầm quan trọng của nền nông nghiệp,
Chính phủ Thái Lan đã thực hiện nhiều chính sách để đưa đất nước từ một
nước lạc hậu trở thành nước có nền khoa học kỹ thuật tiến tiến, biết vận dụng
11
những cái mới vào lao động sản xuất. Những chính sách có liên quan đến việc
phát triển kinh tế vùng núi ban hành (từ 1950 – 1980)
Thứ nhất: Sửa chữa và bổ sung mạng lưới đường bộ, đường sắt, phá thế
cô lập ở các vùng xa (Bắc, Đông Bắc, Nam…) đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
xây dựng đập nước ở các vùng.
Thứ hai: Chính sách mở rộng diện tích canh tác và đa dạng hóa sản
phẩm như cao su ở vùng đồi phía Nam, ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở các
vùng Đông Bắc.
Thứ ba: Đẩy mạnh công nghiệp hóa chế biến nông sản để xuất khẩu
ngô, sắn sang các nước Châu Âu và Nhật Bản.
Thứ tư: Thực hiện những chính sách đầu tư nước ngoài và chính sách
thay thế nhập khẩu trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện
chính sách trợ giúp tài chính cho nông dân vay với lãi suất thấp, ứng trước
tiền cho nông dân và cam kết mua sản phẩm với gia đình trước… cùng với
nhiều chính sách khác nhau đã thúc đẩy vùng núi Thái Lan phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa. Mỗi năm có 90% sản lượng cao su, hơn 4 triệu tấn
dầu cọ do nông dân sản xuất ra. Nhưng trong lúc thực hiện còn bộc lộ một số
vấn đề tồn tại như việc cân bằng sinh thái, là hậu quả của một nền nông
nghiệp làm nghèo đất đai. Làm cho nền kinh tế mất cân đối giữa các vùng, xu
hướng nông dân rời bỏ nông thôn ra thành thị lâu dài hoặc rời bỏ nông thôn
theo mùa vụ ngày càng gia tăng.
- Trung Quốc: Là một nước rất phát triển trong nghề nông nghiệp,
Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong việc cải cách mở cửa là phát
triển nông nghiệp hương trấn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ đó
tăng trưởng với tấc độ cao và phát triển mạnh trong lĩnh vực đầu tư cho nông
nghiệp nông thôn. Nguyên nhân của thành tựu đó có nhiều, trong đó điều
chỉnh ngân sách rất quan trọng, tăng vốn đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp để
12
tạo tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng trước hết là đầu tư xây dựng công trình
thủy lợi, mở rộng sản xuất lương thực, xây dựng hạ tầng nông thôn, nghiên
cứu ứng dụng cây trồng, vật nuôi, cây con vào sản xuất là lúa, ngô, bông.
- Đài Loan: Trong những năm 1950 đến 1960 Đài Loan đã chú trọng
đến phát triển nông nghiệp, đã có nhiều chính sách chủ trương như: “Lấy
nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp phát triển nông nghiệp”. Từ
năm 1951 đã có trương trình cải cách ruộng đất theo 3 bước: giảm tô, giải
phóng đất công, bán đất cho tá điền, thực hiện người cày có ruộng (1953 –
1954).
Theo đạo luật cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được giữ lại
3 ha nếu là ruộng thấp và 6 ha nếu là ruộng cao, số còn lại nhà nước mua và
bán cho tá điền với giá thấp và được trả dần, trả góp. Chính sách phát triển
nông nghiệp của Đài Loan trong thời kỳ này đã làm cho nông dân phấn khởi,
lực lượng sản xuất trong nông thôn được giải phóng, sản xuất đã được tăng
với tốc độ nhanh. Tại Đài Loan hiện có 30 vạn người dân tộc thiểu số sinh
sống ở vùng cao, song đã có đường đi lên núi là đường nhựa, nhà có đủ điện
nước, có ô tô riêng, về chính sách thuế và ruộng đất của chính quyền có sự
phân biệt giữa hai đối tượng “nông mại nông” thì miễn thuế (nông dân bán
đất cho nông dân khác), “nông mại bất công” thì phải đóng thuế gấp 3 lần tiền
mua (bán đất cho đối tượng phi nông nghiệp). Nguồn lao động trẻ ở nông
thôn rất dồi dào nhưng không di chuyển ra thành thị, mà dich vụ tại chỗ theo
kiểu “ly nông bất ly hương”. Các cơ quan khoa học ở Đài Loan rất mạnh dạn
nghiên cứu cải tại giống mới cho nông dân và họ không phải trả tiền.
1.2.2. Kinh tế hộ nông dân của một số địa phương ở Việt Nam
- Ở Việt Nam
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu, giữ vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó càng trở nên quan trọng đối với
13
một quốc gia với gần 80% dân số sống ở nông thôn và gần 70% lao động làm
việc trong các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp như đất nước Việt Nam ta.
Trong nhiều năm qua Việt Nam thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế tự
cung tự cấp hàng thế kỷ nay, nhưng tiến trình diễn ra rất chậm chạp và sự
chuyển tiếp là việc thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung theo cơ chế bao
cấp kéo dài suốt mấy chục năm qua. Cách mạng giải phóng dân tộc với hai
cuộc kháng chiến trường kỳ tiến tới thống nhất tổ quốc cũng là một nguyên
nhân góp phần làm giảm phát triển kinh tế đất nước. Chỉ tới thập niên cuối thế
kỷ XX, khi bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta mới thực sự
tiến hành từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Do những đặc điểm địa lý tự nhiên và thiếu trình độ, kiến thức, kinh
nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường nên mặc dù trong những năm qua kinh
tế đất nước tuy có tăng trưởng, nhưng phát triển không đồng đều giữa các
vùng. Bên cạnh sự phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá đang diễn ra ở các đô
thị và các tỉnh đồng bằng, vẫn tồn tại các hình thức sản xuất còn biểu hiện của
nền kinh tế tự cung tự cấp (kinh tế tự nhiên) ở các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa.
