Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.61 KB, 10 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Kể từ khi con ngời có nhận thức thì đã có xu hớng tìm hiểu về chính mình và
thế giới xung quanh. Nhng vấn đề đặt ra ở đây là quan điểm vận động và sự tồn
tại của vật chất. Trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới
vật chất cái tồn tại vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tợng cùng với những thuộc
tính của chúng. Để từ đó ta có thể thấy đợc triết học đã nghiên cứu hàng loạt
những vấn đề chung nhng vấn đề trọng tâm là những mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, giữa tồn tại và t duy hay giữa tự nhiên và tinh thần. Đồng thời nó còn là
một hình thái ý thức xã hội, một lĩnh vực trí tuệ và đặc thù của con ngời: đó chính
là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới. Theo các nhà triết học
HyLạp cổ đại thì vật chất mang tính khái quát nhng chỉ là khái quát bề ngoài của
vật chất. Nhng một số nhà triết học duy vật thời cận đại lại cho rằng nguyên tử là
những phần tử vật chất nhỏ bé nhất không thể phân chia đợc nhng vẫn tách rời một
cách siêu hình. Cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhờ những phát minh khoa
học mới con ngời mới đợc hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về nguyên tử. Để từ đó
Đảng ta đã vận dụng những sáng tạo trong triết học Mác-Lênin vào thực tiễn sinh
động ở Việt Nam, đã tạo ra vũ khí sắc bén cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
thống nhất đất nớc, xây dựng đất nớc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với bản thân là một sinh viên, ý thức đợc vật chất là chủ đề bao quát toàn bộ
những vấn đề triết học. Để hiểu biết thêm về những vấn đề triết học và sự tồn tại
của vật chất nh thế nào, đó chính là lý do để em đi tìm hiểu và phân tích câu nói
của Ăngghen:Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất. Với trình độ có
hạn của mình em rất mong thầy, cô, bạn bè thông cảm và góp ý kiến để em hoàn
thành bài tiểu luận. Em xin chân thành cảm ơn.
Nội dung
I. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó.
Phạm trù về vật chất đợc hiểu rất khác nhau phụ thuộc vào sự phát triển của
hoạt động thực tiễn và nhận thức trong từng thời kỳ của lịch sử nhân loại.
Trần Thị Quỳnh Lớp L3.03.03
1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phạm trù về vật chất là một trong những phạm trù cơ bản. Để hiểu rõ về
phạm trù vật chất chúng ta cần phải tìm hiểu quan điểm vật chất của Lê Nin với
những quan điểm vật chất của những nhà triết học khác.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới cơ sở của
mọi cái tồn tại là bản nguyện tinh thần nào đó. Đó có thể là ý chí của thợng đế
là ý niệm tuyệt đối hoặc là những quan hệ có tính chất siêu nhân. Chủ nghĩa duy
tâm cho rằng tồn tại về thực chất là tồn tại tinh thần còn chủ nghĩa duy tâm tôn
giáo cho rằng sự tồn tại thực chất là sự tồn tại của đấng siêu nhân, đấng tối cao nh
chúa trời, thợng đế.
Còn trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật
chất cái tồn tại vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tợng cùng với những thuộc tính
của chúng.
Thời cổ đại các nhà triết học Phơng Đông cho rằng vật chất gồm năm yếu tố:
Kim - Thuỷ - Mộc - Hoả - Thổ và trong Kinh dịch thì cho rằng thế giới đợc tạo
nên bởi hai loại âm - dơng. Các nhà triết học HyLạp cổ đại đã đồng nhất vật chất
nói chung với những dạng cụ thể của nó tức là những vật thể hình hữu cảm tính
đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Talet cho rằng vật chất là nớc, Anaximen cho
rằng vật chất là không khí. Hêraclít cho rằng vật chất là Hoả còn ămpêđoclo thì
cho rằng vật chất bao gồm bốn yếu tố đất, nớc, lửa và không khí một cách khái
quát hơn Anaximen thì cho rằng vật chất không thể nhận biết đợc bằng cảm giác
với tên là Apây rôn cao hơn trong số các nhà triết học HyLạp Đêmôclit cho rằng
vật chất là nguyên tử nhỏ nhất không thể chia đợc, không thể nhận thức đợc bằng
cảm tính. Nói chung theo các nhà triết học HyLạp cổ đại vật chất mang tính khái
quát nhng là khái quát bề ngoài của vật chất.
Từ cuối thế kỷ thứ XVI và đặc biệt trong hai thế kỷ XVII - XVIII nền khoa
học tự nhiên - thực nghiệm Châu Âu nhờ ứng dụng đợc những thành tựu về cơ học
- toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Lúc này khoa học đã có những phát
hiện mới về quang, về điện, về điện từ. Thiên văn học đã giải thích đợc cấu tạo của
hệ mặt trời. Động vật học và thực vật học đã nghiên cứu đợc đặc điểm của hàng

