Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm atonik 1,8DD đến một số chỉ tiêu sinh lý và năng suất hai giống ớt f1 và pat34 (caspicum fructescens l )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 58 trang )

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ớt là một loại quả gia vị và làm rau (ớt ngọt) phổ biến trên thế giới và ở
Việt Nam. Cây ớt trồng trong chậu có thể làm cây cảnh vì quả ớt có nhiều
màu sắc: trắng, đỏ, vàng, cam, xanh, tím… tùy theo giống. Quả ớt dùng làm
gia vị giàu vitamin A, vitamin C, hai loại vitamin này trong quả ớt gấp 5 - 10
lần trong cà chua và cà rốt. Theo Đông y, ớt có vị cay, nóng, và ớt có tác dụng
tán hàn, tiêu thực, giảm đau [18]. Trong dân gian thường dùng ớt để chữa đau
bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau khớp, dùng ngoài chữa rắn, rết cắn v.v.
Theo Tây y, ớt có rất nhiều ích lợi cho sức khỏe. Chất capsaicin(C
18
H
27
NO
3)

trong ớt kích thích não bộ sản xuất ra chất endorphin, một morphin có tác
dụng giảm đau, đặc biệt có ích cho người bị viêm khớp mãn tính và ung thư.
Ớt cũng giúp ngăn ngừa bệnh tim nhờ một số hoạt chất giúp máu lưu thông
tốt, tránh tình trạng đông đặc tiểu cầu. Ngoài ra, ớt còn giúp ngăn ngừa tình
trạng huyết áp tăng cao [18]. Quả ớt còn là một mặt hàng xuất khẩu sang các
nước châu Á đem lại nguồn ngoại tệ lớn. Ở Việt Nam theo thống kê của cục
thống kê quốc gia thì kim ngach xuất khẩu ớt mang lại khoảng 450 000 USD
trong đầu tháng 9 năm 2012 tăng 16,7 % so với cùng kì năm ngoái. Riêng
năm tỉnh miền trung cây ớt đã được quy hoạch vào cây trồng có giá trị từ năm
2011 đến 2020, diện tích dự kiến lên tới 2580 ha và xuất khẩu đi 10 nước
trong đó Trung Quốc chiếm 40%, sau đó đến Đài Loan, Malayxia, Singapore,
Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Căn cứ vào nhu cầu ớt của một số nước như
Hàn Quốc khoảng 110 000 tấn/năm thì việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên


cùng một diện tích canh tác mang lại lợi nhuận gấp 5 - 10 lần so với các cây
trồng khác trên cùng một diện tích canh tác [1], [16], [57].
2
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có vị trí địa lý
thuận lợi: phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang, phía Tây
giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội. Tỉnh lỵ của
tỉnh Vĩnh Phúc là Thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50 km,
cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km, cảng Hải Phòng khoảng 150 km. Diện
tích tự nhiên 1.236,5 km
2
, dân số năm 2010 là 1.008,3 nghìn người, mật độ
dân số 816 người/km2.
Vĩnh Phúc là một trong các tỉnh có diện tích trồng ớt tương đối cao, tập
trung nhiều ở các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Đảo và thị xã Phúc Yên.
Theo ước tính của một số hộ dân ở huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc cho rằng với
360 m
2
trồng ớt thu hoạch được khoảng 8 đến 10 triệu đồng, so với trồng lúa thì
trồng ớt lãi gấp 5 lần. Vì vậy, diện tích trồng ớtở Vĩnh Phúc có chiều hướng gia
tăng. Hiện nay người nông dân ở Vĩnh phúc trồng một số giống ớt có giá trị
kinh tế cao như: giống ớt lại F1; PAT 34; Big hot (P22); TN 018; TN 026 v.v,
trong đó hai giống ớt F1 và PAT 34 chiếm diện tích lớn nhất [61].
Để nâng cao năng suất cây trồng bên cạnh hướng chọn tạo giống năng
suất cao, chống chịu tốt với các điều kiện bất lợi môi trường thì còn có hướng
khác đó là sử dụng các loại phân bón, chất kích thích sinh trưởng để phun lên
lá nhằm giúp cây sinh trưởng tốt, khả năng đậu quả cao, tăng năng suất và
phẩm chất nông sản. Hướng sử dụng các chất kích thích sinh trưởng để phun
bổ sung lên lá đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu trên các loại cây trồng
khác nhau như: lúa, lạc, đậu tương v.v [9], [14], [58], [59], [62]. Hiện nay,
trên thị trường Vĩnh Phúc (các cơ sở dịch vụ nông nghiệp) đều có bán chế

phẩm thuốc kích thích sinh trưởng cây trồng Atonik 1,8 DD cho người nông
dân sử dụng trên nhiều đối tượng như kích thích sự phát triển của hoa lan, rau
muống, lạc các kết quả cho thấy Atonik làm tăng khả năng sinh trưởng,
phân cành, ra lá dẫn đến tăng năng suất nông sản. Tuy nhiên, Atonik có phù
3
hợp với đối tượng cụ thể là cây ớt không thì còn rất ít tài liệu bàn đến. Chính
vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu ảnh hưởng của phun
chế phẩm Atonik đến một số chỉ tiêu sinh lý và năng suất hai giống ớt F1
và PAT 34”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiệu lực của Atonik 1,8 DD một loại chế phẩm kích thích sinh
trưởng đang được bán tại các cơ sở dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn Vĩnh
Phúc đến khả năng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất quả hai giống ớt F1
và PAT 34 hiện đang được người nông dân trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc. Trên
cơ sở đó khuyến cáo cách dùng sản phẩm này cho người nông dân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành trồng hai giống ớt F1 và PAT 34 và chia làm 2 lô:
Lô đối chứng (không phun Atonik 1,8 DD) và lô thí nghiệm (phun Atonik 1,8
DD) lần 1 vào giai đoạn cây ớt có 7 - 8 lá thực. Cách bố trí thí nghiệm theo
khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, chế độ chăm sóc đảm bảo sự đồng đều giữa các
công thức. Tiến hành đánh giá hiệu lực của chế phẩm Atonik 1,8 DD đến các
chỉ tiêu:
3.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng phát triển: Chiều cao cây; đường kính thân
cây; khả năng phân cành và nhánh/cây; diện tích lá.
3.2. Chỉ tiêu quang hợp: Hàm lượng diệp lục; huỳnh quang diệp lục.
3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất: số quả/cây; khối lượng
quả/cây và năng suất thực thu trên mỗi ô thí nghiệm.
3.4. Phân tích hàm lượng vitamin A;vitamin C; β caroten và đường tổng
số trong quả.
3.5. Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm Atonik 1,8DD phun lên lá cho

cây ớt.

