Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Sự vận động quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu từ cửa sông đến cỏ lau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.42 KB, 129 trang )




1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2




TRỊNH THỊ THANH MAI









SỰ VẬN ĐỘNG QUAN NIỆM
VỀ CON NGƯỜI CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
TỪ CỬA SÔNG ĐẾN CỎ LAU


Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Quang Long



HÀ NỘI, 2012






2



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới
PGS. TS. Phạm Quang Long, người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn trong suốt thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học,
Phòng Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn thầy cô, gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.

Hà Nội, tháng 6 năm 2012

Học viên


Trịnh Thị Thanh Mai












3


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết
quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung
tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Hà Nội, tháng 6 năm 2012
Học viên



Trịnh Thị Thanh Mai


















4

MỤC LỤC


Trang

MỞ ĐẦU
1

1. Lý do chọn dề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu 7
4. Phạm vi nghiên cứu 8
5. Đóng góp mới của luận văn 8
6. Phương pháp nghiên cứu 8
7. Cấu trúc của luận văn 9
Chương 1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học
Việt Nam

10
1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Văn học Cách
mạng Việt Nam sau năm 1945

10
1.1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người 11
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Văn học Cách
mạng Việt Nam 1945 - 1975

14
1.1.3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1975
đến nay

17
1.2. Quá trình hình thành quan niệm nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu

25
1.2.1. Quá trình hình thành quan niệm nghệ thuật về con người
của Nguyễn Minh Châu


25
1.2.2. Những kiến giải nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu 29



5

Chương 2. Sự vận động của quan niệm về con người của
Nguyễn Minh Châu từ trước 1975 đến sau 1975

34
2.1. Vẻ đẹp sử thi của con người trong tác phẩm Nguyễn Minh
Châu trước 1975

36
2.1.1. Con người mang sức mạnh tập thể 37
2.1.2. Con người mang lí tưởng cách mạng cao cả 39
2.1.3. Con người của sự hi sinh và hành động anh hùng 43
2.2. Những sắc thái mới của con người trong tác phẩm Nguyễn
Minh Châu sau 1975

49
2.2.1. Con người trải nghiệm 51
2.2.2. Con người sám hối 56
2.2.3. Con người đau thương mất mát 59
2.2.4. Con người của những bi kịch 65
2.3. Về một số nhân vật nữ trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu 72
2.3.1. Người phụ nữ là nạn nhân đau đớn nhất của cuộc chiến 73
2.3.2. Người phụ nữ giàu lòng yêu thương vị tha 77

Chương 3
.
Nghệ thuật miêu tả con người trong tác phẩm
Nguyễn Minh Châu từ trước đến sau 1975

82
3.1. Miêu tả ngoại hình 82
3.1.1. Trước 1975 - chấm phá sử thi 84
3.1.2. Sau 1975 - đặc tả chân dung 85
3.2. Xây dựng tính cách 92
3.3. Miêu tả hành động 100
3.4. Miêu tả nội tâm 106
KẾT LUẬN
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
122




6

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) - cây bút xuất sắc, thuộc vào
những tác giả hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỉ XX.
Bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng truyện ngắn Sau một buổi tập
(1960) cho đến tác phẩm cuối cùng Phiên chợ Giát, ông đã có 29 năm cầm
bút và đạt nhiều thành công trên các thể loại khác nhau như: tiểu thuyết,

truyện vừa, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình… Nhà văn - chiến sĩ Nguyễn
Minh Châu đã thành tâm hoà vào dòng người “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”, sống và sáng tác trong khao khát bằng ngòi bút của mình góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh cho tự do của dân tộc.
Khởi nguồn từ hiện thực chiến đấu vĩ đại của đất nước, hàng loạt tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu viết trong khói lửa chiến tranh như Cửa sông,
Dấu chân người lính, Lửa từ những ngôi nhà, Mảnh trăng, Bên đường
chiến tranh,… lần lượt ra đời khẳng định sự nghiệp chiến đấu và nền văn học
chống Mỹ - “Một trong những nền văn học tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc”.
Từ sau năm 1975 đất nước thống nhất, người nghệ sĩ có sự mẫn cảm kỳ
lạ về những vấn đề của đời sống lại bắt nhịp vào cuộc sống mới của dân tộc,
dũng cảm tham gia vào cuộc “Chiến đấu cho quyền sống của từng con người.
Các tác phẩm: Miền cháy, Mảnh đất tình yêu, Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, Phiên chợ Giát,… cùng hàng loạt bài phê
bình tâm huyết và sắc sảo, Nguyễn Minh Châu thực sự là cây bút tiên phong
trong tiến trình đổi mới của văn học dân tộc và là "người đã đi được xa nhất"
trong sự nghiệp đổi mới của văn học nước nhà.
1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu khi thì miêu tả không khí hào
hùng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến đấu, khi bộc



