Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phân tích các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn xã Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.05 KB, 80 trang )





ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



KIỀU VIỆT HOÀNG


Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NHẬP
CỦA HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ HIỀN ĐA, HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo
Chuyên ngành

Khoa
Khóa học
: Chính quy
: Kinh tế nông nghiệp
: Kinh tế và Phát triển nông thôn


: 2010 - 2014




Thái Nguyên - năm 2014




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



KIỀU VIỆT HOÀNG


Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NHẬP CỦA HỘ
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ HIỀN ĐA, HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo
Chuyên ngành

Khoa
Khóa học
Giảng viên hướng dẫn
: Chính quy
: Kinh tế nông nghiệp
: Kinh tế và Phát triển nông thôn
: 2010 - 2014
: ThS. Đặng Thị Thái



Thái Nguyên - năm 2014



LỜI CẢM ƠN
Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn” của các trường chuyên nghiệp nói chung và trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên nói riêng. Thực tập tốt nghiệp là bước quan trọng của sinh viên
cuối khóa. Đây là giai đoạn rất quan trọng nhằm củng cố kiến thức đã học
trên ghế nhà trường đồng thời nâng cao kỹ năng thực hành.
Được sự nhất trí của trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và ban chủ
nhiệm khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn, em đã tiến hành thực hiện đề tài
“Phân tích các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn xã Hiền
Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ”.
Trong thời gian thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy
cô giáo trong khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt
tình của giảng viên Đặng Thị Thái, cùng sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ tại Ủy
ban Nhân dân xã Hiền Đa. Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các
thầy cô giáo cùng toàn thể các cán bộ tại UBND xã Hiền Đa.

Với trình độ và thời gian có hạn, do đó đề tài không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 04 năm 2014

Sinh viên


Kiều Việt Hoàng





DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
BVTV Bảo vệ thực vật
TC Trung cấp
ĐVT Đơn vị tính
BQ Bình quân
LĐ Lao động
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
UBND Ủy ban nhân dân
HTX Hợp tác xã



















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2

2.1. Mục tiêu chung 2

2.2. Mục tiêu cụ thể 2

3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 3

3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3

3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3


4. Những đóng góp mới của đề tài 3

5. Bố cục của khóa luận 3

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5

1.1. Cơ sở lí luận của đề tài 5

1.1.1. Khái niệm về hộ 5

1.1.2. Khái niệm về hộ nông dân 6

1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của hộ nông dân 7

1.1.4. Kinh tế hộ nông dân 8

1.1.5. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới 9

1.1.6. Phân loại hộ nông dân 10

1.2. Cơ sở thực tiễn 11

1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới
11

1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam 14

Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20


2.1. Đối tượng nghiên cứu 20




2.2. Phạm vi và nội dung nghiên cứu 20

2.2.1. Phạm vi thời gian 20

2.2.2. Phạm vi không gian 20

2.2.3. Nội dung nghiên cứu 20

2.3. Câu hỏi nghiên cứu 20

2.4. Phương pháp nghiên cứu 21

2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu 21

2.4.2. Phương pháp xử lí số liệu 22

2.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 22

2.5.1. Hàm sản xuất 22

2.5.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế hộ
nông dân 23

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26


3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 26

3.1.1. Điều kiện tự nhiên 26

3.1.2. Các nguồn lực phát triển 27

3.1.3. Tình hình phát triển kinh tế của xã năm 2013 31

3.2. Tình hình phát triển kinh tế các hộ được điều tra 31

3.2.1. Phân loại hộ theo thu nhập 31

3.2.2. Tình hình cơ bản của các hộ được điều tra 33

3.2.3. Đầu tư chi phí cho sản xuất của các hộ được điều tra 37

3.2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh của các nhóm hộ 41

3.2.5. Thị trường 44

3.2.6. Các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ 45

3.3. Thuận lợi và khó khăn của địa phương 49

3.3.1. Thuận lợi 49




3.3.2. Khó khăn 49


Chương 4 CÁC GIẢI PHÁP 50

4.1. Quan điểm - Phương hướng - Mục tiêu 50

4.1.1. Quan điểm 50

4.1.2. Phương hướng 50

4.1.3. Mục tiêu 50

4.2. Các giải pháp 53

4.2.1. Giải pháp chung 53

4.2.2. Giải pháp cho hộ nông dân 54

KẾT LUẬN 56






DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Tình hình biến động đất đai trên địa bàn xã Hiền Đa 29