4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Mẫu thực vật: Hai giống ớt F1 và PAT 34 do trung tâm giống cây
trồng Vĩnh Phúc cung cấp.
- Chế phẩm Atonik 1,8 DD: Là chế phẩm kích thích ra lá cây trồng thế
hệ mới có nguồn gốc từ Asihi Chemical MFG. Co., LTD. Japan. Kí hiệu là
(KTRL).
- Các máy móc và hóa chất phục vụ cho nghiên cứu như: máy chuyên
dụng OPITI-SCIENCES model CCM -200 (do Mỹ cung cấp) v.v. Hóa chất
gồm: H
2
O
2
; H
2
SO
4
; KMnO
4
; HCl v.v.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu tiến hành từ tháng 10/2011 đến 10/2012.
- Phân tích các chỉ tiêu nghiên cứu tại phòng thí nghiệm Sinh lí thực vật
khoa Sinh - KTNN; trung tâm Hỗ trợ khoa học & chuyển giao công nghệ
trường ĐHSP Hà Nội 2.
- Phân tích hàm lượng một số chất ở Trung tâm phân tích và giám định
thực phẩm quốc gia - Công nghiệp viện công nghiệp thực phẩm.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung các dẫn liệu về ảnh hưởng của chế
phẩm Atonik 1,8 DD dùng phun lên lá đến sinh trưởng và năng suất đối cây
ớt nói chung và với hai giống ớt lai F1 và PAT 34 nói riêng.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khẳng định chế phẩm Atonik
1,8 DD có phù hợp với cây trồng cụ thể là ớt hay không. Nếu thực sự chúng
có vai trò làm tăng khả năng sinh trưởng và năng suất thì khuyến cáo để
người nông dân sử dụng và ngược lại.
5
Phần 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Giá trị của cây ớt
Ớt được chia thành hai nhóm ớt cay và ớt ngọt dựa vào hàm lượng
capsaicin chứa trong quả. Trong cây ớt cay hàm lượng capsaicin rất cao còn
trong ớt ngọt hàm lượng capsaicin có thể không hoặc rấtít. Ớt cay được trồng
nhiều ở Ấn Độ, châu Phi và một số nước nhiệt đới khác, ớt ngọt được trồng
nhiều ở châu Âu, châu Mĩ và một số nước châu Á quả được dùng như một
loại rau xanh hoặc dùng làm cảnh[16].
Ớt là loại cây trồng có hàm lượng vitamin cao nhất trong các loại rau,
nhất là vitamin C và provitamin A (caroten), theo một số tài liệu thì hàm
lượng vitamin C ở một số loại ớt là 340mg/100g quả tươi, ngoài ra còn chứa
các vitamin khác như: B1, B2, P, E [58].
Quả ớt được sử dụng dưới dạng ăn tươi, muối, nước ép, nước sốt, tương,
chiết xuất dầu và sấy khô hoặc làm bột.Trong ớt cay còn có chất capsicain
(C
18
H

27
NO
3
) là một loại alcaloid có vị cay, gây cảm giác ngon miệng khi ăn,
kích thích quá trình tiêu hoá. Chất này có nhiều trong quả và biểu bì của hạt
(trong 1kg có chứa tới 1,2g). Hoạt chất capsicain hạn chế sự hình thành của
các cục máu đông, giảm đau trong nhiều chứng viêm do ức chế được các yếu
yố P trong cơ thể, gần đây người ta còn chứng minh được vai trò của ớt trong
ngăn cản các chất gây ung thư.
Theo y học cổ truyền, ớt có vị cay, nóng, có tác dụng khoan trung, tán
hàn, kiện tỳ, tiêu thực, chỉ thống (giảm đau), kháng nham (chữa ung thư ).
Do vậy ớt thường được dùng để chữa đau bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau
khớp, dùng ngoài chữa rắn rết cắn. Nghiên cứu của y học hiện đại cũng thống
nhất với y học cổ truyền về tác dụng chữa bệnh của ớt. Kết quả nghiên cứu
6
của các nhà khoa học Trung Quốc cho thấy quả ớt có rất nhiều ích lợi cho sức
khỏe. Trong ớt có chứa một số hoạt chất: capsicain là một alkaloid chiếm tỷ lệ
khoảng 0,05-2%, được xác định là acid isodexenic vanilylamit, có đặc điểm
bốc hơi ở nhiệt độ cao, gây hắt hơi mạnh. Ngoài ra còn có capsicain, là hoạt
chất gây đỏ, nóng, chỉ xuất hiện khi quả ớt chín, chiếm tỷ lệ từ 0,01-0,1%.
Capsicain có tác dụng kích thích não bộ sản xuất ra chất endorphin, một chất
morphin nội sinh, có đặc tính như những thuốc giảm đau, đặc biệt có ích cho
những bệnh nhân bị viêm khớp mạn tính [16],[58].
1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ớt trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ớt trên thế giới
Xuất phát từ giá trị dinh dưỡng, hiệu quả kinh tế, cây ớt ngày càng phổ
biến và ưa chuộng. Trong họ cà(Solanaceace) ớt có tầm quan trọng thứ hai
sau cà chua (AVRDC,1989).Cây ớt được trồng ở hầu hết các nước trên thế
giới, năm 2006 diện tích trồng ớt trên thế giới là 3.708.099 ha và sản lượng ớt
tươi 25.866.864 tấn. Trung Quốc là nước đứng đẩu thế giới về diện tích và

sản lượng ớt tươi. Năm 2006 diện tích ớt tươi của nước này chiếm 36% và
sản lượng ớt tươi chiếm 50,4% của toàn thế giới (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Diện tích và sản lượng cây ớt của một số nước châu Á năm 2006
Ớt tươi

Ớt khô, ớt bột

Nước
Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Nước
Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Thế giới 1.726.038

25.866.864

Thế giới 1.982 061

2.747.003

Trung Quốc 632.800

13.031.000

Ấn độ 954.717


1.193.025

Inđônêxia 173.817

871.080

Băngladesh

154.812

185.635

Thổ Nhĩ Kỳ 88.000

1.842.175

Việt Nam 50.793

81,007

Hàn Quốc
67.032

395.293

Trung
Quốc
38.000


245.000

Nguồn FAO, 2007.
7
Ấn Độ là nước có tập quán trồng ớt từ lâu đời, là nước đứng đầu thế giới
về diện tích và sản lượng ớt khô, năm 2006 diện tích ớt khô của Ấn Độ chiếm
48,2 % và chiếm 43,4 % sản lượng ớt khô toàn thế giới. Năm 2008, diện tích
trồng ớt khô nước này là 805.000 ha, sản lượng ớt khô Ấn Độ năm 2008 ở
mức 1.297.000 tấn và năm 2009 đạt 1.167.000 tấn (bảng 1.2).
Trong khẩu phần ăn hằng ngày của người dân Hàn Quốc, ớt là thành
phần không thể thiếu. Ước tính trung bình 1 người dân Hàn Quốc tiêu thụ 3,8
kg ớt/năm. Ớt là loại rau chủ lực ở nước này: Diện tích trồng ớt tươi của Hàn
Quốc đứng thứ 8 trong tốp 10 nước đứng đầu về diện tích trồng trọt. Năm
2006 sản lượng ớt tươi Hàn Quốc đạt 395,295 tấn, ớt khô là 116,915 tấn,
năng suất ớt xanh của nước này rất cao đạt được 42,11 tấn/ha.
Bảng 1.2.Tình hình thương mại ớt cay trên thế giới
Năm Mỹ
Trung
quốc
Hàn
Quốc
Ấn Độ Thế giới
Giá trị
nhập khẩu
(1000 $)
Năm 2006