7

lộ niềm lo âu khắc khoải và khát vọng thức tỉnh lương tâm trong cảm hứng
nhân văn mãnh liệt. Điều đó góp phần thể hiện con người lịch sử của dân tộc
ở hai thời kì trước và sau chiến thắng mùa xuân năm 1975. Những tác phẩm
được người đọc nhiệt tình đón nhận và nó thực sự có ích cho cuộc sống con
người đồng thời còn được giới nghiên cứu đánh giá cao và coi đó là một trong
những hiện tượng văn học. “Ở sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn

bộc lộ ra những đặc tính của một thể loại ưu việt, mở ra cho văn học những đề
tài và vấn đề mới của đời sống nhân dân, những hình tượng nhân vật mới. Các
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đào sâu thêm ý niệm của chúng ta về
nước Việt Nam hiện nay” [26; tr.361]. Với cống hiến xuất sắc của mình trong
hoạt động văn học nghệ thuật nhà văn Nguyễn Minh Châu đã được bộ Quốc
phòng, Hội nhà văn Việt Nam trao tặng nhiều giải thưởng có giá trị.
Việc tìm hiểu các tác phẩm của ông là cần thiết và sẽ rút ra nhiều bài
học bổ ích cho nghiên cứu văn học xét từ nhiều phương diện. Chính vì vậy tác
phẩm của ông luôn là đối tượng lớn cho những công trình nghiên cứu.
1.3. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có tác phẩm được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông như: Bến quê (lớp 9), Chiếc
thuyền ngoài xa (Lớp 12). Đó là những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
sáng tạo của nhà văn ở từng thời kỳ khác nhau và là những tác phẩm ghi nhận
sự biến chuyển trong tư duy nghệ thuật của tác giả. Vì thế việc nghiên cứu
Nguyễn Minh Châu sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm của
tác giả này ở trường phổ thông.
1.4. Xuất phát từ sự trân trọng, ngưỡng vọng về một thời đại văn học,
một tác giả văn học, cùng với hứng thú cá nhân, trong quá trình tiếp xúc,
nghiên cứu tác phẩm chúng tôi nhận thấy Nguyễn Minh Châu là nhà văn viết
nhiều thể loại và thành công nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn. Nguyễn Minh
Châu luôn thể hiện sự băn khoăn suy nghĩ tìm tòi đổi mới. Do thời gian và



8

năng lực còn hạn chế, tôi tập trung nghiên cứu về con người và quan niệm
nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu trong tiểu thuyết và truyện
ngắn tiêu biểu của ông trước và sau 1975 qua đề tài: Sự vận động quan niệm
về con người của Nguyễn Minh Châu từ Cửa sông đến Cỏ lau.

2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn
xuôi đương đại. Mỗi tác phẩm của ông là sự trăn trở, tìm tòi trong lao động
nghệ thuật với một tinh thần trách nhiệm cao. Nhà văn luôn song hành cùng
những đổi thay của đất nước và trong mỗi thời kì ông đều nhìn nhận rất kỹ,
sâu và ít khi viết vội vàng. Các sáng tác viết trong chiến tranh của ông từng là
những bức tranh hiện thực sinh động về con người và cuộc sống của nhân dân
ta những năm chống Mỹ và được đánh giá cao. Những năm sau chiến tranh
ông là một trong số rất ít nhà văn sớm nhất có sự trăn trở, khát khao đổi mới
văn học. Ông được đánh giá là một trong những người “mở đường tinh anh và
tài năng” trong chặng mở đầu của công cuộc đổi mới văn học sau năm 1975.
Khái quát về lịch sử nghiên cứu Nguyễn Minh Châu đã có những công
trình nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn Minh Châu - Tài năng và sáng tạo
nghệ thuật của Nhà xuất bản Văn hoá thông tin; Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Minh Châu (Sự hình thành những đặc trưng) của Tôn Phương
Lan. Nguyễn Minh Châu - tác giả tác phẩm, tập hợp nhiều bài viết của nhiều
tác giả có tên tuổi.Trong các công trình nghiên cứu, vấn đề con người cũng
được giới nghiên cứu quan tâm đề cập và được nhìn nhận, đánh giá bằng hai
giai đoạn: trước năm 1975 và sau năm 1975.
2.1. Trước năm 1975, những sáng tác viết trong thời kỳ chiến tranh,
Nguyễn Minh Châu quan tâm phản ánh và cổ vũ những phẩm chất yêu nước,
anh hùng của nhân dân ta. Cửa sông, Dấu chân người lình, Mảnh trăng,
Bên đường chiến tranh… là những tác phẩm tiêu biểu.



9

Con người trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 đã
được các tác giả nghiên cứu trong một số công trình sau này tập hợp trong

Nguyễn Minh Châu, cuộc đời và tác phẩm. Trong Tư tưởng nghệ thuật -
quan niệm về hiện thực và con người của Nguyễn Minh Châu, tác giả Tôn
Phương Lan cho rằng: “Những phẩm chất đẹp đẽ, cao quý của con người Việt
Nam trong cuốc sống chiến đấu và lao động hàng ngày đã được ông thể hiện
ở những dáng vẻ khác nhau…” [30; tr.37]. Đến Nhân vật trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu, tác giả Tôn Phương Lan phát hiện ra “Sự ra đời của các
loại hình nhân vật tuỳ thuộc vào quan niệm sáng tác của mỗi nhà văn. Đối với
Nguyễn Minh Châu, hệ thống nhân vật đã phản ảnh trung thành thế giới nghệ
thuật cũng như quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực trong các
chặng đường sáng tác…” [30; tr.70]. Qua nghiên cứu, tác giả bài viết cũng
khẳng định “Vào những năm tám mươi, nhìn chung nhân vật của Nguyễn
Minh Châu chưa có nét riêng động đáo vì tác giả chỉ chủ yếu soi chiếu ở góc
độ con người xã hội” [30; tr.70]. Như vậy có thể nhận ra trước năm 1975, nhà
văn Nguyễn Minh Châu cũng hoà chung vào văn mạch của dân tộc, văn học
lúc này nhằm phục vụ cho lợi ích của dân tộc, cho cuộc khác chiến. Đây cũng
chính là điều mà tác giả Hồ Hồng Quang trong Tác phẩm viết về chiến tranh
những năm 80, một sự chiêm nghiệm lại về cuộc chiến và người lính cách
mạng của Nguyễn Minh Châu đã nhận định: “Trước những năm 80, cảm
hứng lịch sử và tư duy sử thi đã hướng các nhà văn đến cái nhìn con người
làm chủ đất nước, làm chủ dân tộc. Đó là con người có lí tưởng, xả thân vì
nghĩa lớn có đầy đủ tài năng, ý chí và nghị lực… con người trong văn học
được nhìn nhận hết sức rạch ròi: xấu - tốt, địch - ta, cao cả - thấp hèn,…
Nguyễn Minh Châu nằm chung trong cảm hứng sáng tạo đó” [25; tr.233].
Nhà nghiên cứu phê bình người Nga N.Nikulin nhận xét: “Cảm hứng các tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu, như tự anh nói, trước hết là cố gắng “tìm cái