Trần Thị Quỳnh Lớp L3.03.03
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trục nghìn dạng cơ thể sống, tuy vậy quan điểm siêu hình máy móc vẫn chi phối
những hiểu biết của triết học về vật chất. Ngời ta giải thích mọi hiện tợng của tự
nhiên bằng sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực đẩy giữa các phần tử của vật
thể theo đó thì các phần tử của vật thể trong quá trình vận động là bất biến cái thay
đổi chỉ là trạng thái không gian và tập hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất giữa
các vật thể đều bị quy giảm về sự phân biệt về lợng. Niềm tin vào chân lý cơ học,
trong cơ học Niutơn đã khiến cho các nhà khoa học lúc đó đồng nhất vật chất với
khối lợng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn
gốc của vận động đợc coi là nằm ở bên ngoài của vật chất.
Kế thừa quan điểm nguyên từ luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cổ đại
vẫn tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất không thể phân chia
đợc, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động, không gian và thời gian.
Các nhà t tởng thời cận đại vẫn cha thấy đợc vận động là thuộc tính cố hữu của
nguyên tử.
Phải đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi xuất hiện những phát minh mới
trong khoa học tự nhiên con ngời mới có đợc những hiểu biết căn bản hơn càng
sâu sắc hơn về nguyên tử. Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia Rơnghen (còn gọi
là tia X) đợc ứng dụng rộng rãi trong thực tế, một trong những ứng dụng quan
trọng là dùng để chữa bệnh ung th nông (gần ngoài da) diệt vi khuẩn. Năm 1896
Béccơren phát hiện ra hiện tuợng phóng xạ. Năm 1902 hai vợ chồng nhà bác học
Maricuiri ngời Ba Lan đã phát hiện ra chất phóng xạ cực mạnh. Vào năm 1905
thuyết tơng đối của Anhxtanh ra đời. . . Những phát hiện này đã chứng minh rằng
nguyên tử không phải là phần vật chất bất biến không thể phân chia đợc mà trái lại
nó luôn chuyển động biến đổi. Quan niệm này đã làm đảo lộn quan điểm về vật
chất trớc kia, đã đẩy chủ nghĩa duy vật cũ vào cuộc khủng hoảng. Chủ nghĩa duy
tâm học đã lợi dụng tình hình đó và tuyên bố vật chất đã biến mất đã tiêu tan nên
khoa học tự nhiên cũng rơi vào khủng hoảng. Đúng lúc đó xuất phát từ yêu cầu