Bảng 3.2: Tình hình biến động dân số 30

Bảng 3.3: Khảo sát thu nhập của các nhóm hộ điều tra 32


Bảng 3.4: Phân loại hộ theo thu nhập 32

Bảng 3.5: Các nguồn lực cơ bản của các hộ được điều tra 34

Bảng 3.6: Trình độ chuyên môn của các chủ hộ 36

Bảng 3.7: Chi phí sản xuất lúa cho 1 sào/hộ/năm 38

Bảng 3.8: Chi phí cho chăn nuôi lợn/hộ 39

Bảng 3.9: Tổng hợp chi phí sản xuất cho 1 hộ 40

Bảng 3.10: Kết quả sản xuất lúa/hộ 41

Bảng 3.11: Kết quả sản xuất của ngành chăn nuôi/hộ năm 2013 42

Bảng 3.12: Tổng thu các ngành/hộ của các nhóm hộ trong năm 43

Bảng 3.13: Kết quả thống kê hồi quy 46

Bảng 3.14: Kết quả thống kê hồi quy 47


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế xã hội cùng với quá trình hội nhập của khu vực và thế

giới đã tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội. Đời sống của người dân từng bước được nâng lên rõ rệt, người dân có
điều kiện cải thiện đời sống và tiếp cận với những thành tựu của khoa học
công nghệ.
Kinh tế hộ nông dân của nước ta ngày càng khẳng định rõ vai trò tự chủ
của mình trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và ở vùng nông thôn nói
riêng. Sự phát triển kinh tế hộ nông dân đã thực sự làm cho nền nông nghiệp
nước ta đạt được những thành tựu to lớn khiến bộ mặt nông nghiệp nông thôn
và đời sống của người dân có những bước thay đổi đáng kể.
Kinh tế hộ nông dân được coi là một đơn vị kinh tế đặc thù và phù hợp
trong sản xuất nông nghiệp. Nó góp phần giải quyết vấn đề việc làm và xây
dựng cuộc sống mới ở nông thôn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phong
phú của con người về lương thực, thực phẩm.
Nước ta có tới hơn 70% dân số sống ở các vùng nông thôn, đây là khu
vực luôn được Đảng và nhà nước quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Thực tiễn
quá trình sản xuất nông nghiệp của nước ta đã trải qua hàng ngàn năm kinh
nghiệm. Tuy có nhiều bước tiến quan trọng nhưng về cơ bản vẫn là nền sản
xuất mang tính chất tự cung tự cấp, quy mô nhỏ lẻ ở mức hộ gia đình, đây là
đơn vị kinh tế đặc thù của nông thôn và cũng phù hợp với thực trạng phát
triển nông nghiệp nước ta hiện nay. Tuy nhiên thu nhập của nông dân đang có
xu hướng ngày một giảm đi vì giá nông sản không tăng, trong khi vật tư nông
nghiệp đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu và xăng dầu tăng liên tục.
Do đó thách thức đặt ra hiện nay là duy trì và nâng cao thu nhập cho hộ nông

2


dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của vùng nông thôn và giảm
bớt sự phân hóa giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị.
Hiền Đa là một xã thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Nhân dân

trong xã chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua cùng với sự
phát triển chung của đất nước, đời sống kinh tế xã hội của nhân dân trong xã
cũng có nhiều thay đổi. Kinh tế từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ giàu và khá
tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể so với trước đây.
Có thể nói việc xem xét các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ gia
đình, sự cần thiết tháo gỡ những bất cập để có thể sử dụng tối ưu các nguồn
lực đã trở thành mối quan tâm chung của mọi người, đặc biệt là người dân ở
nông thôn, những chủ thể trực tiếp chịu sự tác động đó.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em tiến hành lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Phân tích các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn xã Hiền Đa,
huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu một số nhân tố tác động chủ yếu tới nguồn thu nhập của hộ
nông dân xã Hiền Đa, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội chung trên địa bàn xã Hiền Đa.
- Nghiên cứu các nguồn thu chính của các hộ nông dân trên địa bàn xã.
- Phân tích các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn nghiên
cứu.
- Từ kết quả điều tra mô hình hóa các tác động của các nhân tố chính
đến thu nhập.

