Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.22 KB, 131 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS. Phạm Thành
Hưng - người thầy trực tiếp hướng dẫn, tận tâm dìu dắt, chỉ bảo giúp tôi hoàn
thành luận văn.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, phòng
Sau đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, cùng toàn thể các thầy cô giáo
đã giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Tôi xin bày tỏ
niềm xúc động lớn lao trước sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi theo
học lớp sau đại học của Sở giáo dục và đào tạo Vĩnh Phúc, của Ban giám hiệu
trường THPT Phúc Yên.
Từ đáy lòng mình, tôi xin được cảm ơn, chia sẻ niềm vui này với gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp - những người luôn ở bên tôi, giúp đỡ và động viên
kịp thời để tôi vững tâm nghiên cứu, hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày 26 tháng 6 năm 2012
Tác giả luận văn


Lưu Thị Thu Hương






LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Phạm Thành Hưng.
Những tư liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và chính xác,


được trích dẫn và có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công
trình nghiên cứu đã được công bố, các Website… với sự trân trọng, biết ơn.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 26 tháng 6 năm 2012
Tác giả luận văn


Lưu Thị Thu Hương














MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 8

4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Đóng góp mới của luận văn 9
8. Cấu trúc luận văn 9
NỘI DUNG
Chương 1: Mẫu Thượng Ngàn trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam
đương đại 10
1.1. Đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 10
1.1.1. Tiền đề xã hội - thẩm mĩ 10
1.1.2. Đội ngũ nhà văn 11
1.1.3. Những thành tựu mới 12
1.2. Tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 - những vấn đề đổi mới tư duy
và cách tân nghệ thuật 17
1.2.1. Quan niệm mới về tiểu thuyết 17

1.2.2. Một số khuynh hướng nổi bật 21
1.2.3. Những tìm tòi đổi mới 26

1.3. Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và một lối đi riêng 30

1.3.1. Lộ trình văn chương Nguyễn Xuân Khánh 30

1.3.2. Một ngả rẽ thú vị 32

Chương 2: Người kể chuyện và thế giới nhân vật trong truyện kể 39
2.1. Người kể chuyện 39

2.1.1. Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự 39


2.1.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Mẫu
Thượng Ngàn 41

2.2. Thế giới nhân vật 50

2.2.1. Nhân vật trong thể loại tiểu thuyết 50

2.2.2. Các kiểu nhân vật đặc sắc trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn 53
2.2.3. Một số thủ pháp xây dựng nhân vật 75

Chương 3: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 84

3.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết 84

3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện độc đáo, giàu sức sáng tạo của Nguyễn
Xuân Khánh trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn 86

3.2.1. Tổ chức kiểu cốt truyện phân mảnh 87

3.2.2. Cách tổ chức “truyện trong truyện”
96

3.2.3. Tổ chức cốt truyện dựa trên những yếu tố kỳ ảo 102

KẾT LUẬN 116

CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 121

TÀI LIỆU THAM KHẢO 122




1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tiểu thuyết là thể loại tự sự cỡ lớn, mang tính chất như là "sử thi về
đời tư” (Bê-lin-xki), nên thường giữ vai trò “cỗ máy cái” của văn học và trở
thành một trong những tiêu chí đánh giá sự trưởng thành của một nền văn học.
Việc thiếu vắng thành tựu của thể loại này là một chỗ trống đáng buồn cho bất
cứ nền văn học nào. Những năm gần đây, tiểu thuyết được đánh giá là một
thể loại phát triển mạnh mẽ nhất của văn học Việt Nam. Bên trong cái bộn bề,
đa dạng của bức tranh tiểu thuyết thập kỷ qua, có thể nhận thấy tiểu thuyết
lịch sử là dòng chủ lưu có nhiều đóng góp về tư tưởng và nghệ thuật cho thể
loại này.
1.2. Trong làng tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nguyễn Xuân Khánh
được coi là một người đàn ông vô cùng kỳ lạ. Đột ngột xuất hiện, như thể ông
vừa bước ra từ một huyền thoại nào đó, từ một sự ẩn mình đâu đó lâu lắm,
như loài trầm hương trong rừng sâu kia, một ngày nhoài lên từ lớp mùn và
mục gỗ để đi về phía ánh sáng mặt trời, đem theo mùi hương quý giá. Vắng
mặt trên văn đàn hàng chục năm, ông bất chợt “tái xuất giang hồ” ở tuổi 70
với thể tài tiểu thuyết lịch sử và ngay lập tức được bạn đọc đón nhận nồng
nhiệt.
1.3. Tiểu thuyết Việt Nam trong độ mươi năm lại đây, nếu không có
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh thì sẽ bớt đi biết bao nhiêu cái
sang trọng của bản sắc văn hóa Việt thấm đẫm trong văn học Việt. Trong mùa
giải năm 2006, tác phẩm đã giành được số phiếu tuyệt đối (9/9 số phiếu bầu)
của Hội đồng chung khảo và đoạt giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội. Sau Hồ
Quý Ly đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2003, Mẫu Thượng
Ngàn đã chứng tỏ bút lực dồi dào đến tràn trề và say đắm của Nguyễn Xuân