10


hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Và đó là chủ tâm trong
sáng của Nguyễn Minh Châu khi xây dựng nhân vật chính diện. “Mỗi con
người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời
cũng chưa đủ để nhận thức, khám phá tất cả những cái đó”.
Nhận định về văn học Việt Nam trước 1975 và sáng tác của Nguyễn
Minh Châu trong thời kỳ này tựu chung lại tác giả đều có chung nhận xét về
sự ảnh hưởng của khuynh hướng văn học lúc bấy giờ là phục vụ chính trị, “là
con đẻ của Cách mạng và những cuộc chiến tranh lớn, văn học Việt Nam
trước 1975 không thể không mang những đặc điểm của một nền văn học thời
chiến… gắn bó với vận mệnh của Tổ quốc, trước 1975 văn học của chúng ta
về cơ bản là một nền văn học sử thi” [26; tr.340]. Vì lẽ đó “Số phận văn
chương của Nguyễn Minh Châu gắn liền với những bước đi cơ bản của nền
văn học Việt Nam ở những thời điểm lịch sử… Nguyễn Minh Châu thả con
thuyền văn chương của ông xuôi theo cái dòng chảy đang có sức cuốn hút
mạnh mẽ ấy” [26; tr.340].
2.2. Sau 1975, Nguyễn Minh Châu được coi là người có công đầu trong
đổi mới tư duy nghệ thuật, trong miêu tả con người, đề tài “Nguyễn Minh
Châu là một trong những nhà văn được coi là người đi tiên phong trong việc
đổi mới văn học những năm 80. Có sự thay đổi lớn lao trong tư duy nghệ
thuật, thể tài, bút pháp, giọng điệu, lời văn ở ngòi bút của anh so với giai đoạn
sáng tác trước. Sự thay đổi và phát triển của tư duy nghệ thuật, xét đến tận
gốc cái quan trọng nhất là sự thay đổi quan điểm nghệ thuật về con người.
Nguyễn Minh Châu có được sự thay đổi này sớm so với đồng nghiệp” [26;
tr.223]. Thời kỳ này ông nổi lên là nhà văn viết về đời thường với đầy đủ
những sự kiện nhân thế. Sau 1975, con người trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu hiện lên chân thực hơn, đa chiều bởi vì cách thể hiện bản chất hơn. Sự
đổi mới ấy được ông chuyển tải hết trong tác phẩm của mình.




11

Khi nghiên cứu con người trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau
1975 hầu hết các tác giả đều nhận ra sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật và
phát hiện ra những đổi mới tìm tòi trong các sáng tác của ông. Nguyễn Văn
Hạnh trong bài viết Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cái
nhìn về con người nhận xét “Nguyễn Minh Châu đã cảm nhận được ngày
càng rõ nét những chuyển động có ý nghĩa thời đại của cuộc sống và của văn
học, và anh đã mạnh dạn tự phủ định mình, đổi mới cách viết từ một cách
nhìn mới về con người, về cuộc sống” [25; tr.120 - 121]. “Quan hệ giữa con
người với đất, giữa người và thiên nhiên, giữa con người với nhau trên mảnh
đất và đối diện với thiên nhiên, đó mới là chuyện lâu đời, thường xuyên tạo
nên tính cách, phẩm giá, vẻ đẹp và bi kịch cuộc đời của những người lao
động. Càng gần gũi cuộc đời thực càng từng trải, càng đi sâu vào kiểm
nghiệm, Nguyễn Minh Châu càng muốn viết kỹ về sự vất vả của những người
lao động. Dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, cuộc sống lao động của con
người vừa là một bản anh hùng ca vừa là một bi kịch.” Sở dĩ có sự thay đổi
này bởi “Nguyễn Minh Châu không chấp nhận những quan niệm sơ lược đơn
giản về con người và cuộc đời" [26; tr.344]. Chính vì vậy, trong bài viết Thái
độ của Nguyễn Minh Châu đối với con người: niềm tin pha lẫn lo âu, tác
giả Phạm Quang Long đã nhấn mạnh “Cống hiến lớn nhất ở ông là sự thức
tỉnh một ý thức đổi mới, đúng hơn trong cách nhìn nhận đánh giá về con
người…” [26; tr.272 - 273].
Đinh Trí Dũng trong Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở của một ngòi
bút đầy trách nhiệm đã có cái nhìn khái quát về sáng tác của Nguyễn Minh
Châu trước và sau năm 1975: “Trong những ngày mà đất nước có chung hình
hài, có chung khuôn mặt - như cách nói của một nhà thơ, Nguyễn Minh Châu
đã trăn trở đi tìm sự khác nhau giữa thế hệ cầm súng cha anh… Anh đã có
một cách viết thật lạ, đọc cứ như bị ám ảnh mãi… Nguyễn Minh Châu như
một người lính hành quân không mệt mỏi luôn trăn trở đào sâu vào những