3


- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các
nông hộ trên địa bàn xã.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học

- Giúp sinh viên củng cố lý thuyết và biết áp dụng lý thuyết vào thực tế
- Rèn luyện các kỹ năng thu thập, xử lý số liệu, viết báo cáo
- Dùng làm tài liệu tham khảo và góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển
các đề tài khác
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cái nhìn tổng quát về các yếu tố tác
động đến thu nhập của các hộ nông dân trên địa bàn xã Hiền Đa. Từ đó có thể
đưa ra các phương hướng nhằm phát huy những lợi thế, hạn chế những rủi ro,
góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
4. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài sử dụng các mô hình, các phương pháp phân tích số liệu và cơ sở
lý thuyết kinh tế. Đưa ra những kết quả nghiên cứu chính xác thông qua việc
lượng hóa các số liệu, giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các cấp chính
quyền và các cơ sở kinh doanh đưa ra các phương án giúp nâng cao thu nhập
cho hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu.
5. Bố cục của khóa luận
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Chương 2: Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Chương 4: Các giải pháp
- Kết luận

4


- Phụ lục
- Danh mục tài liệu tham khảo



5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm về hộ
Gia đình và hộ là hai khái niệm khác biệt. Một hộ có thể chỉ bao gồm
một cá nhân hay nhiều thành viên có hoặc không có quan hệ huyết thống với
nhau. Hộ có thể là một gia đình hạt nhân, một gia đình mở rộng hay một đại
gia đình.
Một hộ có thể có nhiều gia đình hoặc không có một gia đình nào cả,
ngược lại, một gia đình có thể trải rộng thành nhiều hộ. Thông thường, gia
đình và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi "Hộ gia đình". Mỗi hộ gia đình ở
Việt Nam hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu, trong đó ghi rõ số nhân khẩu,
chủ hộ và quan hệ giữa các thành viên với chủ hộ.
Theo Terry McGee (1989), khi nghiên cứu về quá trình đô thị hóa châu
Á đã có quan điểm thiên về thu nhập. Theo ông, thành viên của hộ không nhất
thiết phải là sống chung dưới một mái nhà, miễn là họ có đóng góp vào ngân
quỹ chung
Theo từ điển chuyên ngành kinh tế: “Hộ là tất cả những người cùng
chung sống. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và
những người làm công”.
Theo Liên hiệp quốc, Hộ được hiểu theo hai hình thức:
- Hình thức thứ nhất là hộ chỉ có một thành viên, là hình thức mà một
người độc lập tự đưa ra các quyết định về điều kiện sống cho chính bản thân
mình mà không kết hợp với bất kì người nào khác.

6



- Hình thức thứ hai là hộ có nhiều thành viên, là hình thức mà hai hoặc
nhiều người sống cùng nhau, cùng đưa ra các quyết định về điều kiện sống
chung, có chung một ngân quỹ.
Với các ý kiến nêu trên, khái niệm hộ có thể được khái quát như sau:
Hộ là nhóm người có thể chung huyết tộc hoặc không, họ không nhất thiết
phải sống chung dưới một mái nhà nhưng ăn chung và có ngân quỹ chung,
phân phối nguồn thu nhập mà các thành viên của hộ tạo ra.
Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động
và phân công lao động chung; có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh
doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và
được phân phối lợi ích theo thoả thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là
một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá
thể, tư nhân, tập thể, Nhà nước
- Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dầu cùng chung huyết thống bởi vì
hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị kinh
tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một mái nhà
nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau
1.1.2. Khái niệm về hộ nông dân
Theo Ellis (1988): Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch các phương
tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông
trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc
trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình
độ hoàn chỉnh không cao. [4]
Theo Đào Thế Tuấn (1997): Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt
động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt
động phi nông nghiệp ở nông thôn.