687.399

2.587


78

2

2.771.658

Năm 2007

750.882

1.932

56

0

3.055.465

Năm 2008

796.177

2.913

51

0

3.844.575


Giá trị
xuất khẩu
(1000 $)
Năm 2006

132.767

10.212

57.129

3.964

2.785.846

Năm 2007

81042

8.878

48.280

5.563

2.910.669

Năm 2008


168.660

12.977

50.313

10.838

3.699.699


Mỹ là nước thu được lợi nhuận từ ớt cao nhất trên thế giới cả về giá trị
nhập khẩu và giá trị xuất khẩu, năm 2008 giá trị nhập khẩu ớt của Mỹ chiếm
khoảng 24% so với giá trị nhập khẩu toàn thế giới. Hàn Quốc là nước có thế
mạnh về xuất khẩu ớt trong số các nước Châu Á, giá trị xuất khẩu ớt của Hàn
Quốc cao gấp 5-6 lần so với Trung Quốc.
1.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ớt của Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực 8
0
- 23
0
vĩ độ Bắc, chịu ảnh hưởngcủa khí
hậu Nhiệt đới gió mùa, thích hợp cho cây ớt phát triển quanh năm. Tuy nhiên,
8
để đảm bảo năng suất, tăng hệ số sử dụng đất, cây ớt được gieo trồng vào 2 vụ
chính là [1],[3].
- Vụ Đông Xuân: gieo hạt từ tháng 10- 12, trồng vào tháng 1- 2, thu
hoạch vào tháng 4- 5 đến tháng 6- 7.
- Vụ Hè Thu: gieo hạt vào tháng 6- 7, trồng tháng 8- 9, thu hoạch vào
tháng 1- 2.

Ngoài ra, có thể trồng thêm một vụ ớt Xuân Hè, gieo hạt tháng 2- 3,
trồng tháng 3- 4, thu hoạch tháng 7- 8.
Ở nước ta, ớt là một loại gia vị rất phổ biến, ở nông thôn trong vườn gia
đình người ta thường trồng một vài cây ớt vừa dùng trong bữa ăn hàng ngày,
vừađể làm cảnh. Ngoài lượng ớt trồng để sử dụng trong nước, hàng năm trăm
tấn ớt được xuất khẩu sang nhiều nước.
Theo số liệu thống kê (Tổng cục thống kê, 2009): năm 2008 diện tích
trồng ớt của nước ta là 6.532 ha, sản lượng là 62.993 tấn, tăng 37% về diện
tích và 35% về sản lượng so với năm 2007. Năng suất trung bình là 9,6 tấn/ha
năm 2008 đạt ở mức thấp so với năng suất trung bình của toàn thế giới 14,5
tấn/ha.
Một số địa phương trồng ớt xuất khẩu truyền thống có diện tích lớn như
Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Bình Năm 2008 diện tích trồng ớt
Hải Dương cao nhất chiếm 12% diện tích và 18% sản lượng so với cả nước
(bảng 1.3)
Theo thư tự xếp hạng của FAO, 2006: Việt Nam đứng thứ 5 trên toàn
thế giới về diện tích trồng và chế biến ớt khô, ớt bột và đứng thứ 7 về sản
lượng. Sản phẩm ớt bột ở nước ta hiện nay đang đứng đầu trong các mặt hàng
gia vị xuất khẩu, với thị trường tiêu thụ khá ổn định ở các nước như: Nhật
Bản, Hồng Kông, Singapo ớt bột xuất sang các nước Liên Xô (cũ), Tiệp
Khắc, Hunggari, Bungari v.v đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể.
9
Bảng 1.3. Diện tích trồng, năng suất và sản lượng của cây ớt tại một số
tỉnh phía Bắc
Địa
phương
Năm 2007 Năm 2008
Diện tích

(ha)

Năng suất

(tấn/ha)
Sản
lượng
(tấn)
Diện
tích
(ha)
Năng
suất
(tấn/ha)
Sản
lượng
(tấn)
Hải Dương 634 143.2

9.082

792 145

11.483

Hải Phòng 179 214.6

3.842

346 163.4

5.654


Bắc Ninh


132 58

766

Vĩnh Phúc 106 78.4

831

115 79.1

910

Ninh Bình 150 177.4

2.661

119 188.1

2.238

Cả nước 2.424 89.4

21.680

6.532 96.4


62.993

Nguồn: Tổng cục thống kê 2009
Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn các tỉnh phía Bắc đã có trên 10
doanh nghiệp lớn sản xuất, chế biến và xuất khẩu ớt cay dưới các dạng khác
nhau: xuất tươi (đông lạnh), muối mặn, muối chua, đóng lọ nguyên quả, ớt
chiên, ớt sấy khô, ớt bột, tương ớt (paste) Điển hình là công ty chế biến
nông sản Hải Dương, công ty GOC Bắc Giang, Công ty chế biến xuất nhập
khẩu Rau Quả Thanh Hoá hàng năm xuất khẩu hàng nghìn tấn ớt cay đông
lạnh và muối (bảng 1.3)
1.3. Kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch ớt [1], [2], [63], [64]
* Thời vụ
Ớt được trồng quanh năm, tuy nhiên trong sản xuất thường canh tác ớt
vào các thời vụ sau:
- Vụ sớm: Gieo tháng 8-9, trồng tháng 9-10, bắt đầu thu hoạch tháng 12
và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Vụ này ớt trồng trên đất bờ liếp cao không
ngập nước vào mùa mưa. Ớt trồng mùa mưa đỡ công tưới, thu hoạch trong
mùa khô dễ bảo quản, chế biến và thời gian thu hoạch dài, tuy nhiên diện tích
canh tác vụ này không nhiều.
10
- Vụ chính (Đông Xuân): Gieo tháng 10-11, trồng tháng 11-12, bắt đầu
thu hoạch tháng 2-3 năm sau. Trong vụ này cây sinh trưởng tốt, năng suất
cao, ít sâu bệnh.
- Vụ Hè Thu: Gieo tháng 4-5 trồng tháng 5-6 thu hoạch 8-9 dương dịch.
Mùa này cần trồng trên đất thoát nước tốt để tránh úng ngập và chọn giống
kháng bệnh thán thư.
* Chuẩn bị cây con
Lượng hạt giống gieo đủ cấy cho 1.000m
2
từ 15-25 gram (150-160

