Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở dê nuôi tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên và đề xuất biện pháp phòng chống.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.8 KB, 62 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



TRẦN NAM HẢI



Tên đề tài:

“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO ẤU TRÙNG
CYSTICERCUS TENUICOLLIS GÂY RA Ở DÊ NUÔI TẠI HUYỆN PHỔ
YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG”



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Chăn nuôi - Thú y
Khoa : Chăn nuôi - Thú y
Khóa học : 2010 - 2014


THÁI NGUYÊN – 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




TRẦN NAM HẢI



Tên đề tài:

“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO ẤU TRÙNG
CYSTICERCUS TENUICOLLIS GÂY RA Ở DÊ NUÔI TẠI HUYỆN PHỔ
YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG”



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Chăn nuôi - Thú y
Khoa : Chăn nuôi - Thú y
Lớp : 42 - CNTY - N01
Khóa học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Văn Quang
Giảng viên khoa Chăn nuôi Thú y
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên


THÁI NGUYÊN – 2014
LỜI CẢM ƠN


Trong suốt thời gian nghiên cứu, để hoàn thành khóa luận của mình,
em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Chăn nuôi thú y và các cán
bộ kỹ sư trạm thú y huyện Phổ Yên. Em cũng nhận được sự cộng tác nhiệt
tình của các bạn đồng nghiệp, sự giúp đỡ, cổ vũ động viên của người thân
trong gia đình.
Nhân dịp này em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
TS. Nguyễn Văn Quang và NCS. Nguyễn Thu Trang đã rất tận tình và trực
tiếp hướng dẫn em thực hiện thành công khóa luận này.
Em xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm đã tạo điều kiện
thuận lợi và cho phép em thực hiện khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các cán bộ kỹ sư trạm thú y
huyện Phổ Yên về sự hợp tác giúp đỡ bố trí thí nghiệm, theo dõi các chỉ tiêu
và thu thập số liệu làm cơ sở cho khóa luận này.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng
bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên em trong suốt thời gian hoàn thành
khóa luận.

Em xin trân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên



Trần Nam Hải






LỜI NÓI ĐẦU

Với phương châm “Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn sản
xuất”, trong mục tiêu đào tạo của nhà trường, ngoài việc cung cấp kiến thức còn
phải tạo cơ hội cho sinh viên rèn luyện kỹ năng và thái độ nghề nghiệp.
Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình
đào tạo của tất cả các trường Đại học nói chung và Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên nói riêng. Thực tập tốt nghiệp chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối
với mỗi sinh viên trước khi ra trường.
Thực tập là thời gian giúp cho sinh viên củng cố và hệ thống lại toàn bộ
kiến thức, rèn luyện tay nghề, học hỏi phương pháp quản lý và làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học để khi ra trường trở thành người cán bộ kỹ thuật
có trình độ chuyên môn vững vàng, quản lý giỏi, nắm được các phương pháp tổ
chức và tiến hành nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Xuất phát từ mục tiêu đó, theo sự phân công của Nhà trường, của Ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sự
đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Quang và sự tiếp nhận của
cơ sở, em đã về thực tập tại Trạm Thú y huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên từ
ngày 9/12/2013 đến ngày 31/5/2014 để thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc
điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở dê nuôi tại
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên và đề xuất biện pháp phòng chống”.
Do lần đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và thực tiễn
sản xuất, thời gian thực tập ngắn, trình độ chuyên môn còn hạn chế nên bản
khóa luận này của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để đề tài của
em được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!






DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê tại 3
xã thuộc huyện Phổ Yên 33
Bảng 4.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê theo
tuổi 35
Bảng 4.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis 36
Bảng 4.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis 37
Bảng 4.5. Thành phần và sự phân bố các loài sán dây ký sinh ở chó nuôi tại 3
xã thuộc huyện Phổ Yên 39
Bảng 4.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó tại 3 xã
thuộc huyện Phổ Yên 40
Bảng 4.7. Tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó và
tỷ lệ nhiễm ấu trùng

Cysticercus tenuicollis ở dê 42
Bảng 4.8. Hiệu lực của thuốc tẩy sán dây trên chó 44


















DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 4.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê tại 3 xã
thuộc huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 34
Hình 4.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê theo tuổi
36
Hình 4.3 Biểu đồ tỷ nhiễm ấu trùng Cysticercus te nuicollis ở dê theo tính
biệt 37
Hình 4.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê theo tháng
38
Hình 4.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó tại 3 xã thuộc
huyện Phổ Yên 41
Hình 4.6. Đồ thị tương quan tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó và
tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê 43



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT



% : Tỷ lệ phần trăm

≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng
< : Nhỏ hơn
> : Lớn hơn
cs : Cộng sự
KCTG : Ký chủ trung gian
NCS : Nghiên cứu sinh
Nxb : Nhà xuất bản
TT : Thể trọng
STT : Số thứ tự
















MỤC LỤC

Phần 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2

1.3. Mục đích nghiên cứu 2
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
1.4.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
1.5. Những đóng góp mới của đề tài 3
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
2.1.1. Đặc điểm của ấu trùng Cysticercus tenuicollis. 4
2.1.2. Đặc điểm sinh học của sán dây ký sinh ở chó 4
2.1.3. Đặc điểm dịch tễ học bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis và
bệnh do sán dây chó gây ra 16
2.1.4. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra 19
2.1.5. Chẩn đoán bệnh do ấu trùng Cysticercus teniucollis và bệnh do sán
dây chó gây ra 21
2.1.6. Phòng và trị bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra 22
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 23
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 23
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 25
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 27
3.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu 27
3.2. Nội dung nghiên cứu 28
3.2.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis
gây ra ở dê nuôi tại một số xã thuộc huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 28
3.2.2.Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra cho dê 28
3.3. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu 28
3.3.1. Bố trí điều tra và phương pháp xác định tình hình nhiễm ấu trùng
Cysticercus tenuicollis ở dê 28