7



1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của hộ nông dân
Thứ nhất: Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình
quản lý và sử dụng các yếu tố sản xuất. Bởi vì sở hữu trong nông hộ là sở hữu
chung, mọi thành viên đều có thể sử dụng và tự quản lý các yếu tố sản xuất
như vốn, đất đai để tạo ra của cải vật chất đóng góp vào ngân quỹ chung của
nông hộ.
Thứ hai: Lao động và quản lí lao động gắn bó chặt chẽ với nhau và
được chi phối bởi quan hệ huyết thống. Thông thường chủ hộ thường là người
quản lí, điều hành và trực tiếp tham gia sản xuất nên việc tổ chức sản xuất
trong nông hộ diễn ra tương đối linh hoạt và thống nhất, cơ cấu tổ chức đơn
giản.
Thứ ba: Quy mô sản xuất nhỏ, có khả năng huy động hay thu hồi các
nguồn lực một cách dễ dàng. Khi gặp điều kiện thuận lợi, nông hộ có thể phát
huy tối đa nguồn lực sản xuất. Ngược lại, trong hoàn cảnh khó khăn, nông hộ
sẽ tự thu hẹp sản xuất.
Thứ tư: Các quan hệ huyết thống, họ tộc, văn hóa, kinh tế… đều nằm
đan xen lẫn nhau và tạo nên sự đồng tâm hiệp lực giữa các thành viên để họ
cùng tự giác lao động để phát triển kinh tế mà không cần đến thưởng phạt.
Thứ năm: Kinh tế của hộ nông dân đặc trưng bởi sự tham gia từng
phần vào thị trường. Họ chỉ trao đổi từng phần nguồn lực cũng như những gì
mà họ không có khả năng tự làm ra.
Thứ sáu: Kinh tế hộ nông dân sử dụng sức lao động, nguồn vốn của
mình là chủ yếu. Chỉ khi quy mô sản xuất vượt quá nguồn lực sẵn có thì mới
diễn ra các hoạt động mua bán hay đi thuê.

8


1.1.4. Kinh tế hộ nông dân

Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có từ sớm, xuất hiện từ khi
gia đình được hình thành. Ngày nay hình thức sản xuất này đang chịu nhiều
tác động và cũng đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế
của xã hội phát triển - xã hội công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp. Vì lẽ đó,
cần tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị trí và vai trò của nó trong nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển xã hội loài
người là lịch sử của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội. Gắn liền với các thời kỳ phát triển là các hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau. Hai phương thức sản xuất cơ bản tồn tại trong quyền phát triển, đó là
sản xuất tự cung tự cấp (sản xuất tự nhiên) và sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế
nào cũng phải tham gia giải quyết các yếu tố cơ bản trong quyền sản xuất: -
Sản xuất cái gì? - Sản xuất bao nhiêu? - Sản xuất như thế nào? - Phân phối
sản phẩm ra sao?
Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thảo mãn
nhu cầu thiết yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết
định về loại hình sản phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó
hẹp trong phạm vi những người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất.
Của cải vật chất có dư thừa đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng
đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau của mỗi chế độ. Tính thị trường
của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn mang
tính trao đổi giản đơn. Phân công lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự
nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ
diễn ra rất đa dạng, ngoài sản xuất nông nghiệp, hộ còn tham gia vào các

9


ngành nghề khác như công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.

Do đó thu nhập của hộ nông dân bao gồm toàn bộ những kết quả của các
ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ và một số ngành nghề khác như sửa chữa,
sản xuất nguyên vật liệu, chế biến nông sản, kinh doanh mang lại.
1.1.5. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn
nhân lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến,
đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống không những cho
gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia đình làm kinh
tế vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền
Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu
cũ). Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn
lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực
phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100,
ngày 31 - 01 - 1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị
quyết 10, ngày 05 - 04 - 1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông
nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị kinh
tế tự chủ trong nông nghiệp. Đối với khu vực nông, lâm trường, nhờ có Nghị
định số 12/NĐ-CP, ngày 03 - 2 - 1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế
quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường đã
từng bước tách chức năng quản lý nhà nước đối với với quản lý sản xuất, kinh
doanh, các gia đình nông, lâm trường viên cũng được nhận đất khoán và hoạt
động dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy những đặc điểm truyền thống của kinh tế
hộ vẫn không thay đổi, nhưng việc được giao quyền sử dụng đất lâu dài đã
làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản.