hạt/g). Diện tích gieo ươm cây con là 250 m
2
. Chọn đất cao ráo hay làm giàn
cách mặt đất 0,5-1 m, lót phên tre hay lá chuối rồi đổ lên trên một lớp đất,
phân, tro dày 5-10 cm rồi gieo hạt. Cách này dễ chăm sóc cây con và ngăn
ngừa côn trùng hoặc gia súc phá hại. Cũng có thể gieo hạt thẳng vào bầu hay
gieo theo hàng trên liếp ươm. Hạt ớt thường nẩy mầm chậm, sau 8 -10 ngày
sau khi gieo mới mọc khỏi đất, cây con cấy vào lúc 30- 35 ngày tuổi, có sử
dụng màng phủ cây con nên cấy sớm lúc 20 ngày tuổi.
* Cách trồng
Đất trồng ớt phải được luân canh triệt để với cà chua, thuốc lá và cà tím.
Trồng mùa mưa cần lên liếp cao vì ớt chịu úng kém. Khoảng cách trồng thay
đổi tùy thời gian dự định thu hoạch trái, nếu ăn trái nhanh (4-5 tháng sau khi
trồng) nên trồng dày, khoảng cách trồng 70 x (45-50) cm, mật độ 2347 - 2381
cây/1.000m
2
; nếu muốn thu hoạch lâu nên trồng thưa, 80 x (50-60) cm, mật
độ 2.000-2.500 cây/1.000m
2
.
* Bón phân
Tùy theo loại đất, mức phân bón trung bình toàn vụ cho 1.000m
2
như sau:
20 kg Urea + 50 kg Super lân + 20 kg Clorua kali + 12 kg Calcium nitrat
+ (50-70) kg 16-16-8 + 1 tấn chuồng hoai + 100 kg vôi bột, tương đương với
lượng phân nguyên chất (185-210N)-(150-180P
2
O
5

)-(160-180K
2
O) kg/ha.
11
Bón lót
Lượng bón 50 kg super lân, 3 kg Clorua kali, 2 kg Calcium nitrat, 10-15
kg 16–16-8, 1 tấn phân chuồng và 100 kg vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước
khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng hoai, lân rãi trên toàn bộ mặt liếp xới trộn
đều.
Bón thúc
Lần 1: 20-25 ngày sau khi cấy (giống thấp cây) và 20 ngày sau khi cấy
(giống cao cây). Số lượng 4 kg Urê, 3 kg Clorua kali, 10 kg 16-16-8 + 2 kg
Calcium nitrat. Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hoặc
đục lỗ màng phủ giữa 2 gốc cây.
Lần 2: 55-60 ngày sau khi cấy, khi đã đậu trái đều.
Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 2 kg
Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc bỏ phân vào lỗ
giữa 2 gốc cây
Lần 3: Khi cây 80-85 ngày sau khi cấy, bắt đầu thu trái.
Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg
Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc bỏ phân vào lỗ
giữa 2 gốc cây
Lần 4: Khi cây 100-110 ngày sau khi cấy, thúc thu hoạch rộ (đối với ớt
sừng dài ngày).
Lượng bón: 4 kg Urê, 4 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg
Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lỗ giữa 2 gốc
cây.
Chú ý:
Ớt thường bị thối đuôi trái do thiếu canxi, do đó mặc dù đất được bón
vôi đầy đủ trước khi trồng hoặc bón đủ Calcium nitrat nhưng cũng nên chú ý

12
phun bổ sung phân Clorua canxi (CaCl
2
) định kỳ 7-10 ngày/lần vào lúc trái
đang phát triển để ngừa bệnh thối đuôi trái
Nếu không dùng màng phủ, nên chia nhỏ lượng phân hơn và bón nhiều
lần để hạn chế mất phân.
Nhằm góp phần tăng năng suất và phẩm chất trái, nhất là trong mùa
mưa có thể dùng phân bón lá vi lượng như MasterGrow, Risopla II và IV,
Miracle, Bayfolan, Miracle phun định kỳ 7-10 ngày/lần từ khi cấy đến 10
ngày trước khi thu hoạch.
* Chăm sóc:
Tưới nước:Ớt cần nhiều nước nhất lúc ra hoa rộ và phát triển trái mạnh.
Giai đoạn này thiếu nước hoặc quá ẩm đều dẫn đến đậu trái ít. Nếu khô hạn
kéo dài thì tưới rảnh (tưới thấm) là phương pháp tốt nhất, khoảng 3-5 ngày
tưới/lần. Tưới thấm vào rãnh tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm
lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt,
không để nước ứ đọng lâu.
Tỉa nhánh:Thông thường các cành nhánh dưới điểm phân cành đều được
tỉa bỏ cho gốc thông thoáng. Các lá dưới cũng tỉa bỏ để ớt phân tán rộng
Làm giàn: Giàn giữ cho cây đứng vững, để cành lá và trái không chạm
đất, hạn chế thiệt hại do sâu đục trái và bệnh thối trái làm thiệt hại năng suất,
giúp kéo dài thời gian thu trái. Giàn được làm bằng cách cắm trụ cứng xung
quanh hàng ớt dùng dây chì giăng xung quanh và giăng lưới bên trong hoặc
cột dây nilong lúc cây chuẩn bị trổ hoa.
* Phòng trị sâu bệnh
Một số sâu, bệnh thường gặp: Bọ trĩ, bọ phấn trắng, sâu xanh đục trái,
sâu ăn tạp, bệnh thán thư…Để phòng trừ hiệu quả cần thực hiện một số biện
pháp sau: cày ải sớm để tiêu diệt nguồn dịch hại trong đất, thu hoạch ớt đúng
13

thời vụ tránh để quả quá lâu, nhất là khi trời mưa, ớt đến giai đoạn thu hoạch,
vệ sinh đồng ruộng, không vứt quả, cây bệnh trên ruộng.
* Thu hoạch: Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt cả cuống
trái, tránh làm gãy nhánh, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần. Nếu chăm sóc
tốt thời gian thu hoạch có thể kéo dài hơn 3 tháng.
1.4. Các nghiên cứu phun chế phẩm lên lá ở trong nước và ngoài nước
Để tăng năng suất cây trồng, các nhà khoa học đã có nhiều cách tiếp cận
khác nhau như lai tạo giống mới, cải tiến các biện pháp kĩ thuật, có chế độ
chăm sóc hợp lí đặc biệt chú ý đến nước, dinh dưỡng cung cấp cho cây
trồng… trong đó có biện pháp sử dụng phân bón qua lá nhằm cung cấp cho
cây trồng các nguyên tố đa lượng, nguyên tố vi lượng, các chất điều hòa sinh
trưởng thực vật [4], [5], [6], [7],[ 8], [12], [13], [15].
Phân bón lá là loại phân bón nhằm cung cấp các nguyên tố cần thiết và
các chất điều hòa sinh trưởng cần thiết cho cây qua bộ lá của chúng, mặc dù
cây trồng vẫn phải được cung cấp đầy đủ các dinh dưỡng từ đất qua bộ rễ. Đất
là một thực thể tự nhiên phức tạp ảnh hưởng đến đời sống của cây qua nhiều
con đường khác nhau. Hệ thống đất - cây là một hệ tương tác phức tạp. Dự trữ
các chất dinh dưỡng ở tầng đất canh tác khác nhau có thể thỏa mãn nhu cầu
của cây. Song trong nhiều trường hợp cây vẫn thiếu dinh dưỡng và bón ít
phân khoáng có thể gây ảnh hưởng tích cực đối với sinh trưởng và năng suất
của cây. Sở dĩ như vậy là vì ngoài trường hợp đất nghèo dinh dưỡng, hàm
lượng tổng số và hàm lượng dinh dưỡng dễ hấp thu (dễ tiêu) của nguyên tố cụ
thể đối với cây không trùng nhau.
Các nguyên tố đại lượng (chiếm từ 10
-1
- 10
-4
% chất khô) là C, H, O,
N, K, Ca, Mg, P, S… các nguyên tố này chiếm 99,95% khối lượng khô của
cây.