3.3.2. Bố trí điều tra và phương pháp xác định tình hình nhiễm sán dây ở chó 29
3.4. Phương pháp xử lý số liệu 32
Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33
4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra ở dê tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 33
4.1.1. Tình hình nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê tại huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 33
4.1.2. Nghiên cứu mối tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia
hydatigena ở chó và tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở dê tại
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 39
4.2.Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra cho dê 43
Phần 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 46
5.1.Kết luận 46
5.2. Tồn tại 46
5.3. Đề nghị 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48




1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh sán dây là một bệnh rất phổ biến ở đàn chó nước ta. Ấu trùng một
số loài sán dây ký sinh và gây bệnh ở người và một số loài gia súc khác - ký
chủ trung gian của sán dây, gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi cũng
như sức khoẻ con người. Một trong những loài ấu trùng đó là Cysticercus
tenuicollis. Đây là ấu trùng của sán dây Taenia hydatigena, gây bệnh ở lợn,

dê, cừu, trâu, bò, thỏ, ngựa đôi khi cả ở người.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2011) [7] cho biết ấu trùng Cysticercus
tenuicollis ký sinh trên bề mặt các khí quan trong xoang bụng của vật chủ và
gây bệnh. Ấu trùng là những bọc nước có kích thước to, nhỏ không đều nhau
bám ở bề mặt màng treo ruột, lách, gan, thận, phổi Vì thế, trong quá trình
giết mổ, có thể khó phát hiện, dễ nhầm lẫn ấu trùng với các bọc nước bình
thường làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh cho người và gia súc.
Theo Phạm Sỹ Lăng (2002) [9], bệnh phân bố ở khắp các vùng, đặc
biệt là những nơi nuôi nhiều chó và giết mổ gia súc bừa bãi, không kiểm soát
vệ sinh chặt chẽ. Tỷ lệ nhiễm bệnh tăng dần theo tuổi do thời gian và cơ hội
tiếp xúc với ấu trùng tăng dần.
Khi bị nhiễm ấu trùng, vật chủ có thể có một số triệu chứng như gầy
yếu dần, đau bụng, bụng căng to, ấn vào vùng bụng có cảm giác bị đau, nếu
nhiễm nặng có thể hoàng đản da và niêm mạc. Vật chủ có thể chết do thiếu
máu, nội quan bị huỷ hoại hoặc do các bệnh kế phát.
Hiện nay, bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis hay còn gọi là bệnh
ấu sán cổ nhỏ chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu chỉ điều trị triệu chứng.
Ngoài ra, việc chẩn đoán bệnh đối với vật chủ sống rất khó khăn do đặc điểm
dịch tễ và triệu chứng bệnh không điển hình, giống một số bệnh ký sinh trùng
khác. Đặc biệt, không thể xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng bằng cách xét nghiệm
phân do ấu trùng ký sinh tại bề mặt các khí quan trong cơ thể. Đối với vật chủ
sống, có thể chọc dò dịch xoang ngực và bụng để xác định nhưng rất khó thực
hiện, có thể nguy hiểm cho vật chủ.
2
Những năm gần đây, tình hình chăn nuôi chó tại tỉnh Thái Nguyên phát
triển mạnh, cả chó nuôi lấy thịt và chó cảnh. Tuy nhiên, chó nuôi thường thả
rông, nếu bị mắc sán dây thì rất dễ phát tán mầm bệnh, lây lan cho người và
các vật nuôi khác. Đặc biệt, việc giết mổ chó cũng như các loài gia súc khác
tại tỉnh Thái Nguyên vẫn chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng giết mổ
bừa bãi còn phổ biến khiến nguy cơ lây nhiễm bệnh ấu sán cổ nhỏ là khá cao.

Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi mong muốn tiến hành đề tài:
"Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây
ra ở dê nuôi tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên và đề xuất biện pháp
phòng chống".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tình hình nhiễm ấu trùng Cysicercus tenuicollis ở dê nuôi tại
huyện Phổ Yên, mối tương quan giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus
tenuicollis ở dê và tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Xác định được biện pháp phòng chống bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra ở dê hiệu quả và phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên từ đó xây dựng được quy trình phòng chống bệnh
đạt hiệu quả cao.
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ
bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở dê nuôi tại huyện Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên về quy trình phòng chống bệnh hiệu quả, có một số đóng
góp mới cho khoa học.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi áp
dụng quy trình phòng, trị bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra,
nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm, hạn chế thiệt hại do bệnh gây ra đối
với dê.

3
1.5. Những đóng góp mới của đề tài
- Là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm dịch tễ và
biện pháp phòng trị bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra cho dê ở
tỉnh Thái Nguyên.

- Xây dựng quy trình phòng, trị bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra cho dê có hiệu quả, khuyến cáo và áp dụng rộng rãi tại các
nông hộ chăn nuôi dê.
