12

tầng vỉa mới của đời sống, phát hiện những kiểu người mới, những giá trị
mới” [25; tr.134-135] và tác giả bài viết cũng khẳng định “Sự đổi mới cách
nhìn về người đã đem lại cho tác phẩm Nguyễn Minh Châu những gương mặt
lạ” [25; tr.135].
Lịch sử nghiên cứu con người trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
đã được đề cập ở các công trình trên. Những nghiên cứu về con người trước
1975 được đánh giá chủ yếu theo quan niệm chính trị xã hội, các tác giả cũng
chịu chi phối bởi quan niệm của thời đại mà khen nhiều nhưng chủ yếu chỉ
đối chiếu nguyên mẫu, đào sâu khám phá chưa nhiều. Nhìn chung chúng ta
thấy các ý kiến đưa ra trong các công trình và bài viết đều xác đáng, đã đánh
giá đúng tài nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là những nghiên cứu về
con người trong tác phẩm của ông sau 1975.
Một số cá nhân yêu thích và quan tâm đến Nguyễn Minh Châu đã đi
tìm hiểu con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu những cũng chỉ dừng
lại ở một vài khía cạnh và ở một số tác phẩm nhất định.
Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề nghiên cứu con người trong tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu một cách toàn diện và thấu đáo trên từng phương diện thì
chúng tôi thấy qua các công trình nghiên cứu trên đang còn tồn tại những
khoảng trống. Vì thế ở đề tài này tôi tiếp thu những ý kiến đánh giá của các
nhà nghiên cứu và bằng những cố gắng của mình, mong muốn đóng góp một
phần nhỏ bé để lấp bớt chỗ trống trong việc nghiên cứu con người trong tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm

của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975.



13

3.2. Mục đích nghiên cứu
3.2.1.Phát hiện những vẻ đẹp của con người trong tác phẩm Nguyễn
Minh Châu
3.2.2. Chỉ ra đặc điểm miêu tả con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu
3.2.3. Thông qua hình ảnh con người trong tác phẩm Nguyễn Minh
Châu tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và sự vận động quan niệm nghệ thuật về
con người của ông
4. Phạm vi nghiên cứu
Thành tựu của Nguyễn Minh Châu được khẳng định ở nhiều thể loại
khác nhau: Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình… những
thành công nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn.
Do thời gian và năng lực có hạn, với giới hạn phạm vi nghiên cứu, ở đề
tài này tôi tập trung nghiên cứu về con người và quan niệm nghệ thuật về con
người trong tiểu thuyết và truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu như:
Cửa sông, Dấu chân người lính, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Bến
quê, Mảnh đất tình yêu, Chiếc thuyền ngoài xa, Phiên chợ Giát, Cỏ lau…
5. Đóng góp mới của luận văn
5.1. Nhận diện những vẻ đẹp, những giá trị tinh thần cuả hình ảnh con
người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu.
5.2. lí giải những nguyên nhân, những tiền đề xã hội, lịch sử và nghệ
thuật của hình ảnh con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu.
5.3. Phát hiện, hệ thống hóa và làm rõ thêm về quan niệm, phong cách,
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua hình ảnh con người trong
tác phẩm của ông.

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
6.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Để đề tài thêm phong phú, chúng tôi tạo ra một cái nhìn đối sánh về
con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975, từ đó có cái



14

nhìn khái quát về con người cũng như sự vận quan niệm về con người trong
tác phẩm của ông.
6.3. Một số biện pháp kết hợp
Do mục đích nghiên cứu đặt ra trong việc đi sâu tìm hiểu hình ảnh con
người và quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu ngoài các phương pháp chính trên, chúng tôi đã sử dụng kết hợp
các phương pháp thi pháp học cụ thể: thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm, thi
pháp nhân vật. Những phương pháp ấy, trong chừng mực nhất định tạo điều
kiện cho chúng tôi nghiên cứu những phẩm chất, tư duy nghệ thuật của ông.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam
Chương 2. Sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người của
Nguyễn Minh Châu
Chương 3. Nghệ thuật miêu tả con người trong tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu trước và sau 1975







15

NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Cách mạng Việt
Nam sau năm 1945
Con người là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển
của văn học. Con người vừa là chủ thể nhận thức chủ yếu trong văn học, vừa
là cái đích để sáng tạo văn học hướng tới. Các sáng tạo về phương pháp,
phong cách, thể loại, ngôn ngữ, kết cấu… chung quy đều góp phần tạo nên
hình tượng nghệ thuật mới mẻ, có chiều sâu về con người. Con người trong
văn học do đó là nơi thể hiện toàn bộ quan niệm nghệ thuật, dấu ấn thời đại,
những vấn đề của phong cách, thế giới quan của nhà văn trong sự vận động
của bản thân văn học và của đời sống.
Với một quan niệm giàu chất nhân văn sâu sắc nhưng cũng đầy niềm
tin vào khả năng to lớn của con người, M. Gorky đã nói về con người: Con
người viết hoa, con người lao động, con người trong sự phát triển không
ngừng các đạo đức giá trị của cá nhân. Bởi vậy ông thực sự là người đặt nền
móng cho một thời đại văn học mới với một tầm cỡ mới.
"Sự nghiệp xây dựng một nền văn nghệ mới không tránh khỏi những
cuộc tranh luận lí thuyết về quan niệm của con người, lúc ngấm ngầm, lúc
công khai. Sau năm 1945, cách mạng đã mở ra một chân trời mới cho con
người vươn lên tự khẳng định mình. Vì vậy quan niệm nghệ thuật về con
người trong Văn học cách mạng Việt Nam sau 1945 cũng đã được đặt lại vấn