14
- Các nguyên tố vi lượng (chiếm từ 10
-5
- 10
-7
% chất khô): Mn, B, Sr,
Cu, Zn, Mo…
- Các nguyên tố siêu vi lượng (chiếm từ 10
-8
- 10
-14
% chất khô): As, I,
Cs, Ge…
Các nguyên tố này được cây trồng hay thực vật hấp thu qua đất là chủ
yếu và được bổ sung từ phân bón do con người thực hiện. Theo các nhà
nghiên cứu, phân bón lá có hiệu lực nhanh, cây trồng sử dụng tới 95% chất
dinh dưỡng, bón qua lá tốt nhất là khi bón thúc, bón bổ sung để cung cấp
nhanh chất dinh dưỡng cho cây trồng.
Như đã biết, các nguyên tố vi lượng đóng vai trò rất quan trọng trong cải
thiện năng suất cây trồng [46]. Theo tác giả Ziaeian và Malakouti (2001) [53]
thì kẽm, đồng và mangan được hấp thụ tăng lên rõ rệt ở đối tượng ngũ cốc và
cây Irit (flag). Các nguyên tố vi lượng giúp sự hình thành diệp lục, axit
nucleic, sinh tổng hợp protein và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của
một số enzym trong quang hợp cũng như một số enzym tham gia vào quá
trình hô hấp của cây [45]. Theo báo cáo của NDFC (1998) để tạo ra 2 tấn sản
lượng ngũ cốc thì một ha ngũ cốc đã lấy đi 34-50g đồng, 232-1219g sắt, 140-
330g mangan và 66-209g kẽm từ đất [40]. Các dẫn liệu phân tích cho thấy
đồng, sắt, kẽm và mangan ở lá của dâu tây và lúa mì tăng lên rõ rệt khi sử
dụng phân bón Hal-Tonic (một loại phân bón cho cây trồng) với liều lượng
khác nhau [31]. Mặc dù chúng ta cung cấp đủ dinh dưỡng NPK cho cây

nhưng chúng ta sẽ không thể thu được năng suất cây trồng tối đa nếu cây
trồng không được cung cấp các nguyên tố vi lượng. Theo tác giả Nataraja
(2006) [39] thì tiềm năng năng suất cây trồng chỉ có thể đạt tối đa khi các
nguyên tố vi lượng được xử lí cho cây trồng cùng với sự có mặt đầy đủ của
các nguyên tố NPK. Tác giả Chaudry và cộng sự (2007) [21] cho rằng có sự
tương quan thuận giữa hàm lượng các nguyên tố vi lượng (kẽm, sắt và bo)
15
được cung cấp cho cây với năng suất của chúng ở đối tượng lúa mì, tác động
kết hợp các nguyên tố này cho hiệu quả cao hơn so với tác động đơn lẻ của
từng nguyên tố [35]. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Nadim M.A (2011)
khi xử lí trên đối tượng lúa mì bằng các nguyên tố vi lượng khác nhau đã cho
thấy bo cải thiện năng suất của cây lúa mì, đồng và mangan có mối quan hệ
thuận với sản lượng của lúa mì [38]. Có thể chỉ ra vai trò của một số nguyên
tố vi lượng như sau: kẽm đóng vai trò rất quan trọng trong rất nhiều quá trình
chuyển hóa trong cây, còn sự thiếu hụt nguyên tố sắt là nguyên nhân gây mất
cân bằng trong chuyển hóa ion đồng và ion mangan. Hàm lượng các nguyên
tố vi lượng trong đất sẽ bị cạn kiệt nếu chế độ canh tác liên tục không hợp lí
mà không được bổ sung thì sẽ ảnh hưởng tới sinh trưởng và năng suất cây
trồng sau đó. Theo Deb và Zeliaing (1975) nghiên cứu trên đối tượng cây lúa
cho thấy không có sự tương quan thuận giữa trọng lượng khô của cây lúa với
việc xử lí ion kẽm hoặc ion sắt. Hàm lượng kẽm của thực vật không bị ảnh
hưởng khi xử lí ion kẽm và ion sắt trong khi đó hàm lượng sắt lại giảm xuống
khi xử lí bằng hai ion này [24]. Theo Chaudhry và Wallace cho rằng trên cây
lúa, ion sắt ức chế hoàn toàn sự hấp thụ ion kẽm [22].
Phun qua lá (Foliar spray) là kĩ thuật được sử dụng rộng rãi trong việc
cung cấp nguyên tố vi lượng đặc biệt là sắt và mangan cho nhiều loại cây
trồng khác nhau. Các loại muối vô cơ tan thường tác động giống như các hợp
chất chelat tổng hợp trong phương pháp phun qua lá này, vì thế các muối vô
cơ được lựa chọn vì giá rẻ hơn so với áp dụng các hợp chất chelat. Nếu phun
qua lá với nồng độ thích hợp thì có thể khác phục được các triệu chứng thiếu

hụt vi lượng ngay trong một vài ngày đầu sau phun. Có hai kĩ thuật thích hợp
dùng trong phun qua lá. Thứ nhất là sử dụng các bình phun tĩnh điện
(electrostatic sprayers), kĩ thuật này giúp phun dung dịch dưới dạng sương mù
làm tăng hiệu quả bám của dung dịch vào cây. Kĩ thuật phun qua lá thứ hai
16
được gọi là Sonic BloomTM, kĩ thuật này sử dụng âm thanh để tăng cường
khả năng hấp thụ dinh dưỡng [26]. Dinh dưỡng qua lá được sử dụng rộng rãi
để cung cấp chính xác các nguyên tố thiếu hụt cho cây mà đất không cung cấp
đủ qua bộ rễ [50]. Những lợi ích của dinh dưỡng qua lá được quan sát ở nhiều
điều kiện khác nhau.
Đã có quan sát thấy rằng các nguyên tố vi lượng giúp tăng năng suất của
nhiều loại cây trồng khác nhau. Khi đất có độ pH cao và các chất hữu cơ thấp,
thì thường xảy ra sự thiếu hụt dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng [51]. Tác
giả Savithri và cộng sự [47] cho rằng năng suất lúa sẽ tăng tối đa khi phun
qua lá dung dịch FeSO
4
1-2%. Tác giả Ali và cộng sự [20] cũng nghiên cứu
trên đối tượng cây lúa cho thấy năng suất đạt cao nhất (6087kg/ha) khi xử lí
đồng thời NPK + Zn
2+
+ Cu
2+
+ Fe
2+
+ Mn
2+
so với xử lí riêng bằng NPK (đạt
4073kg/ha). Tác giả Johnson và cộng sự thông báo rằng khi xử lí nguyên tố vi
lượng làm tăng rõ rệt năng suất lúa gạo. Hơn nữa, theo Sultana và cộng sự
[53] khi phun qua lá dung dịch MnSO