4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Đặc điểm của ấu trùng Cysticercus tenuicollis.
Theo Johannes Kaufmann (1996) [26], ấu trùng Cysticercus tenuicollis
ký sinh ở bề mặt gan, mỡ màng chài ở khoang bụng của cừu và gia súc. Gia súc
nhiễm ấu sán thường không có biểu hiện triệu chứng bệnh, trừ khi nhiễm một
số lượng lớn ấu trùng ở nhu mô gan, tình trạng thiếu máu và chết có thể xảy ra.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11], ấu trùng Cysticercus tenuicollis
là những dạng hình túi có cổ mỏng, kích thước 8 – 80 x 8 – 100 mm, chứa
dịch bên trong. Thành bên trong túi có một đầu sán dây có cổ.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [5], cho biết, ấu trùng Cysticercus
tenuicollis là một bọc có kích thước to nhỏ khác nhau, có thể bằng hạt đậu, quả
cam hoặc quả bưởi, trong bọc có nhiều nước. Có một đầu sán bám vào màng
trong của bọc, đầu sán có 4 giác bám, có 29 – 44 móc.
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [2], cho biết: căn bệnh là ấu trùng
Cysticercus tenuicollis ký sinh ở gan, màng mỡ chài, màng treo ruột, lách của
lợn, dê, cừu, bò, hươu, đôi khi thấy ở ngựa, người. Kích thước ấu trùng khác
nhau, có khi bằng hạt đậu, quả cam, hoặc to hơn, có hình bọc, bên ngoài là
mô liên kết, bên trong chứa thể dịch trong và một đầu sán trưởng thành, lộn ra
phía ngoài. Ở những vùng nuôi nhiều chó tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus
tenuicollis ở trâu, bò, dê, lợn càng nhiều. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng tăng dần theo
tuổi, điều này được các tác giả lý giải do thời gian tiếp xúc với căn bệnh tăng.
Tình hình nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis của lợn và các động vật
khác phụ thuộc vào số chó nhiễm sán trưởng thành. Lợn nuôi gần với chó dễ
nhiễm ấu trùng hơn, còn trâu, bò thả trên bãi chăn nhiễm ít hơn.
2.1.2. Đặc điểm sinh học của sán dây ký sinh ở chó
2.1.2.1. Vị trí của sán dây chó trong hệ thống phân loại động vật học
Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3], cho biết: so với các nhóm giun sán khác thì
sán dây ít được nghiên cứu hơn, nên những hiểu biết về thành phần loài sán
dây còn chưa được đầy đủ.

5
Việc nghiên cứu sán dây ở Việt Nam được bắt đầu từ hơn 1 thế kỷ trước.
Năm 1870, Cande J. lần đầu tiên mô tả loài sán dây Diphyllobothrium latum tìm
thấy ở người Nam Bộ (Việt Nam). Sau đó 10 năm mới xuất hiện các công trình
nghiên cứu lẻ tẻ về một vài loài sán dây gây bệnh cho người. Từ đó, việc nghiên
cứu về thành phần sán dây ở người được chú ý hơn, rồi mở rộng phạm vi nghiên
cứu sang một số động vật nuôi và một số động vật hoang dã.
Năm 1914, Casaux đã phát hiện được ở gan người hai nang sán Cysticercus
tenuicollis của loài sán Taenia hydatigena ký sinh ở chó.
Năm 1925, Houdemer tiến hành nghiên cứu ký sinh trùng ở thú nuôi và
thú hoang Bắc Bộ cũng phát hiện thấy ấu trùng Cysticercus tenuicollis và loài
sán Dipylidium caninum, đồng thời tác giả đã bổ sung thêm các loài trong đó
có loài Taenia hydatigena và Taenia pisiformis.
Năm 1963, Trịnh Văn Thịnh đã có công trình tổng kết được hầu hết
những nghiên cứu trước đó, trong đó tác giả đã đề cập đến ấu trùng Coenurus
cerabralis của loài sán dây Multiceps multiceps ở cừu.
Năm 1967, hai nhà ký sinh trùng học người Ba Lan là Drozdz và
Malczewski đã công bố các loài sán dây ở động vật nhai lại 8 tỉnh miền Bắc,
trong đó có ấu trùng Cysticercus tenuicollis của loài Taenia hydatigena.
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], đã mổ khám 174 cá thể thuộc 21 loài của bộ ăn thịt,
kết quả cho thấy, trong các loài mèo rừng, cầy giông, cầy hương, cầy lỏn và chó nhà
được mổ khám phát hiện thấy các loài Taenia hydatigena, Taenia pisifomis, Multiceps
multiceps, Spirometra erinacei-europaei, Dipylidium caninum.
Cho đến nay các hệ thống phân loại sán dây đã trải qua nhiều thay đổi, song
dường như vẫn chưa được thống nhất và ổn định (Nguyễn Thị Kỳ, 2003 [4]).
Faust E. C. và cs (1929) [23], đã lập nên một phân giống là Spirometra
trong giống Diphyllobothrium. Mueller (1935) [27], đã mô tả loài
Diphyllobothrium mansonoides trên mẫu vật tìm được từ chó và mèo ở vùng
Syracus (New York). Đến năm 1937 Muller đề xuất giống Spirometra và
thống nhất đổi tên loài Diphyllobothrium mansonoides thành loài Spirometra

mansonoides.
Rudolphi (1918) đã phát hiện ấu trùng của sán dây loài Spirometra
ericnaice trên loài nhím ở châu Âu. Faust E. C. và cs (1929) [23], cũng đã
6
phát hiện ấu trùng loài này trên nhím ở Trung Quốc và dạng sán trưởng thành
ở chó. Khi nghiên cứu về hệ enzym của loài Spirometra erinacei ở Nhật Bản
và ở Australia, Fukumoto S. và cs (1992) [24] nhận xét rằng hai loài sán này
là giống nhau.
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [18], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3],
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11], Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], hệ thống phân loại
sán dây của Việt Nam đã lựa chọn hệ thống phân loại của Schulz và Gvozdev
(1970), để sắp xếp các loài sán dây phát hiện được ở người, chim, thú nuôi và
hoang dại ở Việt Nam. Trong đó, sán dây ký sinh ở chó có vị trí như sau:
Ngành sán dẹp (Plathelminthes)
Lớp Cestoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Eucestoda Southwell, 1930
Bộ Pseudophyllidea Carus, 1863
Họ Diphylloborthriidae Luhe, 1910
Giống Spirometra Mueller, 1937
Loài Spirometra erinacei-europaei
(Rudolphi, 1819) Mueller, 1937
Loài Spirometra mansonoides
(Mueller, 1935) Mueller, 1937
Bộ Cyclophyllidea Beneden in Braun, 1900
Phân bộ Hymenolepidata Skrjabin, 1940
Họ Dipylidiidae Mola, 1929
Giống Dipylidium Leuckart, 1863
Loài Dipylidium caninum Leuckart,1758
Phân bộ Tta Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Taeniidae Ludwig, 1886