10


Động lực mới cho sự phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã xuất

hiện.
1.1.6. Phân loại hộ nông dân
1.1.6.1. Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động
- Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường.
Loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, đó là việc sản xuất các
sản
phẩm cần thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động
trong nông hộ phải hoạt động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để có
thể tự cấp tự túc cho sinh hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào khả năng mở
rộng diện tích đất đai, có thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi, có thị
trường lao động để họ bán sức lao động để có thu nhập, có thị trường sản phẩm để
trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
- Hộ nông dân sản xuất hàng hoá chủ yếu: loại hộ này có mục tiêu là tối
đa hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường
vốn, ruộng đất, lao động.
1.6.1.2. Theo tính chất của ngành sản xuất của hộ
- Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
- Hộ kiêm nông: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ
công nghiệp, nhưng thu từ nông nghiệp là chính.
- Hộ buôn bán: ở nơi đông dân cư, có quầy hàng hoặc buôn bán ở chợ.
Các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho
phép, vì vậy sản xuất công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng sản
xuất và xã hội ở nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn để chuyển hộ độc canh
thuần nông sang đa ngành hoặc chuyên môn hoá. Từ đó làm cho lao động

11


nông nghiệp giảm, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hoặc làm cho đối

tượng phi nông nghiệp tăng lên.
1.6.1.3. Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ
- Hộ khá
- Hộ trung bình
- Hộ nghèo
Sự phân biệt này dựa vào quy định chung của cả nước hoặc quy định
của địa phương. Trong đề tài này, dựa trên những quy định của địa bàn
nghiên cứu và để đơn giản cho việc phân loại hộ nông dân theo thu nhập, em
chia thành 3 nhóm như sau:
+ Nhóm hộ có thu nhập cao: Hộ có thu nhập bình quân đầu người lớn hơn
600.000đ tại thời điểm điều tra
+ Nhóm hộ có thu nhập khá: Hộ có thu nhập bình quân đầu người nằm
trong khoảng 401.000đ - 600.000đ tại thời điểm điều tra.
+ Nhóm hộ có thu nhập thấp: Hộ có thu nhập bình quân đầu người nhỏ
hơn 400.000đ tại thời điểm điều tra.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế
giới
- Thái Lan: là một nước trong khu vực Đông Nam Á, chính phủ Thái
Lan đã thực hiện nhiều chính sách để từ một nước lạc hậu trở thành nước có
nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một số chính sách có liên quan đến việc phát
triển kinh tế vùng núi ban hành từ 1950 đến năm 1980.
Thứ nhất: Xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Mạng lưới đường
bộ bổ sung cho mạng lưới đường sắt, phá thế cô lập các vùng ở xa, đầu tư
xây dựng đập nước ở các vùng.

12


Thứ hai: Chính sách mở rộng diện tích canh tác và đa dạng hoá sản

phẩm như cao su ở vùng đồi phía Nam, ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở
vùng núi phía Đông Bắc.
Thứ ba: Đẩy mạnh công nghiệp hoá chế biến nông sản để xuất khẩu
như ngô, sắn sang các thị trường châu Âu và Nhật Bản.
Thứ tư: Thực hiện chính sách đầu tư nước ngoài và chính sách thay
thế nhập khẩu trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện
chính sách trợ giúp tài chính cho nông dân như: Cho nông dân vay tiền
với lãi suất thấp, ứng trước tiền cho nông dân và cam kết mua sản phẩm
với giá định trước cùng với nhiều chính sách khác đã thúc đẩy vùng núi
Thái Lan phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Hàng năm có 95% sản
lượng cao su, hơn 4 triệu tấn dầu cọ do nông dân sản xuất ra. Song trong
quá trình thực hiện có bộc lộ một số vấn đề còn tồn tại: Đó là việc mất
cân bằng sinh thái, là hậu quả của một nền nông nghiệp làm nghèo kiệt
đất đai. Kinh tế vẫn mất cân đối giữa các vùng, xu hướng nông dân rời bỏ
nông thôn ra thành thị lâu dài hoặc rời bỏ nông thôn theo mùa vụ ngày
càng gia tăng.
- Đài Loan: Ý thức được xuất phát điểm của mình có vị trí quan
trọng là nông nghiệp nhưng ở trình độ thấp, nên ngay từ đầu Đài Loan đã
coi trọng và chú ý đầu tư cho nông nghiệp. Trong những năm 1950 đến
1960 chủ trương “Lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp
phát triển nông nghiệp”. Từ năm 1951 đã có chương trình cải cách ruộng
đất theo 3 bước: giảm tô, giải phóng đất công, bán đất cho tá điền, thực
hiện người cày có ruộng (1953 - 1954).
Theo đạo luật cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được
giữ lại 3ha nếu là ruộng thấp và 6ha nếu là ruộng cao, số còn lại Nhà nước