đề quan niệm nghệ thuật về con người" [38; tr.224]. Gắn liền với hoàn cảnh
lịch sử, với yêu cầu lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề dân tộc lên trên tất cả,
cái tôi của cá nhân bộc lộ chủ yếu trong các vấn đề dân tộc, cộng đồng, hay



16

nói như một nhà nghiên cứu thì “tọa độ cá nhân rơi đúng vào tọa độ lịch sử”
(Phan Cự Đệ).
Các nhà thơ cách mạng hiện diện với trách nhiệm trước cuộc đời hiện
tại, khẳng định niềm tin vào tương lai của đất nước. Văn học cách mạng là
văn học của con người mới, con người cộng đồng, những mối quan tâm của
nó dường như gắn liền với những vấn đề của tập thể, cộng đồng. Con người
hướng về tình cảm chung của cộng đồng, cái tôi, cái ta hoà hợp khẳng định sự
chung sức, chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước - đó là cái tôi sử thi.
1.1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy con người là đối tượng chủ
yếu, "dù miêu tả theo hình thức nào, thần linh, ma quỷ, miêu tả đồ vật hoặc
đơn giản là miêu tả các con vật văn học đều thể hiện con người" [37; tr.43].
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm trung tâm của thi pháp
học có nội hàm phong phú và phức tạp. Khái niệm con người được nhiều
ngành khoa học như: sinh học, tâm lí học, xã hội học, triết học, văn học
quan tâm nghiên cứu. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu một khía cạnh khác
nhau và vấn đề con người đã trở thành tâm điểm chú ý của văn học ở tất cả
các khâu, từ những chuyện bếp núc của sáng tác đến khi tiếp nhận tác phẩm ở
phía người đọc. Tìm hiểu vấn đề này cũng là khám phá một phương diện quan
trọng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Nội hàm khái niệm con người rất rộng, có một số quan niệm của triết
học về con người hữu ích đối với việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con

người.
Dù coi con người là một tiểu vũ trụ như triết học phương Đông cổ đại
(Trung Quốc hoặc Ấn Độ) hay con người tách ra khỏi thế giới, độc lập với vũ
trụ (Đêcac) hoặc con người là sản phẩm của tự nhiên như triết học duy vật thô
sơ thì câu hỏi con người, anh là ai? luôn chiếm vị trí trung tâm trong quá trình



17

nhận thức về nó. Nói như vậy để muốn khẳng định rằng, dù phát triển ở trình
độ tổ chức xã hội nào và nhìn con người từ góc độ nào thì vấn đề con người
cũng luôn là cái đích để khoa học hướng đến nhận thức, lí giải. Văn học cũng
không nằm ngoài mối quan tâm này. Những quan niệm khác nhau sẽ đặt ra và
giải quyết vấn đề con người theo những cách khác nhau và Mac vô cùng thán
phục cách tiếp cận con người của L.Fơbach, đã đi xa hơn L.Fơbach khi khẳng
định: “bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng. Trong tính
hiện thực của nó con người là tổng hoà của toàn bộ các quan hệ xã hội". Theo
cách nói của Mác thì tính xã hội của các quan hệ người mới làm nên bản chất
của anh ta và các quan hệ ấy đã thâm nhập vào nhau "tổng hòa”, chi phối lẫn
nhau để tạo ra một hiện tượng hay một sản phẩm mà nếu chỉ nhìn từ một vài
quan hệ nào đó, dù là căn bản nhất vẫn chưa thể giúp ta hiểu đúng, đủ về con
người. Mặt khác, trong quan điểm của mình, Mac cũng mới chỉ nhấn mạnh
đến cái phần dễ nhận diện nhất, cái quan hệ xã hội của con người mà chưa
chú ý đúng mức đến cái phần tự nhiên, bản năng, bản thể của yếu tố sinh vật -
người. Chính điều này là nguyên nhân tạo nên những ngộ nhận trong giới
nghiên cứu khi giải thích về bản thể người, tính người, tính điển hình của
nhân vật văn học.
Quan niệm về con người trong triết học hoặc đóng vai trò phạm trù,
hoặc có mối liên hệ chi phối, quen thuộc với cái tôi trữ tình trong văn học.

Con người trong văn học thực chất là sự cắt nghĩa và quan niệm về con người
của nghệ sĩ được thể hiện ra thông qua các hình tượng nghệ thuật, trong các
bình diện con người được miêu tả, trong tương quan với không gian, thời gian
và trong các nguyên tắc miêu tả tính cách, tâm lý… được nhìn nhận xem xét
trong các mối quan hệ với cộng đồng, tự nhiên và chính bản thân mình. Ở đó
con người không đơn giản xuôi chiều nữa mà phong phú và phức tạp như
chính bản thân con người trong cuộc sống, xã hội, người ta gọi đó là quan
niệm nghệ thuật về con người.



18

Quan niệm nghệ thuật về con người là một khái niệm trung tâm của thi
pháp học, nó có sự gắn bó với thế giới quan nhưng không đồng nhất với thế
giới quan của nhà văn. Một tác phẩm có giá trị chính là ở chỗ nó đã hiểu, đã
cảm nhận và chiếm lĩnh con người sâu sắc ở mức độ nào. Văn học là nhân
học, nhiệm vụ hàng đầu của văn học đó là nghiên cứu về con người, mọi sự
miêu tả về con người phải đựơc bắt nguồn từ quan niệm về con người. Đây
không phải là quan niệm trừu tượng mà là cách hình dung về con người,
nhưng cách hình dung này không hoàn toàn mang tính cá nhân mà nó có quy
luật văn hoá trong xã hội, nó gắn liền phương tiện và chất liệu ngôn từ, gắn
liền phương tiện và những thủ pháp biểu đạt nhất định.
Con người trong tác phẩm văn học được nhà văn tạo nên từ các phương
diện nghệ thuật. Thông qua các tác phẩm văn học, nhà văn khơi gợi những
rung động, tình cảm về cuộc đời, về số phận của con người, gợi mở ra mối
quan hệ giữa con người và thế giới trong mối liên hệ quá khứ, hiện tại, tương
lai với khát vọng vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ phản ánh nghệ thuật xuất
phát từ thế giới con người và hướng về thế giới đó" [20; tr.159].
Quan niệm nghệ thuật về con người có một ý nghĩa rất quan trọng trong