Giống Taenia Linnaeus, 1758
Loài Taenia hydatigena Pallas, 1766
Loài Taenia pisiformis Bloch, 1780
Giống Echinococcus Rudolphi, 1801
Loài Echinococcus granulosus Batsch1786
Giống Multiceps Goeze, 1782
7
Loài Multiceps multiceps Leske, 1780.
Phân bộ Mesocestoidata Skrjabin, 1940
Họ Mesocestoididae Perrier, 1897
Giống Mesocestoides, Wailand, 1863
Loài Mesocestoides lineatus Goeze,1782
Nhiều tác giả như Phan Thế Việt và cs (1977) [18], Nguyễn Thị Kỳ (1994)
[3], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11], khi đề cập về thành phần loài sán dây ký
sinh trên chó ở nước ta đều thống nhất rằng, các loài sán dây ký sinh ở chó đã tìm
thấy ở Việt Nam gồm: Diphyllobothrium mansoni, Diphyllobothrium reptans,
Dipylidium caninum, Taenia hydatigena, Taenia pisiformis, Multiceps multicep,
Echinococcus granulosus, Mesocestoides lineatus.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [5], tính đến thời điểm hiện tại,
người ta đã biết hơn 30 loài sán dây ký sinh ở loài ăn thịt gây bệnh cho chó,
mèo. Chúng đều thuộc bộ Cyclophyllidea và Pseudophyllidea.
Kết quả tổng hợp của Phạm Sỹ Lăng (2002) [8], cho biết, đến nay đã
phát hiện được 8 loài sán dây ký sinh trên chó ở miền Bắc Việt Nam.
Việc mô tả hình thái các loài sán dây này còn có nhiều thiếu sót, một số
loài chưa có mô tả trên mẫu vật Việt Nam. Cande J. (1870) là người đầu tiên
mô tả loài sán dây Diphyllobothrium latum tìm thấy ở người (Nam Bộ). Sau
này một số nhà ký sinh trùng học Việt Nam (Đỗ Dương Thái, Đặng Văn Ngữ,
1970; Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1976) cho rằng, loài thuộc giống
Diphyllobothrium ký sinh ở người Việt Nam không phải là Diphyllobothrium
latum mà là loài Diphyllobothrium mansoni. Sự phán đoán này không dựa trên

mẫu nên không có sự mô tả loài. Theo Yamaguti (1959), loài Diphyllobothrium
mansoni là tên đồng vật của loài Spirometra erinacei-europaei thuộc giống
Spirometra (họ Diphyllobothriidae).
Joyeux và Houdemer (1928), Nguyễn Thị Kỳ (1977), đã thống kê ở
mèo nhà, cầy, chó Hà Nội có loài Diphyllobothrium reptans. Theo Yamaguti
(1959), loài này thuộc giống Spirometra.
Theo tài liệu mới nhất về họ Diphyllobothiidae của các tác giả
Delaimure S. L., Skrjabin A. S., Serdukov A. M. (1985), Diphyllobothrium
mansoni không là tên đồng vật của một loài nào trong họ này. Khi nói về lịch
8
sử nghiên cứu loài Diphyllobothrium latum, các tác giả còn cho rằng, loài
Spirometra erinacei-europaei của vùng nam bán cầu là một định dạng sai lầm
và cho rằng chính loài này là Diphyllobothrium latum. Tuy nhiên, các tác giả
có ý định xem xét vị trí phân loại của giống Spirometra Mueller, 1937 và
muốn coi giống này là giống chuẩn để thành lập họ Spirometridae (dẫn theo
Nguyễn Thị Kỳ, 2003 [4]).
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], cho biết: ở Việt Nam, hiện loài
Diphyllobothrium mansoni, Diphyllobothrium reptans còn chưa rõ vị trí phân
loại và không có mẫu. Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], đã xem xét lại toàn bộ vị trí
phân loại và tình trạng mẫu, tình hình nghiên cứu về từng loài, đã tu chỉnh 1
loài Spirometra erinacei- europaei (Rudolphi, 1819) Mueller, 1937.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 40 loài sán dây gây bệnh cho chó và
các thú ăn thịt thuộc họ chó mèo (Vương Đức Chất và cs, 2004 [1]).
2.1.2.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây chó
Phan Thế Việt và cs (1977) [18], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3], Nguyễn
Thị Lê và cs (1996) [11], Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4] cho biết:
Sán dây chó có những đặc điểm của lớp sán dây nói chung: hình dải
băng màu trắng hoặc trắng ngà. Cơ thể dài, dẹp theo hướng lưng bụng, chia
thành ba phần: đầu, cổ, thân (gồm những đốt sau cổ, có hình dạng và cấu tạo
khác nhau).

Đầu sán dùng để bám vào thành ruột vật chủ, nên có những hình dạng,
kích thước và các cơ quan bám đặc trưng. Chiều rộng của đầu thường chỉ nhỏ
hơn 1 mm, nhưng cũng có sán có đầu dài vài mm. Cơ quan bám nằm trên đầu
bao gồm rãnh bám hoặc giác bám, mõm, vòi và có nhiều móc. Ở một số loài sán
dây trên móc bám có các móc bé xếp thành nhiều hàng. Giác bám là bộ phận đặc
trưng của sán dây bậc cao. Móc bám nằm ngay trên đầu hay ở phần cuối vòi, sắp
xếp thành một hay hai hàng. Số lượng móc ở các nhóm sán dây dao động từ vài
móc đến vài trăm móc. Ít khi vòi thiếu móc. Kích thước, cấu tạo và số lượng
móc cố định cho mỗi loài.
Cổ là những đốt sán nối tiếp sau đầu. Đốt cổ của sán dây là đốt sinh
trưởng, từ các đốt cổ sinh ra các đốt thân, cơ quan sinh sản ở các đốt cổ chưa
hình thành rõ.
9
Thân sán dây lại gồm ba loại đốt: những đốt chưa thành thục về sinh
dục (ở gần cổ), cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ, chỉ thấy cơ quan sinh
dục đực. Những đốt thành thục về sinh dục (ở giữa thân), cơ quan sinh dục
trong những đốt sán này đã phát triển đầy đủ, có đủ cả bộ phận sinh dục đực
và cái, có hệ bài tiết, cấu tạo mỗi đốt tương tự như mỗi cơ thể sán lá, nhưng
khác sán lá là không có hệ tiêu hoá. Những đốt già (ở cuối thân sán), bên
trong đốt sán chứa đầy tử cung với vô số trứng sán dây. Ở những đốt già, bộ
phận sinh dục đực bị thoái hoá. Những đốt già thường xuyên được rời khỏi cơ
thể sán và theo phân ra ngoài (đặc điểm này thấy ở những loài sán dây thuộc
bộ Cyclophyllidea).
Chiều dài của sán dây chó dao động từ 0,5 mm đến hàng chục mét. Cơ
thể sán dây phủ lớp tiểu bì, đến lớp hạ bì, rồi đến lớp cơ vòng, cơ dọc. Phần
bên trong chứa đầy nhu mô. Bên trong lớp cơ là các khí quan của sán. Sán
dây chó cũng giống các sán dây khác ở đặc điểm không có hệ tiêu hóa, sán
lấy thức ăn bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.
Hệ thần kinh ở sán dây kém phát triển, gồm có hạch thần kinh trung ương
nằm ở trên đầu, từ đó có các dây thần kinh chạy dọc cơ thể. Có hai dây phát triển