4
trên đối tượng gây thiếu hụt vi lượng
do muối làm tăng hoạt động quang hợp của cây, tăng tích lũy chất khô, tăng
số hoa và tăng năng suất ngũ cốc. Đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng phương
pháp bổ sung nguyên tố vi lượng qua đất và phun qua lá trên cây lúa mì kết
quả là có sự tương quan thuận giữa năng suất lúa mì với hàm lượng nguyên tố
vi lượng được sử dụng[28], [44], [54]. Việc phun qua lá các nguyên tố vi
lượng cho thấy có hiệu quả với so với việc cung cấp nguyên tố vi lượng qua
đất trồng. Phun qua lá bằng nguyên tố Bo vào giai đoạn ra hoa ở cây lúa mì
làm tăng năng suất của chúng, trong khi đó sự thiếu hụt nguyên tố này sẽ ảnh
hưởng đến sự hình thành hạt phấn dẫn đến ảnh hưởng tới năng suất lúa mì
[29]. Nhóm tác giả Khan, M.B (2010) nghiên cứu cũng trên đối tượng lúa mì
về hiệu quả của nguyên tố vi lượng được cung cấp qua chế phẩm Shelter bằng
17
phương pháp phun qua lá cho thấy có sự gia tăng lên về số hạt trên bông,
trọng lượng 1000 hạt, năng suất kinh tế, năng suất sinh học… [32].
Theo nghiên cứu của tác giả Khosa S.S và cộng sự (2011) [33], trên đối
tượng cây hoa cúc đồng tiền Gerbera jamesonii L. khi phun qua lá nguyên tố
đa lượng NPK và nguyên tố vi lượng (Zn, B, Fe và Mn) cho thấy khi phun bổ
sung dinh dưỡng qua lá làm cây ra hoa sớm hơn (khoảng 81,88 ngày) so với
đối chứng không phun bổ sung chất dinh dưỡng qua lá (105,55 ngày), chiều
cao cây, số cành/cây, chiều dài cành/cây, số lá/cây, diện tích lá đều tăng ở các
công thức thí nghiệm so với công thức đối chứng không phun bổ sung nguyên
tố đa lượng và vi lượng qua lá.
Như đã đề cập, phun qua lá là phương pháp tin cậy cho phép bổ sung
dinh dưỡng cho thực vật, ngoài việc thực vật lấy dinh dưỡng chủ yếu từ đất.
Đối với một số yếu tố khoáng ở một vài loại cây trồng thì phun qua lá là cách
tốt nhất để cung cấp dinh dưỡng cho chúng ví dụ như nguyên tố canxi với cây
trồng ăn quả. Tuy nhiên, lá và quả có thể bị cháy nếu nồng độ các chất phun
qua lá quá cao. Ngược lại, nếu nồng độ dung dịch phun quá thấp, thực vật sẽ

không có đủ dinh dưỡng. Thông thường, cây trồng cần các nguyên tố vi lượng
(đây là các nguyên tố được hấp thụ bởi thực vật với một lượng nhỏ) được
cung cấp nhờ phương pháp phun qua lá. Tuy nhiên, đối với các nguyên tố đa
lượng chẳng hạn như nitơ, kali, thì việc phun qua lá không thể cung cấp đủ
cho cây vì đối với những chất này cây cần một lượng lớn. Nguyên tắc là, các
chất vi lượng được dùng ở dạng dung dịch 1% (1kg/100lit) và đối với cây
trồng ngoài đồng ruộng nồng độ dùng thường thấp hơn 1%, còn đối với cây
trồng vườn nhà thường dùng ở nồng độ 0,1%. Đối với các nguyên tố đa lượng
thì thường sử dụng nồng độ cao hơn, dao động từ 5-10% (khối lượng/thể tích)
đối với cây ngoài đồng ruộng, còn rau là 1-2% (1-2kg/100lit) và 0,5% dùng
cho cây ăn quả. Khi phun hai hay nhiều dung dịch dinh dưỡng qua lá để kích
18
thích, có thể sẽ làm giảm hiệu quả mong muốn và nên phun nhắc lại nếu cần
thiết.
Có rất nhiều yếu tố chẳng hạn như nhiệt độ cao, độ dài ngày và độ ẩm
tương đối có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình sinh tổng hợp các hormon (axit
abxixic, gibberellin, cytokinin). Các chất này ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều
quá trình sinh lý trong cơ thể và do đó sẽ hạn chế khả năng sinh trưởng của
thực vật. Ngày nay, việc ứng dụng các chất tổng hợp ngoại sinh có tác dụng
tương tự các phytohormon có thể giúp cây sinh trưởng nhanh do các chất đó
giúp cho các quá trình sinh lý trong cây diễn ra mạnh mẽ. Các hợp chất có tác
dụng kích thích sinh trưởng được tổng hợp trong cây được gọi là
phytohormon và các hợp chất được tổng hợp nhân tạo nhưng có chức năng
tương tự với các phytohormon được gọi là chất điều hòa sinh trưởng thực vật
[34]. Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật giúp đẩy nhanh sinh trưởng và
phát triển và chúng được sử dụng một cách rộng rãi trên nhiều loại cây trồng
quan trọng. Các chất điều hòa sinh trưởng có tác dụng làm cho sản lượng cây
trồng đạt mức tối đa [30]. Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật điều khiển
sự phát triển sinh dưỡng không mong muốn và làm tăng số mầm và có thể
góp phần làm tăng năng suất ở cây trồng.

Chế phẩm Pix (mepiquat chloride) là một chất điều hòa sinh trưởng thực
vật được sử dụng rộng rãi giúp làm tăng năng suất ở cây bông những không
làm ảnh hưởng đến chất lượng sợi [26]. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên
cứu cho rằng hợp chất này làm giảm năng suất cây bông [41]. Các chất điều
hòa sinh trưởng thực vật như Atonik, Recine và Cytozmye làm tăng năng suất
cây bông [42]. Theo tác giả Abro và cộng sự (2004) [10] thông báo rằng
naphthalene làm chậm quá trình thành thục và tăng chiều cao, số chồi và năng
suất ở cây bông.
19
Các nhà sản xuất tạo ra các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thương
mại nhằm tăng năng suất cây trên một đơn vị diện tích, tuy nhiên có một số
vấn đề gặp phải khi lựa chọn chất này về vấn đề hiệu quả của chúng đối với
từng loại cây trồng, do đó cần có thông tin về tính hiệu quả để phổ biến phạm
vi sử dụng một cách rộng rãi.
Chất điều hòa sinh trưởng thực vật (plant growth regulator - PGR) là
các hợp chất hữu cơ, một số là chất dinh dưỡng giúp làm thay đổi các quá
trình sinh lý diễn ra trong cây. PGR được gọi là các chất kích thích sinh học
hoặc chất ức chế sinh học hoạt động ở bên trong tế bào để kích thích hoặc ức
chế hoạt động của các enzym đặc hiệu hoặc hệ thống các enzym giúp điều
hòa trao đổi chất ở thực vật. Chúng thường hoạt động với nồng độ rất thấp
trong cơ thể thực vật.
Nghiên cứu trên đối tượng cây nho, tác giả Mishra và cộng sự (1972)
[37] thông báo rằng khi sử dụng GA
3
với nồng độ 5ppm làm tăng chiều dài
thân leo. Nồng độ GA
3
5, 10, 15ppm và nồng độ NAA 25, 50 và 75ppm ở giai
đoạn 4 và 6 lá thật làm tăng chiều dài thân của cây nho. Tác giả Sidhu và
công sự (1982) [49] sử dụng CCC nồng độ 100ppm và ethrel 250ppm phun có