phát triển khoa học của nhận thức nói chung Lênin đã chứng minh rằng: không
phải vật chất tiêu tan biến mất mà thực ra là những giới hạn nhận thức của con ng-
Trần Thị Quỳnh Lớp L3.03.03
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ời về thế giới vật chất đã bị phá vỡ. Do đó phải thay thế quan niệm cũ về vật chất
bằng quan niệm mới đáp ứng nhu cầu về sự phát triển khoa học. Vì vậy định nghĩa
về vật chất của Lê nin ra đời. Theo Lê nin:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đợc
đem lại cho con ngời trong cảm giác, đợc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Phạm trù vật chất ở đây đợc hiểu là quan niệm triết học về vật chất, hơn nữa
nó là một quan niệm triết học khoa học về vật chất dới hình thức phạm trù phản
ánh những thuộc tính căn bản phổ biến của vật chất. Đồng thời nó khác với quan
niệm của các khoa học cụ thể. Vật chất ở đây đợc hiểu là thực tại khách quan tức
là tất cả những gì tồn tại độc lập bên ngoài ý thức của chúng ta, độc lập không phụ
thuộc với ý thức của chúng ta gọi là vật chất. Nhng nh thế cha đủ vật chất là cái
tuy tác động lên giác quan của chúng ta có thể gây cho chúng ta cảm giác.
Định nghĩa về vật chất của Lê nin đã khắc phục đợc những hạn chế và sai
lầm của tất cả các quan điểm về vật chất trớc kia, nó khắc phục đợc khủng hoảng
của chủ nghĩa duy vật, nâng chủ nghĩa duy vật lên một bớc phát triển mới là sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mặt khác nó khắc phục đợc cuộc khủng
hoảng trong khoa học tự nhiên nhất là trong vật lý học. Nó mở đờng cho khoa học
tự nhiên phát triển đi lên. Hơn nữa định nghĩa về vật chất của Lê nin làm cơ sở cho
việc xác định quan điểm đúng đắn, khoa học về lịch sử, xã hội loài ngòi.
II. Quan điểm của Ăngghen về sự vận động của vật chất:
Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất. Giải
thích.
Qua việc nghiên cứu về sự vận động và tồn tại của vật chất của các nhà triết
học cổ đại và quan điểm triết học của Lênin ở trên, ta tiếp tục phân tích và làm rõ

hơn nữa về quan điểm của Ăngghen.
Ăngghen viết: Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức đ ợc hiểu là một
phơng thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao
Trần Thị Quỳnh Lớp L3.03.03
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến t duy. Nh vậy, theo nghĩa chung nhất, vận động là
mọi biến đổi nói chung.
Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất.
Thế giới vật chất vô cùng và vô tận, nhng không ở đâu mà vật chất không vận
động. Mọi sự vật, hiện tợng dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù vô sinh hay hữu
sinh, dù thuộc thế giới nào cũng tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi không
ngừng.
Mỗi sự vật, hiện tợng vật chất là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận, nhiều
yếu tố khác nhau đợc sắp xếp theo một tổ chức nhất định và chúng luôn liên hệ
chặt chẽ, ảnh hởng và tác động lẫn nhau. Chính điều này đã tạo nên sự vận động,
biến đổi không ngừng của sự vật, hiện tợng.
Vật chất vận động là do bản thân sự tồn tại của nó, nguyên nhân sự vận động
nằm ngay trong sự vật, hiện tợng, vì vậy, vận động là thuộc tính cố hữu của vật
chất, vật chất tự vận động. Tính bất diệt của vận động đã đợc khoa học tự nhiên
chứng minh, khẳng định bằng quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lợng.
Vận động là vận động của vật chất: Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng
có những lực lợng phi vật chất vận động bên ngoài thế giới vật chất, chủ nghĩa duy
vật biện chứng khẳng định rằng, không thể có vận động không vật chất, vận động
là vận động của vật chất. Vật chất vận động trong không gian và thời gian. Ngay
cả tri thức, tình cảm, t tởng (ý thức) cũng vận động, nhng sự vận động ấy chính
là kết quả của sự phản ánh vật chất đang vận động. Cho nên, không thể nói ý thức
vận động bên ngoài và độc lập với vận động của vật chất. Tuy nhiên, sự vận động
tuyệt đối của vật chất không hề loại trừ mà còn bao hàm cả sự đứng im. Nhng sự

đứng im ấy không phải ở trạng thái chết, cố định, nguyên si, vĩnh viễn.
Qua đó ta thấy rõ một điều rằng, vật chất luôn luôn vận động ngay cả lúc
đứng im, vật chất muốn tồn tại thì tự bản thân nó phải vận động. Vì vậy, theo quan
Trần Thị Quỳnh Lớp L3.03.03
5

×