hơn nằm bên ngoài ống bài tiết và mỗi đốt nối với nhau bởi các cầu nối ngang.
Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp tiêu giảm. Hô hấp theo kiểu yếm khí.
Hệ bài tiết của sán dây cấu tạo theo kiểu nguyên đơn thận, gồm 2 ống
chính từ đầu sán đi về cuối thân và thông với lỗ bài tiết. Ngoài ra, ở mỗi đốt
sán còn có những ống ngang nối liền với 2 ống chính.
Hầu hết các loài sán dây là lưỡng tính: Trong mỗi đốt thường có một hệ
sinh dục (gồm một cơ quan sinh dục đực và một cơ quan sinh dục cái) phát
triển ở các giai đoạn khác nhau, ít khi có hai hệ sinh dục hoặc hơn. Sự phát
triển của hệ sinh dục theo một thứ tự nhất định. Ở các đốt non cơ quan sinh
dục chưa phát triển, sau đó hình thành cơ quan sinh dục đực rồi đến cơ quan
sinh dục cái. Sau khi thụ tinh, cơ quan sinh dục đực teo dần còn lại cơ quan
sinh dục cái. Ở các đốt già, trứng chứa đầy trong tử cung.
Hệ sinh dục đực gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh và các tuyến sinh dục. Số
lượng tinh hoàn trong mỗi đốt có từ một đến hàng trăm và là dấu hiệu để phân
loại mỗi loài. Từ tinh hoàn có nhiều ống dẫn tinh nhỏ đi ra và hợp lại với
10
nhau thành ống dẫn tinh, ống này đổ vào cơ quan giao phối là lông gai. Lông
gai nằm trong nang lông gai. Phần cuối ống dẫn tinh có thể phình ra gọi là túi
tinh. Nếu túi tinh ở ngoài nang lông gai gọi là túi tinh ngoài, còn ở trong nang
lông gai thì gọi là túi tinh trong. Lông gai dùng để đưa vào lỗ sinh dục cái khi giao
phối. Nang lông gai và lông gai ở mỗi loài có hình dạng, kích thước và cấu tạo
khác nhau.
Hệ sinh dục cái có cấu tạo phức tạp hơn, gồm có buồng trứng, ống dẫn
trứng, ootyp, tuyến noãn hoàng, túi nhận tinh, tuyến vò (thể Melis) và tử
cung, thường có hai buồng trứng nằm giữa hoặc phía sau đốt sinh dục, ít khi ở
phía trước. Trong buồng trứng hình thành các tế bào sinh dục cái (tế bào
trứng). Từ buồng trứng có ống gắn nối với âm đạo, mở ra ở huyệt sinh dục.
Ống này phình rộng ra gọi là túi nhận tinh. Trứng thụ tinh được đưa vào
ootyp. Tuyến noãn hoàng gồm nhiều bao noãn bé nằm trong nhu mô hoặc
thành khối nằm hai bên đốt hoặc phía sau buồng trứng. Từ tuyến noãn hoàn

các chất dinh dưỡng đổ vào ootyp giúp cho việc hình thành trứng. Tuyến vỏ
tiết ra các sản phẩm cần

thiết để hình thành trứng. Trong ootyp, trứng thụ tinh
được hình thành, sau đó trứng rơi vào tử cung. Cấu tạo tử cung của sán dây
rất khác nhau. Ở sán dây bậc thấp (Pseudophyllidea), tử cung là những ống
cong, dẫn từ ootyp đến lỗ ngoài nằm ở mặt bụng của mỗi đốt. Ở những đốt
sán dây này trứng được thải ra ngoài tùy theo mức độ hình thành của trứng. Ở
sán dây bậc cao (Cyclophyllidea), tử cung kín, không có lỗ ngoài. Ở những
sán dây này tử cung chứa đầy trứng trong đốt già và mỗi đốt thực chất biến
thành một cái túi chứa trứng. Trứng được rơi ra ngoài bằng cách nứt thành cơ thể
của đốt. Quá trình này thường thực hiện ở môi trường ngoài, ở nơi mà các đốt sán
dây già được thải ra cùng với phân vật chủ.
Trứng sán dây bộ Cyclophyllidea hình tròn hoặc hơi bầu dục, có 4 lớp
vỏ, trong có phôi 6 móc. Còn trứng sán dây bộ Pseudophyllidea giống trứng
sán lá, một đầu có nắp (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [5].
2.1.2.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây chó
- Giống Dipylidium Leuckart, 1863
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11],
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], cho biết:
11
+ Loài Dipylidium caninum: Cơ thể dài 15 – 17 cm, gồm 80 – 250 đốt.
Đầu rộng 0,24 – 0,50 mm. Đầu có vòi hình chóp, có 4 – 10 hàng móc, mỗi
hàng có từ 16 – 20 móc, móc hàng trên cùng dài 0,013 – 0,016 mm, móc hàng
cuối cùng dài 0,003 – 0,008 mm. Lỗ sinh dục kép, mở ra ở hai bên đốt. Túi
sinh dục dài 0,1 – 0,3 mm, đáy hướng lên phía trên đốt. Buồng trứng phân
thùy hình quạt. Tuyến noãn hoàng hình khối. Đốt già chứa nang trứng, mỗi
nang chứa 3 – 30 trứng, có kích thước 0,026 – 0,060 mm. Phôi 6 móc có kích
thước 0,020 – 0,036 mm.
- Giống Taenia Linnaeus, 1758

Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11], Nguyễn
Thị Kim Lan và cs (1999) [5], Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], cho biết:
+ Loài Taenia hydatigena: Dài 5000 mm gồm 550 – 700 đốt rất rộng.
Đầu hình quả lê hay hình thận, đường kính 1 mm, vòi có 26 – 44 móc, xếp
thành hai hàng, móc hàng trên dài 0,170 – 0,022 mm, có mỏm rất cong,
móc hàng dưới dài 0,110 – 0,160 mm, có lưỡi rất cong, các giác bám gần
nhau và có đường kính 0,110 mm, cổ dài 0,500 mm. Có 600 – 700 tinh
hoàn ở giữa các ống bài tiết. Xung quanh noãn hoàng, buồng trứng, ống
dẫn tinh và âm đạo không có tinh hoàn, ống dẫn tinh có dạng túi hẹp uốn
khúc nhiều, không có túi tinh. Nang lông gai hình trụ dài 0,450 mm, rộng
0,130 mm, buồng trứng hai thùy ở nửa dưới của đốt, cạnh phía không lỗ
lớn hơn phía có lỗ, noãn hoàng là ống hẹp kéo dài theo chiều ngang, thể
Melis tròn ở giữa buồng trứng và noãn hoàng, phần đầu âm đạo phình
rộng, sau hẹp dần, tới thùy buồng trứng tạo thành túi nhận tinh. Ở các đốt
già thân tử cung có 5 – 10 nhánh ngang, mỗi đầu tự do lại tạo thành các
nhánh phụ, trứng bầu dục, dài 0,038 – 0,031 mm, rộng 0,034 – 0,035 mm,
vỏ dày 0,004 mm.
Dạng ấu trùng Cysticercus tenuicollis gặp nhiều ở gan và xoang bụng
của lợn, trâu, bò, nhiều loài thú khác, kể cả người. Ấu trùng này có dạng túi
chứa đầy dịch trong. Thành bên trong túi có một đầu sán dây, có cổ. Đầu có
móc và giác bám, đường kính của giác bám 0,099 – 0,310 mm, có 28 – 40
móc, xếp hai hàng, móc hàng trên dài 0,185 – 0,210 mm, móc hàng dưới dài
0,126 – 0,160 mm, vỏ trong của nang được bọc bằng vỏ ngoài, vỏ này bám
12
vào thành mô cơ của vật chủ, kích thước của nang phụ thuộc vào nơi ký sinh
của ấu trùng.
+ Loài Taenia pisiformis: Sán dài 600 – 2000 mm và rộng 4,8 mm gồm
400 đốt, đường kính đầu 1,3 mm, vòi 0,515 – 0,640, có 34 – 48 móc xếp
thành hai hàng, móc hàng trên dài 0,225 – 0,294 mm, có lưỡi rất cong. Móc
hàng dưới dài 0,132 – 0,177 mm, giác bám tròn hay bầu dục, đường kính

0,310 – 0,330 mm, cổ ở ngay sau đầu dài 1,7 mm. Lỗ sinh dục xen kẽ không
đều, các núm sinh dục hơi nhô ra. Có 400 – 500 tinh hoàn, tròn hay bầu dục,
đường kính 0,096 – 0,132 mm, ở toàn bộ khoảng trống giữa đốt trừ vùng noãn
hoàng và buồng trứng. Ống dẫn tinh bắt đầu từ túi tinh tròn có đường kính
0,210 – 0,350 mm, nang lông gai hình trụ hay bầu dục ngang, dài 0,460 –
0,800, rộng 0,130 – 0,140 mm, buồng trứng hai thùy, ở nửa dưới của đốt,
những thùy bên hình thận và có kích thước như nhau, noãn hoàng hình ba
góc, ở bờ dưới của đốt. Thể Melis ở giữa noãn hoàng và buồng trứng, âm đạo
đi từ lỗ sinh dục, tạo thành túi

nhận tinh ở sát thùy của buồng trứng. Ở những
đốt già, mỗi phần của thân tử cung có 8 - 14 nhánh bên, từ đó tạo thành các
nhánh phụ, trứng tròn hay hơi bầu dục, đường kính 0,032 - 0,037 mm.
- Giống Echinococcus Rudolphi, 1810
Phan Thế Việt và cs (1977) [18], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11],
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4], cho biết:
+ Loài Echinococcus granulosus: Sán dài 2,7 - 3,4 mm, gồm 3 - 4 đốt.
Đầu không lớn, có đường kính 0,258 - 0,369 mm, đường kính giác bám 0,098
- 0,133 mm, vòi 0,100 – 0,140 mm. Có 36 - 40 móc vòi, thường thay đổi về
kích thước và số lượng móc, móc hàng trên dài 0,032 – 0,043 mm, móc hàng
dưới dài 0,020 – 0,036 mm, cán không thẳng và dài hơn lưỡi móc, đôi khi cán
phình rộng hoặc có mỏm lớn. Cơ quan sinh dục cái ở nửa dưới của đốt, buồng
trứng gồm hai khối đặc hình bầu dục, nối với nhau bằng ống ngang hẹp, noãn
hoàng dưới buồng trứng, thể Melis dưới buồng trứng và noãn hoàng, có 32 -
40 tinh hoàn. Nang lông gai dài 0,025 – 0,026 mm, dài tới giữa đốt, lỗ sinh
dục mở ra ở hai bên đốt, tử cung dài bằng chiều dài đốt già, có các nhánh bên
với số lượng và hình dạng không giống nhau. Trứng tròn hay bầu dục, đường
kính từ 0,028 - 0,036 mm.
13
Ấu trùng Echinococcus enilocularis ký sinh ở trâu, bò, dê. Nó có dạng