Thực chất sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không chỉ là sự
thay đổ hình thức kinh tế vĩ mô mà còn thay đổi cả hệ thống kinh tế vi mô. Đó
là sự thay đổi phương thức hoạt động, thay đổi hình thức tổ chức của các đơn
vị kinh tế, trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất của xã hội.
Trước đây các tổ chức kinh tế mang các tên gọi khác nhau: Nhà máy, xí
nghiệp, công ty, cửa hàng, hợp tác xã, cá thể, tư nhân, v.v… Ngày nay trong
cơ chế thị trường, các đơn vị tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đều
được thống nhất chung với tên gọi là Việt Nam. Hiện nay ở nước ta có các
loại hình doanh nghiệp với các thành phần chủ sở hữu như sau: cá nhân,
nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty (công ty trách nhiệm hữu
14
hạn, công ty cổ phần), hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ gia đình.
Kinh tế hộ nông dân là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và
được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong
việc phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ
nông dân lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80%
dân số đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào
sản xuất nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Mặc dù kinh tế hộ gia đình không phải là một thành phần kinh tế nhưng
là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một
trong các thành viên của kinh tế hộ nông dân đồng thời là chủ hộ gia đình.
Trong hoạt động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá
trình sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản
xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở
nước ta, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh
tế hộ gia đình nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp.
Hiện nay, tại một số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy
mô sản xuất và kinh doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng
phát triển và mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc.
Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải, xây
dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, kinh
doanh… trên thực tế là các hoạt động kinh tế hộ gia đình và được điều chỉnh
theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992. Chủ hộ chịu trách nhiệm vô hạn
về vốn và kết quả kinh doanh của mình, mặt khác Nhà nước cũng có những
chính sách tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh doanh có số vốn phù hợp với
15
quy mô để hộ gia đình có thế chuyển thành doanh nghiệp đăng ký kinh doanh
và các hoạt động theo luật doanh nghiệp đã được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ
5 thông qua vào tháng 6 năm 1999. Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2000
nước ta có khoảng 38.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, bao gồm cả
doanh nghiệp tư nhân và hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Các loại hình
doanh nghiệp này bao gồm nhiều ngành nghề thu hút nhiều lao động, sản xuất
ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước, góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sôi động và linh
hoạt hơn, khai thác được nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư phục vụ cho
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Như trên đã phân tích, kinh tế hộ gia đình tập trung chủ yếu ở khu vực
sản xuất nông nghiệp và chiếm tới 2/3 lực lượng lao động toàn xã hội. Vì vậy,
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng và Nhà nước
ta thực chất là việc thực hiện phát triển một cách hợp lý các hình thức sản
xuất và kinh doanh trong nông nghiệp. Đây là loại hình kinh tế phổ biến nhất
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng khu vực, từng địa bàn, cần phân
loại các hộ gia đình theo trình độ sản xuất hàng hoá, khả năng tự chủ trong
kinh doanh, mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh tế để có những biện pháp hỗ trợ
thích hợp. Hộ gia đình có nhiều ưu thế, nhưng cũng có nhiều khó khăn, hạn chế
về nhiều mặt. Việc tác động của Nhà nước, kết hợp với sự liên kết hỗ trợ hướng
dẫn của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã… là rất cần thiết.
Xem xét đến vấn đề kinh tế nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nói riêng
không thể không đề cập đến vấn đề tiêu dùng. Tiêu dùng là hành vi tất yếu và
thường xuyên của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh
thần của cá nhân, cộng đồng, của toàn xã hội. Tiêu dùng vừa là mục tiêu vừa
là tiền đề của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Mức độ tiêu dùng có thước đo và
16
được chi phối bởi yếu tố thu nhập thực tế tính theo đầu người. Các nước
phương Tây có nền kinh tế phát triển, tích lũy tư bản, phúc lợi xã hội và thu
nhập cá nhân cho phép đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội phát
triển cao.
Do kết quả của sự chi phối, giao lưu kinh tế quốc tế trong việc thực
hiện chính sách mở cửa, những năm qua nền kinh tế thị trường đa thành phần
ở nước ta có những bước tăng trưởng đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo theo
sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng cả về vật chất lẫn tinh thần. Sự gia tăng về nhu
cầu tiêu dùng là quy luật tự nhiên và đáng khuyến khích. Tuy nhiên, trong
trường hợp kinh tế kém phát triển như ở nước ta, chưa thể có mức tiêu dùng
bình quân cao được.
Hiện nay, có hiện tượng một bộ phận hộ gia đình thu nhập cao, tập
trung ở thành thị, mức sống và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều
lần so với những hộ dân sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan tâm
giải quyết để thực hiện tính công bằng trong phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Xóa đói giảm nghèo, tình trạng thất nghiệp,
phân công lao động và giải quyết việc làm, thực tế hộ gia đình cũng là những
vấn đề cần được đề cập trong nghiên cứu về các chính sách liên quan tới lĩnh
vực gia đình.
Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của đất nước kinh tế hộ ở
các tỉnh cũng phát triển như:
- Ninh Bình
Qua nhiều năm đổi mới và phát triển hội nông dân tỉnh Ninh Bình đã
thực hiện nhiều phương thức giúp đỡ người nông dân phát triển kinh tế hộ, hỗ
trợ vốn cho nông dân thông qua quỹ hỗ trợ nông dân của các cấp hội, phối
hợp với ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và phát triển