13


mua và bán lại cho tá điền với giá thấp và được trả dần, trả góp. Chính

sách phát triển nông nghiệp của Đài Loan trong thời kỳ này đã làm cho
nông dân phấn khởi, lực lượng sản xuất trong nông thôn được giải phóng,
sản xuất đã tăng với tốc độ nhanh.
Tại Đài Loan hiện có 30 vạn người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng
cao, song đã có đường đi lên núi là đường nhựa, nhà có đủ điện nước, có ô tô
riêng. Từ năm 1974 họ thành lập nông trường, nông hội, trồng những sản
phẩm quý hiếm như “cao sơn trà”, bán các mặt hàng sản phẩm của rừng như
cao, thịt hươu, thịt nai khô cùng các sản phẩm nông dân sản xuất được trong
vùng. Về chính sách thuế và ruộng đất của chính quyền có sự phân biệt giữa 2
đối tượng “nông mại nông” thì miễn thuế (nông dân bán đất cho nông dân
khác), “nông mại bất nông” thì phải đóng thuế gấp 3 lần tiền mua (bán đất
cho đối tượng phi nông nghiệp). Nguồn lao động trẻ ở nông thôn rất dồi dào
nhưng không di chuyển ra thành thị, mà dịch vụ tại chỗ theo kiểu “ly nông bất
ly hương”. Các cơ quan khoa học ở Đài Loan rất mạnh dạn nghiên cứu cải tạo
giống mới cho nông dân và họ không phải trả tiền.
- Trung Quốc: Trong những năm qua phát triển rất mạnh trong lĩnh vực
đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Một trong những thành tựu của Trung
Quốc trong cải cách mở cửa là phát triển nông nghiệp hương trấn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ đó tăng trưởng với tốc độ cao. Nguyên nhân
của thành tựu đó có nhiều, trong đó điều chỉnh chính sách đầu tư rất quan
trọng, tăng vốn đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp để tạo ra tiền đề vật chất cho
sự tăng trưởng trước hết là đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi, mở rộng sản
xuất lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nghiên cứu ứng dụng cây
trồng, vật nuôi, cây con vào sản xuất nhất là lúa, ngô, bông.

14


1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam
- Thời kỳ 1976 - 1986

Tiến hành cuộc vận động tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, cải
tiến một bước quản lý từ cơ sở theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa theo tinh thần Chỉ thị 208 CT/TW ngày 16/9/1974 của Ban Bí Thư và
Nghị quyết 61/CP ngày 5/4/1976 của Hội đồng Bộ trưởng. Tuy nhiên, các
cuộc vận động mang lại kết quả không mong muốn. Cụ thể là:
+ Người lao động nông dân mất quyền tự chủ sản xuất nông nghiệp,
không quan tâm đến mọi hoạt động sản xuất của hợp tác xã và nông - lâm
trường mà chỉ để tâm đến kinh tế phụ gia đình trên đất 5% và trong các lao
động khác.
+ Quy mô hợp tác xã và nông trường càng lớn thì bộ máy càng cồng
kềnh, quản lý tập trung quan liêu, dẫn đến lãng phí lớn, tham ô, tài sản thất
thoát, ruộng đồng thì bỏ hoang.
+ Năng suất và sản lượng nông nghiệp giảm sút liên tục và nghiêm
trọng, thu nhập của xã viên tự kinh tế tập thể hợp tác xã giảm xuống chỉ còn
30-40% tổng thu nhập của hộ xã viên. Trong nông trường, tình trạng nợ lương
công nhân trở thành phổ biến và kéo dài liên miên.
+ Sản xuất lương thực giảm sút. Hằng năm mức sản lượng lương thực
bình quân đầu người liên tục giảm xuống, lượng gạo nhập khẩu hàng năm
ngày càng tăng lên và tới trên 1 triệu tấn.
Trước tình hình nông nghiệp trì trệ, kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp
tác xã suy yếu, hiện tượng khoán chui ngày càng phổ biến, Đảng đã thận
trọng, nghiêm túc xem xét, phân tích và đưa ra chỉ thị 100/CT về khoán sản
phẩm cuối cung đến nhóm và người lao động. Chỉ thị 100 đã bước đầu giải
phóng lao động nông dân, gắn trách nhiệm và lợi ích của họ với sản phẩm