túi, trong chứa đầy dịch, nang có hai vỏ, vỏ ngoài màu trắng sữa đôi khi hơi
vàng, vỏ ngoài sinh ra vỏ trong, vỏ trong gọi là vỏ mầm, sinh ra từ phía trong
xoang nang, mỏng, không màu, là thành mô sinh ra nang, có thể sinh ra một
nang cùng lúc tạo thành đầu phôi và nang thứ hai (nang con).
- Giống Multiceps Goeze, 1782
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11],
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [4]:
+ Loài Multiceps multiceps: Sán dài 400 - 1000 mm, gồm 200 - 250 đốt,
rộng gần 5 mm. Đầu hình quả lê và có đường kính 0,800 mm. Vòi có đường
kính 0,300 mm, có 22 - 32 móc, xếp thành hai hàng, móc hàng một dài 0,150
mm, hàng hai dài 0,090 – 0,130 mm. Giác bám có đường kính 0,290 - 0,300
mm. Cổ dài 2 - 3 mm. Ống dẫn tinh bắt đầu ở phía có lỗ, gần thân giữa của tử
cung, uốn khúc và đi vào nang lông gai. Nang có dạng quả lê dài 0,315 – 0,350
mm, rộng 0,110 – 0,145 mm. Buồng trứng có hình cánh bướm, ở gần bờ dưới
đốt, hai thùy gần như bằng nhau và có hình bầu dục, noãn hoàng hình ba góc, ở
sát bờ dưới đốt. Thể Melis nhỏ ở giữa buồng trứng và noãn hoàng. Âm đạo có
dạng ống cong xuống một thùy của buồng trứng và phình rộng thành túi chứa
tinh, tử cung có thân giữa và mỗi bên có 9 - 12 nhánh, trứng có đường kính
0,029 - 0,037 mm, có vỏ dày 0,004 mm.
Ấu trùng Coenurus cerebralis là một nang lớn, hình tròn hay bầu dục, vỏ mờ
đục, mềm ở trong có rất nhiều đầu sán dính vào, trong nang là chất dịch không
màu, số lượng dịch thay đổi phụ thuộc vào kích thước nang. Kích thước nang
khác nhau, phụ thuộc vào mức độ phát triển, vị trí não ký sinh và loại động vật.
- Giống Mesocestoides Vaillant, 1863
Nguyễn Thị Kỳ (1994) [3], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11], Nguyễn
Thị Kỳ (2003) [4], cho biết:
+ Loài Mesocestoides lineatus: Sán trưởng thành dài đến 2m. Đầu
không có vòi, có móc bám và 4 giác bám. Tử cung có dạng túi dọc nằm ở
giữa đốt. Kích thước trứng 0,040 – 0,060 x 0,035 – 0,043 mm. Phôi 6 móc,
đôi móc giữa dài hơn móc bên.

14
2.1.2.3. Chu kỳ sinh học của sán dây chó
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1975) [13], chu kỳ sinh học
của sán dây khá phức tạp, tiến triển ở nhiều ký chủ liên tiếp. Ở bộ
Cyclophyllidae trứng chứa thai trùng sáu móc đã hình thành. Vào dạ dày ký chủ,
thai trùng sáu móc thành ấu trùng (đã mất móc) có cấu tạo và tên gọi khác nhau:
Cysticercus, Coenurus, Echinococcus, Cysticercoid. Ở bộ Pseudophyllidae có
hai thể ấu trùng liên tiếp: Procercoid và Plerocercoid. Những dạng ấu trùng
này sống lâu hay chóng ở KCTG và phải được một ký chủ cuối cùng thích hợp
nuốt vào mới phát triển thành sán trưởng thành.
Để hoàn thành vòng đời, sán dây ký sinh ở chó cần vật chủ trung gian là
nhiều loài động vật khác nhau, có thể là động vật có xương sống, hoặc có thể
là động vật không xương sống Có loài cần 1 KCTG để hoàn thành vòng đời,
nhưng cũng có loài cần 2 KCTG mới hoàn thành vòng đời.
Các họ sán dây khác nhau có chu kỳ sinh học khác nhau. Các loài sán dây:
Spirometra erinacei-europae, Spirometra mansonoides, Dipylidium caninum,
Taenia hydatigena, Taenia pisiformis, Multiceps multiceps ký sinh ở ruột của
chó. Chó là vật chủ cuối cùng của sán, giúp sán hoàn thành vòng đời và ký
sinh ở giai đoạn thành thục. Cụ thể vòng đời của các loài sán dây thường gặp
ký sinh ở chó diễn ra như sau:
+Loài Spirometra erinacei-europae
Vòng đời phát triển của Spirometra erinacei-europae có sự tham gia của
vật chủ trung gian thứ nhất là các các loài giáp xác, KCTG bổ sung là cá.
Trứng được thải ra ngoài theo phân chó không có phôi, ở trong nước, trứng nở
ra ấu trùng có những lông nhỏ xung quanh thân gọi là Coracidium, được vật
chủ trung gian thứ nhất là các loài giáp xác thuộc giống Mesocyclops,
Eucyclops nuốt. Trong cơ thể bọ nước, Coracidium phát triển thành dạng ấu
trùng đặc biệt – Procercoid. Trong trường hợp cá nuốt phải bọ nước bị nhiễm
Procercoid thì ấu trùng Procercoid sẽ phát triển thành dạng ấu trùng mới -
Plerocercoid. Chó ăn cá có ấu trùng Plerocercoid sẽ nhiễm sán, sau 15 – 18

ngày sẽ xuất hiện trứng trong phân chó thải ra.