tác dụng kéo dài chồi chính của cây dưa. Theo tác giả Mangal và cộng sự
(1981) [36] khi sử dụng CCC nồng độ 250ppm làm tăng rõ rệt về chiều cao
cây so với sử dụng CCC nồng độ 500ppm ở cây mướp đắng. Tương tự, khi sử
dụng GA
3
nồng độ 25ppm và NAA nồng độ 50ppm kích thích sự kéo dài của
nho và bầu bí….
Theo tác giả Das và Swain (1977) [23] cho rằng nitơ và chất điều hòa
sinh trưởng làm tăng số lá cũng như diện tích lá của cây bí ngô khi dùng dung
dịch platnofix (100ppm), ethrel (200ppm) và alar (200ppm) ở giai đoạn 10
ngày và 20 ngày sau trồng. Trong khi đó tác giả Singh và cộng sự (1991) [52]
sử dụng hợp chất mixtalol (30ml/10lit) phun qua lá là tăng số lá trên cây
20
bottlegourd. Khi sử dụng GA
3
để tẩm ướt hạt trong 12 giờ sẽ làm tăng số lá
trên cây ở muskmelon [43].
Nghiên cứu theo hướng khác, tác giả Gopalkrishnan và Choudhary
(1978) [27] sử dụng GA
3
ở các nồng độ 25, 50ppm phun qua lá làm tăng
trọng lượng quả. Tác giả Ahmed và cộng sự (1985) phun cycoccel (500ppm)
ở giai đoạn 21 ngày sau khi trồng ở đối tượng khoai tây làm cho hàm lượng
diệp lục a và b tăng cao hơn so với đối chứng. Tương tự, khi sử dụng CCC và
mepiquat chloride ở khoai tây làm tăng hàm lượng diệp lục so với đối chứng
[25], tác giả Siddareddy (1988) [48] quan sát thấy khi phun qua lá chế phẩm
mixtalol (1-2ppm) làm tăng hàm lượng đường khử, hàm lượng đường không
khử, đường tổng số và protein ở quả cà chua. Theo Choudhury và Elkholy
[22] khi phun qua lá GA
3

(10ppm) ở giai đoạn 2 và 4 lá thực trên cây dưa
chuột nhận thấy năng suất quả tăng cao hơn so với đối chứng. Phun CCC qua
lá ở nồng độ (250 và 500ppm) ở giai đoạn 4 lá thực và sau 15 ngày so với
phun lần 1 trên cây mướp đắng cho năng suất cao nhất so với phun axit
abxixic (25ppm) và ethrel (250ppm) và boron (1ppm) [36].
Ở Việt Nam, theo Trần Thị Áng (1996) khi nghiên cứu ảnh hưởng của
phân vi lượng đối với năng suất và phẩm chất một số cây trồng thì: phân vi
lượng đã làm tăng năng suất lúa từ 15 – 20% so với đối chứng, ngô tăng từ 7
– 26%. Hơn nữa phân vi lượng còn làm tăng phẩm chất nông sản, làm hàm
lượng tinh bột tăng 4 – 7%, làm tăng lượng protein tổng số trong hạt ngô VMI
14% [2].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Đính cho thấy phun bổ
sung KCl lên lá cho khoai tây có ảnh hưởng tốt đến các quá trình sinh lí như
trao đổi đổi nước, cường độ quang hợp và năng suất một số giống khoai tây
KT3 và Mariella v.v [5],[6],[7]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Điêu Thị Mai
Hoa, Nguyễn Văn Mã đã khẳng định: phun phân vi lượng dưới dạng chế
21
phẩm Vilado có ảnh hưởng tới khả năng chịu hạn của đậu xanh và cũng
khẳng định khi phun Vilado vào thời kỳ ra hoa và cành có thể làm tăng năng
suất đậu xanh từ 10 – 13%, tăng hàm lượng protein 15 – 35% [8]. Theo
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Minh (2011) về hiệu lực của molypden
tẩm vào hạt và phun trên lá cây đậu xanh cho thấy: khi sử dụng ở các nồng độ
1, 5, 10, 20mg/l Mo tẩm vào hạt làm tăng đáng kể tỷ lệ nảy mầm của đậu
xanh, còn khi sử dụng dung dịch bổ sung molypden phun qua lá ở các giai
đoạn 7 lá, 9 lá, ra hoa và tạo quả đều làm tăng chiều cao cây, tăng diện tích lá,
giảm cường độ thoát hơi nước, tăng khả năng giữ nước, tăng hàm lượng diệp
lục, năng suất quang hợp thuần túy ở cây đậu xanh [12], [13].
Trên đối tượng cây dâu, nghiên cứu của tác giả Trần Thị Ngọc (2011)
đã tiến hành thí nghiệm phun chế phẩm bón lá Pomior lên cây dâu với 3
ngưỡng nồng độ 0,4%; 0,5%; 0,6% và khoảng cách giữa 2 lần phun là 10

ngày. Kết quả thí nghiệm cho thấy: Chếphẩm Pomior đã có tác dụng làm tăng
khả năng sinh trưởng của cây dâu, từ đó tăng năng suất lá dâu từ 18,73% đến
44,95% ở vụ xuân hè và 12,41% đến 55,11% ở vụ hè thu. Chế phẩm Pomior
cũng có tác dụng làm tăng chất lượng lá dâu qua kết quả nuôi tằm, làm tăng
năng suất kén tằm từ 9,59% đến 16,67% ở vụ xuân hè và 10,51% đến 27,17%
ở vụ hè thu. Trong các nồng độ thí nghiệm thì kết quả cao nhất ở nồng độ
0,6%; tiếp là nồng độ 0,5%; cuối cùng là nồng độ 0,4 % [14].







22
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng
* Trong đề tài này chúng tôi sử dụng 2 giống ớt: Red chili (F1) và Pat 34
do Trung tâm giống cây trồng Vĩnh Phúc cung cấp.
- Giống Pat 34 (Big hot P34) Thời kỳ cây con cây sinh trưởng mạnh
khả năng phân cành cao, tốc độ phân cành mạnh, ra hoa tập trung, tỷ lệ đậu
quả cao. Trọng lượng quả 20gram/quả, chiều dài trung bình 16-18 cm, đường
kính 2- 2,5 cm, vỏ quả dày, màu sắc đẹp, năng suất trái đạt 3-4 tấn/1.000 m
2
.
Khả năng thích ứng tốt trong điều kiện thời tiết bất lợi. Kháng sâu bệnh tốt,
đặc biệt kháng bệnh thán thư trái.
- Giống Red chili (F1): quả dài 4 - 6 cm, đầu nhọn, khi chín có màu đỏ
tươi, cây có thể sống 5 - 6 tháng, nếu trồng hốc có thể kéo dài 2 - 3 năm.