thi pháp học cũng như trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, vì nó
thể hiện cách thức và mức độ cảm nhận đời sống của nhà văn. Với một quan
niệm nghệ thuật nào đó thì nhà văn có thể miêu tả một số phương diện đời
sống con người nhưng không miêu tả được một cách đầy đủ các phương diện
khác. Muốn miêu tả phương diện đời sống khác thì nhà văn phải thay đổi
quan niệm nghệ thuật về con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong
mọi chiều sâu của nó cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá
giá trị nhân văn vốn có của văn học và cũng là tiêu chuẩn để đánh dấu chiều
sâu quan niệm của nhà văn.



19

Trong văn học, con người là trung tâm. Do đó quan niệm nghệ thuật về
con người là phạm trù cơ bản, là yếu tố trung tâm chi phối các yếu tố khác
của tác phẩm. Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể - chỉnh thể của
sáng tạo nghệ thuật. Chính vì vậy quan điểm nghệ thuật về con người được
thể hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học. Con người trong văn
học được thể hiện tập trung trước hết ở các nhân vật, bởi nhân vật văn học là
con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học,
nghiên cứu nhân vật để phát hiện ra con người. Nhà văn gửi gắm thông điệp
tư tưởng của mình qua nhân vật. Nhân vật chứa đựng cái nhìn khách quan,
chủ quan của nhà văn người đọc tiếp nhận tác phẩm suy cho cùng là tiếp nhận
thông điệp của tác giả.
Mục đích cuối cùng của văn học là sáng tạo cho được hình tượng con
người, có thể không có cốt truyện nhưng không thể không có con người trong
văn học.
Vậy quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm

thấy con người được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp
hình thức thể hiện con người trong văn học.
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học cách mạng
Việt Nam 1945 - 1975
"Cách mạng tháng 8 - 1945 không chỉ là một bước ngoặt trong lịch sử,
mà còn mở ra một thời đại văn học mới của dân tộc, một cuộc lên đường hùng
vĩ trên cơ sở ý thức nghệ thuật mới. Ba mươi năm văn học 1945 -1975 là kết
quả, là công sức sáng tạo vô cùng to lớn, phong phú của các thế hệ nhà văn,
của cả dân tộc ta, đồng hành với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển chế
độ xã hội dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng… nhà văn ngày càng
thấy rõ hơn trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình" [24; tr.13].
Các nhà văn đã tìm thấy con đường vươn tới lí tưởng Chân, Thiện, Mỹ
của con người và nghệ thuật trong sự gắn bó với cách mạng và kháng chiến.



20

Trong giai đoạn 1945 - 1975 nhiều nhà văn đã nhận thấy cuộc chiến đấu cách
mạng suốt mấy chục năm của đất nước đã là cái nền và cái nguồn để họ sáng
tạo. Những nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn nghệ về trách nhiệm của
nhà văn trong đời sống có ý nghĩa rất quan trọng trong ý thức nghệ thuật của
văn học1945 - 1975. Những định hướng miêu tả con người của văn học 1945
-1975 đã được xác lập và phát triển gắn liền với những nhận thức ấy.
Nếu con người lí tưởng của Văn học Trung đại chủ yếu là những kẻ sĩ,
những tài tử giai nhân và văn học 1930- 1945 chú ý đến những thanh niên trí
thức hoặc hướng về tìm hiểu số phận, phẩm chất của những con người nhỏ bé,
những nạn nhân, thì văn học Việt Nam 1945 - 1975 là nền văn học được sự
lãnh đạo của Đảng thống nhất và chặt chẽ, phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất
nước cổ vũ nhân dân ta trong lao động và chiến đấu, thực tế cách mạng đã

mang lại cho người cầm bút những định hướng về quan niệm con người. Vì
thế văn học thời kỳ 1945 - 1975 hướng tới đại chúng, trước hết là quần chúng
công nông binh.
Đối tượng thẩm mỹ chính của văn học 1945 - 1975 là con người quần
chúng cách mạng. Quan niệm con người trong ý thức nghệ thuật 1945 - 1975
được xây dựng trên cơ sở quan niệm về con người cách mạng, về quần chúng
cách mạng, các nhà văn chú ý ưu tiên khám phá thể hiện và ngợi ca những
con người của sự nghiệp chung - con người sử thi- con người thuộc về sức
mạnh tập thể, sức mạnh cộng đồng. Không gian hoạt động của những con
người này là công trường, nông trường, chiến trường chứ không phải không
gian gia đình.
Vẻ đẹp thẫm mỹ của con người được nhìn nhận và thể hiện trong ý thức
và hành động hướng về cách mạng, về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Vẻ đẹp ấy được biểu hiện ở sự giác ngộ và tự nguyện nhận lấy những sứ
mạng xã hội, sứ mạng cách mạng của con người, ở những nỗ lực cố gắng cải