15
+ Loài Spirometra mansonoides
Vòng đời phát triển cần có sự tham gia của vật chủ trung gian thứ nhất
là các loài giáp xác nước ngọt (Copepods), vật chủ trung gian thứ hai là
những loài chim, rắn, bò sát, lưỡng cư, động vật gặm nhấm. Trứng theo phân
chó ra ngoài, trải qua lần lượt các giai đoạn ở vật chủ trung gian thứ nhất và
thứ hai, trở thành ấu trùng gây bệnh Plerocercoid. Chó ăn phải vật chủ trung
gian chứa ấu trùng sẽ bị nhiễm sán. Sau 10 – 30 ngày ấu trùng phát triển
thành sán trưởng thành.
+ Loài Dipylidium caninum
Vòng đời của loài này có sự tham gia của vật chủ trung gian là các loài
bọ chét giống Ctenocephalides. Đốt sán già thải ra ngoài có mang theo nang
trứng. Đốt sán vỡ ra, trứng ở ngoài tự nhiên được các vật chủ trung gian nuốt
vào, phát triển thành ấu trùng. Chó ăn phải bọ chét có ấu trùng sẽ bị nhiễm
sán dây. Sau 3 – 4 tuần ấu trùng phát triển thành sán dây trưởng thành.
+ Loài Taenia hydatigena
KCTG là lợn, trâu, bò, dê, cừu. Vòng đời bắt đầu từ khi đốt sán già
rụng theo phân ra ngoài, vỡ ra, giải phóng trứng sán. KCTG nuốt phải
trứng sán, vào đến ruột, ấu trùng 6 móc nở ra và phát triển thành ấu trùng
gây bệnh Cysticercoid sau 3 tháng. Chó ăn phải nội tạng của vật chủ trung
gian có ấu trùng sẽ bị nhiễm sán. Sau 2 tháng ấu trùng phát triển thành
sán dây trưởng thành.
+ Loài Taenia pisiformis
Vòng đời phát triển cần có sự tham gia của vật chủ trung gian là động
vật gặm nhấm, chủ yếu là thỏ và thỏ rừng. Các giai đoạn phát triển của ấu
trùng thực hiện trong các vật chủ trung gian để trở thành ấu trùng cảm nhiễm
sau 15 – 30 ngày. Chó ăn phải nội tạng của thỏ có ấu trùng sẽ nhiễm sán.
+ Loài Multiceps multiceps

Vòng đời của loài này cần có sự tham gia của vật chủ trung gian là dê,
cừu. Đốt sán già ra ngoài theo phân chó. Đốt vỡ ra giải phóng trứng sán; dê, cừu
- vật chủ trung gian ăn trứng sán vào cơ thể, trứng nở và phát triển thành ấu
trùng cảm nhiễm ở óc dê, cừu sau 6 – 8 tháng. Chó ăn phải óc vật chủ trung gian
có ấu trùng sẽ nhiễm sán.
16
Phan Thế Việt và cs (1977) [18], đã mô tả: “Tất cả bề mặt của sán dây
là một cái “mồm” khổng lồ. Thức ăn ngấm qua “da” của sán dây. Các loài sán
dây thường tắm trong nguồn thức ăn giàu có của cơ thể vật chủ. Cái mồm đã
không cần, thì hệ tiêu hoá của chúng cũng không có. Ăn và tiêu hoá đều qua
bề mặt cơ thể của sán dây”. Hiện tượng rụng đốt của sán dây làm cho người ta
có thể nghĩ rằng: Cơ thể sán dây sẽ dần dần ngắn lại. Song, không phải như
vậy, bởi các đốt mới được sinh ra thay thế các đốt già đã rụng làm cho sán
dây trở nên “trẻ lại”. Sau đốt đầu là đốt cổ, người ta gọi đốt cổ là đốt sinh
trưởng, từ đó sẽ mọc ra các đốt khác. Các đốt mới sinh ra đẩy các đốt cũ lùi
dần ra phía sau.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [6], cho biết: Những đốt sán dây hầu
như là những cơ thể độc lập với nhiều cơ quan riêng biệt và hoàn toàn độc
lập. Nhờ có sự hóa đốt mà khả năng sinh đẻ của sán dây tăng lên gấp bội.
Trong cùng một lúc, ở những đốt thành thục của sán dây có thể sinh ra hàng
chục triệu trứng. Ngoài ra, sự hóa đốt còn có lợi cho sán dây về những mặt
khác. Đó là, do có đốt sán già lần lượt đứt và thải ra môi trường bên ngoài mà
sự reo rắc trứng ở đó được thuận lợi hơn, bản thân sán dây thải bỏ đi những
đốt già cỗi, đời nó hầu như từng thời được trẻ lại, có sức lực và năng lượng
mới để phát triển những loạt đốt thành thục mới.
2.1.3. Đặc điểm dịch tễ học bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis và
bệnh do sán dây chó gây ra
2.1.3.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis
Bệnh Cysticercus tenuicollis xảy ra trên toàn thế giới, chủ yếu ở khu vực
nông thôn. Tỷ lệ nhiễm ở các khu vực thay đổi rất nhiều. Dịch bất ngờ có thể

xảy ra do điều kiện khí hậu có lợi cho sự tồn tại của trứng trong đồng cỏ hoặc
các hoạt động của động vật hoang dã mang bệnh (P. Junquera, 2013) [29].
Mổ khám 589 dê có nuôi ở các tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thấy tỷ lệ
nhiễm ấu sán cổ nhỏ ở dê là 23,8% và cường độ nhiễm sán là 1 - 18 ấu sán/dê.
Tuổi gia súc càng cao thì tỷ lệ nhiễm càng tăng lên và mức độ nhiễm càng
nặng hơn (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [5].
Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Quyên, Phạm Công Hoạt (2011) [7]
đã mổ khám 1273 trâu, bò, lợn của ba huyện thành tỉnh Phú Thọ phát hiện

×