15


cuối cùng trên ruộng khoán, khuyến khích đầu tư để thu thêm nhiều sản phẩm
vượt khoán. Kết quả đem lại 6 - 7 vụ được mùa liên tiếp, sản lượng lương

thực tăng gần 1 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, động lực khoán sản phẩm đến nhóm
và người lao động đến cuối năm 1983 và 1984 thì chững lại và dần giảm
xuống vì khoán mới chỉ điều chỉnh cơ chế phân phối và cơ chế quản lý lao
động giữa người lao động và hợp tác xã, giữa công nhân lao động và nông
trường, chưa thiết lập được quyền làm chủ đầy đủ của các hộ nông dân. Cơ
chế kế hoạch hóa tập trung làm cho nền nông nghiệp chưa thoát khỏi tình
trạng trì trệ.
- Thời kì từ 1987 đến nay
Việt Nam thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp hàng
thế kỷ nay, nhưng tiến trình diễn ra rất chậm chạp và sự chuyển tiếp là việc
thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung theo cơ chế bao cấp kéo dài suốt mấy
chục năm qua. Cách mạng giải phóng dân tộc với hai cuộc kháng chiến
trường kỳ tiến tới thống nhất tổ quốc cũng là một nguyên nhân góp phần làm
giảm phát triển kinh tế đất nước. Chỉ tới thập niên cuối thế kỷ XX, khi bắt tay
vào thực hiện công cuộc Đổi mới, chúng ta mới thực sự tiến hành từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Do những đặc điểm địa lý tự nhiên và thiếu trình độ, kiến thức, kinh
nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường nên mặc dù trong những năm qua kinh
tế đất nước tuy có tăng trưởng, nhưng phát triển không đồng đều giữa các
vùng. Bên cạnh sự phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá đang diễn ra ở các đô
thị và các tỉnh đồng bằng, vẫn tồn tại các hình thức sản xuất còn biểu hiện của
nền kinh tế tự cung tự cấp (kinh tế tự nhiên) ở các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa.

16


Thực chất sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không chỉ là sự
thay đổi hình thức kinh tế vĩ mô mà còn thay đổi cả hệ thống kinh tế vi mô.
Đó là sự thay đổi phương thức hoạt động, thay đổi hình thức tổ chức của các

đơn vị kinh tế, trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất của xã hội.
Trước đây, các tổ chức kinh tế mang các tên gọi khác nhau: nhà máy, xí
nghiệp, công ty, cửa hàng, hợp tác xã, cá thể, tư nhân, v.v… Ngày nay trong
cơ chế thị trường, các đơn vị tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đều
được thống nhất chung với tên gọi là doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta có các
loại hình doanh nghiệp với các thành phần chủ sở hữu như sau: cá nhân,
nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty (công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phẩn), hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ gia đình.
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được
phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình
lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số
đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ gia đình
là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một
trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt
động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất
và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh
và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ

17


gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình
nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay, tại một
số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mô sản xuất và

kinh doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng phát triển và
mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc.
Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải, xây
dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, kinh
doanh… trên thực tế là các hoạt động kinh tế hộ gia đình và được điều chỉnh
theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992. Chủ hộ chịu trách nhiệm vô hạn
về vốn và kết quả kinh doanh của mình, mặt khác Nhà nước cũng có những
chính sách tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh doanh có số vốn phù hợp với qui
mô để hộ gia đình có thế chuyển thành doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và
các hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5
thông qua vào tháng 6 năm 1999. Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2000
nước ta có khoảng 38.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, bao gồm cả
doanh nghiệp tư nhân và hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Các loại hình
doanh nghiệp này bao gồm nhiều ngành nghề thu hút nhiều lao động, sản xuất
ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước; góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sôi động và linh
hoạt hơn, khai thác được nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư phục vụ cho
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Như trên đã phân tích, kinh tế hộ gia đình tập trung chủ yếu ở khu vực
sản xuất nông nghiệp và chiếm tới 2/3 lực lượng lao động toàn xã hội. Vì vậy,
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng và Nhà nước
ta thực chất là việc thực hiện phát triển một cách hợp lý các hình thức sản

×