21

biến thiên nhiên, cải biến xã hội và bản thân vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là
những con người xả thân vì nghĩa lớn, họ sẵn sàng gác bỏ chuyện riêng tư, hi
sinh quyền lợi, hạnh phúc cá nhân và gia đình cho sự nghiệp chung, họ giải
quyết mối quan hệ mâu thuẫn riêng chung giữa quyền lợi gia đình và Tổ quốc
hết sức nhẹ nhàng thanh thoát và bao giờ họ cũng đặt quyền lợi của Tổ quốc
lên trên, không bao giờ có sự giằng co trong tâm hồn họ giữa quyền lợi cá
nhân và Tổ quốc:
"Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Khi lòng yêu nước thành hệ quy chiếu để nhìn nhận đánh giá phẩm chất

của con người thì nhân vật trong tác phẩm văn học cũng được tác giả thể hiện
chủ yếu trên phương diện ấy. Nhân vật trong văn học lúc này là tập hợp của
những phẩm chất cao cả anh hùng, là những nhân vật được xây dựng nhằm
chứng minh cho phẩm chất yêu nước, cho tinh thần "thà hi sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Họ là những: Kinh, Lữ, Khuê,
Thuỳ, Nết trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kỳ này.
Những con người mới, đặc biệt là những con người anh hùng 1945 -
1975 được xây dựng như những mẫu hình lí tưởng của thời đại. Họ được
miêu tả đẹp một cách hoàn thiện, hoàn mỹ, đẹp như những viên ngọc không
có vết xước, đó là những người mẹ "Như ngọc sáng ngời", "những con người
như chân lí sinh ra". Họ là những con người trong huyền thoại, đẹp như huyền
thoại mà lại có thực, hiện hữu bằng xương, bằng thịt khó lòng tìm thấy những
khiếm khuyết trong phẩm hạnh: Anh hùng Núp, chị Út Tịch, chị Sứ hay
nhân vật Kinh và Lữ trong Dấu chân người lính.
Nhân vật trong văn học 1945 - 1975 được chia thành hai tuyến rạch ròi
và để đối lập nhau làm nổi bật con người anh hùng của sử thi.



22

Con người cao cả Con người thấp hèn, tiểu nhân
Con Người Con người thú
Thánh thiện Ác quỷ
Con người tập thể Con người tư hữu

Đối sánh văn học 1930 - 1945: Con người được miêu tả ở cả hai mặt vừa
có mặt tốt vừa có mặt xấu. Ví dụ: Hộ, Chí Phèo đề cập nhiều đến đời tư của
nhân vật.
Văn học 1945 - 1975: Nhân vật chủ yếu là con người sử thi, thế giới

đời tư, đời thường của cá nhân ít được đề cập, nếu có đề cập cũng là nhằm
mục đích tôn vinh phẩm chất anh hùng. Ví dụ Tnú (Rừng Xà Nu), anh hùng
Núp (Đất nước đứng lên). Xây dựng nhân vật phụ như Mẹ, Vợ và Con chỉ
với dụng ý bổ sung hình tượng về người anh hùng.
1.1.3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1975 đến nay
Không thể xây dựng các nhân vật văn học nếu như không hiểu cặn kẽ
về con người trong cuộc sống. Nhưng trong vô vàn những biểu hiện phong
phú phức tạp của hiện thực, ngòi bút nhà văn sẽ hướng về đâu, về những con
người như thế nào, những phương diện nào của con người để thực sự tạo ra
sức hấp dẫn cho nghệ thuật, có ích cho cuộc đời. Đó là những câu hỏi thường
xuyên của các nhà văn, của ý thức nghệ thuật trong quá trình xây dựng nền
văn học mới.
Văn học Việt Nam sau 30/04/1975 phát triển nhanh, có sự cách tân đổi
mới, cách nhìn nhận về cuộc đời và con người có nhiều điều khác với văn học
1945 - 1975, dù vẫn chịu sự chi phối của cùng một hệ tư tưởng nhưng hệ giá
trị đã đổi khác.
Lịch sử dân tộc đã sang trang mới vào ngày 30/04/1975, trong văn học
xuất hiện một loạt các tác phẩm dựng lại không khí bão táp cách mạng, ngợi
ca khí thế tiến công vũ bão của dân tộc và sự thất bại của kẻ thù ở một số tác



23

phẩm: Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Thâm), Thời gian ở Tây
Nguyên (Nguyễn Khải), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thuy), Miền cháy,
Những người đi từ trong rừng ra (Nguyễn Minh Châu), Nắng đồng bằng
(Chu Lai)
Trong không khí chung của thời đại những tác phẩm này được chào
đón. Nhưng khi con người trở lại cân bằng trong tình cảm thì một số tác phẩm

tiếp tục viết theo khuynh hướng sử thi không được người đọc hào hứng tiếp
nhận vì không đưa đến cho người đọc những nhận thức mới so với tác phẩm
trước đây. Nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét: "Sau 1975 bỗng dưng xuất hiện
một tình trạng rất lạ, sự lạnh nhạt hẳn đi trong quan hệ giữa công chúng và
sáng tác. Người đọc mới hôm qua còn mặn mà là thế bỗng dưng bây giờ quay
lưng lại với anh, không thèm gặp anh nữa, sách anh viết ra trăn trở, dày cộm
nằm mốc trên các quầy sách, người ta bỏ anh, người ta đi đọc sách Tây và đọc
Nguyễn Du". Chế Lan Viên giải thích hiện tượng này "Sách thì nhiều nhưng
không có tác phẩm…", và theo ông "Có một khoảng chân không văn học thực
sự lúc này, nhưng tôi biết trong thực tế không có được khoảng chân không
tuyệt đối nhưng vẫn có những hạt nhỏ li ti trong khoảng chân không ấy".
Sau 1975 văn học đã có sự đổi mới trên bình diện tư duy nghệ thuật,
chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết.
Trong xu hướng tái hiện cuộc sống đậm màu sử thi nhà văn chủ yếu
phản ánh hai nhiệm vụ trung tâm và chiến lược của cuộc sống là Tổ quốc và
Chủ nghĩa xã hội, quan tâm đến vận mệnh cả dân tộc. Đời tư, đời thường số
phận cá nhân hầu như bị bỏ quên.
Tư duy tiểu thuyết nghiêng về cách nhìn tiểu thuyết nghĩa là vẫn nói
đến hai vấn đền lớn lao của dân tộc nhưng đã nghiêng về những vấn đề đời tư,
đời thường với số phận cá nhân con người.
Văn học sau 1975 đã nêu lên được vấn đề có ý nghĩa nhân sinh rộng
lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ những con người sống trong cộng đồng Việt