Năng suất đạt 400 - 500 kg quả/sào.
* Chế phẩm Atonik 1.8DD (KTRL) [64] là hợp chất kích thích sinh
trưởng cây trồng sử dụng trên lúa, cây ăn trái và hoa cảnh. Do công ty ADC -
101 Phan Đình Phùng - TP Cần Thơ sản xuất.
Thành phần: hợp chất nitro thơm: 1.8g/l . Gồm các nhóm sau: Sodium -
S- nitrogualacolate 0,3%, Sodium - O- Nitrophenolale 0,6%, Sodium- P-
Nitrophenolate 0,9%
Hướng dẫn sử dụng: lượng dùng 150-200ml/ha (trong khoảng 500-
1000 lít nước).
Atonik 1,8DD rất an toàn với cây trồng cũng như con người và động vật.
Atonik 1,8DD có thể phối hợp với các loại nông dược khác. Trong trường
hợp phun lá, hiệu lực của Atonik 1,8DDsẽ được tăng thêm khi hoà thêm các
chất có khả năng bám dính.

23
Công dụng:
Atonik 1,8DDlà thuốc kích thích sinh trưởng cây trồng thế hệ mới. Cũng
như các loại vitamin, Atonik 1,8DD làm tăng khả năng sinh trưởng đồng thời
giúp cây trồng tránh khỏi những ảnh hưởng xấu do những điều kiện sinh
trưởng không thuận lợi gây ra.
Atonik 1,8DDcó tác dụng làm tăng khả năng ra rễ, nẩy mầm, tăng khả
năng ra chồi mới sau khi thu hoạch. Ngoài ra Atonik 1,8DDcũng làm tăng khả
năng sinh trưởng, ra hoa đậu quả của các loại cây trồng. Đặc biệt là làm tăng
năng suất và chất lượng nông sản.
Kích thích sự nảy mầm và ra rễ, phá vỡ trạng thái ngủ nghỉ của hạt
giống. Phun tưới trên ruộng mạ, cây con: làm cho cây mạ, phát triển khoẻ
mạnh, phục hồi nhanh chóng sau khi trồng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh ngoài đồng

ruộng với 3 lần nhắc lại. Diện tích mỗi ô thí nghiệm 50m
2
.
+ Công thức đối chứng (ĐC): không phun chế phẩm kích thích ra lá
Atonik 1.8 DD.
+ Công thức thí nghiệm (TN):
- Phun chế phẩm kích thích ra lá Atonik 1.8 DD khi cây được 7- 8 lá
thật.
2.2.2. Phương pháp xác định chỉ tiêu nghiên cứu
- Xác định sự sinh trưởng của cây
+ Đo chiều cao cây (cm): chiều cao cây được đo từ gốc (nơi có rễ đầu
tiên) đến ngọn bằng thước. Mỗi công thức đo 30 cây ngẫu nhiên vào các thời
điểm sau khi phun 5, 10, 15, 20 ngày.
24
+ Số cành cấp 1 của cây: đếm số cành trực tiếp từ thân chính. Mỗi công
thức đếm 30 cây ngẫu nhiên vào các thời điểm sau khi phun 5, 10, 15, 20
ngày.
+ Diện tích lá được xác định bằng máy chuyên dụng AreaMeterAM 200
(do hãng ADC cung cấp).
+ Đường kính thân được đo bằng thước kỹ thuật. Mỗi công thức đếm 30
cây ngẫu nhiên vào các thời điểm sau khi phun 5, 10, 15, 20 ngày.
- Xác định các chỉ tiêu quang hợp
+ Xác định hàm lượng diệp lục tổng số trong lá:
Đo hàm lượng diệp lục tổng số trên máy chuyên dụng OPTI -
SCIENSCES, sản xuất tại Mỹ, model CCM - 200.
Đặc điểm: là máy đo diệp lục cầm tay, hoạt động bằng pin, đo hàm
lượng diệp lục tổng số của lá, đơn vị mg/cm
2
lá. Nguyên tắc hoạt động của
máy: diệp lục hấp thụ ánh sáng ở 2 vùng xanh (blue) và đỏ (red). Nhưng

không hấp thụ ánh sáng xanh lá cây (green) hoặc ánh sáng đỏ xa (hồng
ngoại). Bằng việc xác định được nguồn năng lượng hấp thụ được ở vùng đỏ
có thể ước tính được hàm lượng diệp lục có trong mô lá.
Cách đo: kẹp lá vào buồng đo đồng thời ấn nhẹ đến khi máy phát ra tín
hiệu âm thanh, khi đó đọc kết quả hiện trên màn hình. (Mỗi công thức đo 30
mẫu ngẫu nhiên)
+ Phương pháp xác định chỉ tiêu huỳnh quang diệp lục
Ánh sáng bức xạ có bước sóng từ 400 - 700nm cung cấp năng lượng sơ
cấp rất cần thiết cho quá trình quang hợp. Gần như ánh sáng nhận được bởi lá
được hấp thụ cho quá trình sinh hóa. Tuy nhiên, một tỉ lệ nhỏ của ánh sáng
bức xạ trở lại được phát ra từ các trung tâm phản ứng với bức sóng dài hơn
được gọi là huỳnh quang diệp lục.
25
Huỳnh quang diệp lục được đo trên máy Chlorophyll fluorometer OS -
30 (ADC, Anh). Thời gian ủ tối là 10 phút để các trung tâm phản ứng ở trạng
thái “mở” hoàn toàn hay toàn bộ chất nhận điện tử đầu tiên trong mạch vận
chuyển quang hợp - Quinon A (Q
A
) ở trạng thái oxi hóa.
Máy đo xác định các chỉ tiêu:
F
0
- Cường độ huỳnh quang ổn định, F
0
phản ánh sự mất đi năng lượng
kích thích bằng bức xạ trong khoảng thời gian vận chuyển chúng về tâm phản
ứng PSII ở trạng thái “mở”.
F
m
- Cường độ huỳnh quang cực đại, F

m
đo được khi các tâm phản ứng
PSII ở trạng thái “đóng”, khi đó Q
A
bị khử.
F
vm
- Hiệu suất huỳnh quang biến đổi, F
vm
phản ánh hiệu quả sử dụng
năng lượng ánh sáng trong phản ứng quang hóa, được xác định như sau:
F
vm
=
m
v
F
F
=
m
m
F
FF
0


Lá chọn để do thuộc cùng một tầng lá (lá thứ 3 tính từ ngọn xuống), đây
là tầng lá được đánh giá có hoạt động sinh lí, sinh hóa mạnh nhất.
- Xác định các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cụ thể
* Số quả/cây: đếm trực tiếp số quả thu được ở mỗi lần thu hoạch ở 30

cây.
* Khối lượng quả/cây được cân bằng cân kỹ thuật Satorius ở các lần thu
hoạch sau đó cộng tống số.
* Năng suất thực thu được xác định trực tiếp bằng cách cân số quả thu
hoạch trên các ô thí nghiệm sau đó qui đổi (kg/360 m
2
)
- Xác định hàm lượng một số chất trong quả như vitamin A, vitamin C,
β-caroten, đường khử tổng số tại Trung tâm Phân tích và Giám định thực
phẩm quốc gia - Viện công nghiệp thực phẩm

×