24

Nam. Văn học hướng tới số phận từng cá nhân con người, cố gắng khám phá
số phận đời tư từng cá nhân con người.Văn học từ 1975 đến nay đã có sự đổi
mới quan điểm nghệ thuật về con người. Nếu văn học 1945 - 1975 ưu tiên

hướng tới tìm hiểu ngợi ca con người mới - con người anh hùng của thời đại
được miêu tả đẹp một cách hoàn thiện, nhân vật được phân chia ranh giới một
cách rạch ròi, dứt khoát, không có sự nhập nhằng giữa cái cũ - mới, tiến tiến -
lạc hậu thì văn học sau 1975 vẫn nói đến con người anh hùng của thời đại
nhưng lại quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của con người. Các nhà văn đã
nhìn thấy được trong cuộc chiến hào hùng của dân tộc không thể nào tránh
khỏi sự mất mát hi sinh nên văn học không thể không đề cập đến những con
người chịu đựng những thương đau do cuộc chiến tranh đưa lại. Và cũng chỉ
đến sau 1975 mới thấy xuất hiện trong văn học những con người không còn
“trong suốt, nguyên khối” như trước nữa mà đa diện hơn, trong đó nhiều
mảng tối, nhiều góc khuất, nhiều màu sắc thẩm mỹ khác đã được chú ý. Vì
thế, có nhà văn đã nói một cách hình ảnh rằng, nhân vật văn học đã từ bầu trời
rời xuống mặt đất, sống giữa những bụi bặm, hệ lụy của cuộc đời và mất dần
vẻ thiên thần của nó. Trong cuộc phiêu du mới này, có cả cái được lẫn cái mất
và chúng tôi sẽ bàn đến điều này ở phần sau.
Con người đau thương mất mát
Sau 1975 đối tượng khám phá phản ánh của văn học đã mở rộng và
mang tính toàn diện, bao gồm các mặt hiện thực, không chỉ là hiện thực cách
mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn là hiện thực của đời
sống hằng ngày với các quan hệ thế sự phức tạp đa dạng chằng chịt, đan xen,
tạo nên những mạch nối và mạch ngầm của cuộc sống.
Hiện thực sau 1975 còn là đời sống cá nhân của mỗi con người với
những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, khát vọng, hạnh phúc, bất hạnh, kể
cả bi kịch, đau thương và mất mát. Sau 1975 khi con người dần trở lại với quy



25

luật bình thường của nó, con người trở về với muôn mặt đời thường, phải đối

mặt với bao nhiêu vấn đề cực kỳ khó khăn trong một giai đoạn có nhiều biến
động thời hậu chiến. Thực tế này đòi hỏi xã hội cũng như văn học phải thúc
đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân cũng như sự quan tâm đến mỗi con người,
mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Cái tang thương mất mát được nói tới nhiều hơn. Nhà văn khai thác
khá sâu sự đau thương tổn thất của từng số phận cá nhân con người. Đó là
người lính trong Bức tranh may mắn trở về nhưng lại gặp nỗi bất hạnh trước
người mẹ bị loà vì khóc anh quá nhiều trong những ngày nghe tin anh hi sinh.
Hay Lực của Cỏ lau cưới vợ được mấy ngày đã lên đường đi chiến đấu, lúc
về thì vợ đã có một gia đình riêng, đến bà mẹ trong Mùa trái cóc ở Miền
Nam những tưởng chiến tranh qua đi, thì bà sẽ được đoàn tụ với đứa con của
mình, nhưng hay đâu chiến tranh làm người ta hư đi hơn là tốt hơn, vì thế bà
đã phải chịu sự hất hủi của đứa con - một cán bộ cách mạng
Có thể nói mọi vấn đề trong cuộc sống của xã hội đều có thể là đề tài
của văn học sau 1975. Cách nhìn hiện thực con người đa dạng, phức tạp chứ
không chỉ dừng lại ở vấn đề chiến đấu như trong văn học 1945 - 1975. Vì thế
văn học sau 1975 đã đề cập đến con người đời tư, đời thường hướng tới số
phận từng cá nhân con người và cố gắng khám phá số phận cá nhân ấy.
Nhà văn Nguyên Ngọc nhận định: "Có một điều khá thú vị là hành
trình văn học của chúng ta mấy năm qua từ chỗ cố gắng rút ra khỏi đề tài số
phận chung của cả khối cộng đồng thống nhất để đi đến hiện thực xã hội ngổn
ngang (vấn đề đời tư, đời thường số phận cá nhân với nhiều tính chất tả thực,
rồi tiếp tục đi sâu vào thế giới bên trong từng con người. Cuộc tìm kiếm khó
nhọc bên trong thế giới riêng từng con người - hành trình ấy không phải là
hành trình thu hẹp dần phạm vi quan tâm của văn học, ngược lại đó là hành
trình mở ra ngày rộng hơn, phong phú đa dạng hơn của văn học".

×