Khánh. Theo nhận định của Hội đồng chung khảo: “Mẫu Thượng Ngàn là

2

cuộc bứt phá ngoạn mục của Nguyễn Xuân Khánh trong đội hình nhà văn thế
hệ U70 - U80. Mặc dù ở một số chương đoạn, sự dông dài tỉ mỉ làm chùng lại
dòng chảy của câu chuyện, Mẫu Thượng Ngàn vẫn là cuốn tiểu thuyết nổi bật
trong những ứng cử viên của giải thưởng năm nay, mang tính lịch sử, văn hóa,
phong tục, lại có vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Văn hóa Việt, tín ngưỡng
Việt và cuộc hòa nhập với văn minh phương Tây, đồng thời là sự phản kháng,
được mô tả sâu đậm và quyến rũ” [26]. Nhà văn đã rất sâu sắc trong cách kiến
giải về văn hoá, lịch sử và “cao tay” trong kỹ thuật tự sự khi dâng cho đời
công trình nghệ thuật này.
1.4. Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại hiểu theo
nghĩa rộng, nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan, nói
cách khác là nghiên cứu đặc điểm trần thuật của văn bản tự sự nhằm tìm một
cách đọc. Trong những năm gần đây, tự sự học đã trở thành lĩnh vực thu hút
sự chú ý của giới nghiên cứu Việt Nam, nhờ vai trò quan trọng của nó trong
việc tìm hiểu văn chương dưới một hệ hình mới.
Xuất phát từ những gợi ý trên, chúng tôi quyết định lựa chọn việc tiếp
cận vấn đề: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh với hy vọng sẽ đem lại những đóng góp nhất định đối
với công tác giảng dạy và nghiên cứu văn chương. Đó là góp thêm một tiếng
nói khẳng định vị trí, vai trò của Nguyễn Xuân Khánh và diện mạo của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Đồng thời thể nghiệm và khẳng định một cách
đọc - hiểu văn bản tự sự dưới một hệ hình mới. Thành quả ấy chỉ rất khiêm
tốn, nhưng đó là nguồn động lực thôi thúc, cổ vũ chúng tôi theo đuổi con
đường mình đã chọn, đã đi và tiếp tục còn đi.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Xuân Khánh là một cây bút có bản lĩnh và sức sáng tạo dồi

dào. Sự ra đời ba tiểu thuyết kiến giải về lịch sử, văn hoá, phong tục gần đây

3

của nhà văn cho phép chúng ta khẳng định Nguyễn Xuân Khánh đã có những
tìm tòi và thể nghiệm không ngừng để làm mới tiểu thuyết. Đã có không ít các
công trình, các bài viết nghiên cứu về tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. Ở
đây, chúng tôi chỉ xin điểm lại những công trình nghiên cứu, những bài viết
về tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, để thấy được kết quả và những “điểm
dừng” trong lịch sử nghiên cứu về tác phẩm này.
2.1. Các công trình nghiên cứu phê bình, luận án, luận văn, khoá
luận
Trước tiên, tác giả luận văn xin nhắc tới hai công trình nghiên cứu có
tính chất bao quát về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đó là: Báo cáo tổng kết
đề tài khoa học cấp bộ mang tên Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta
từ thời điểm đổi mới đến nay do PGS. TS Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm đề
tài và luận án Tiến sĩ Ngữ văn của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh với đề tài
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay. Ở hai công trình nghiên cứu
này, có khi tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn được đặt trong diện mạo tiểu thuyết
Việt nam từ sau 1945 đến nay, có khi lại được đặt trong diện mạo tiểu thuyết
Việt Nam 5 năm đầu thế kỷ XXI để phân tích, nhận diện và chỉ ra sự biến đổi
trong tư duy thể loại, lý giải những thể nghiệm, cách tân, ghi nhận thành tựu
bước đầu của nỗ lực đổi mới tiểu thuyết, góp phần cập nhật đời sống văn
chương đương đại.
Tiếp cận tiểu thuyêt Mẫu Thượng Ngàn từ phương diện nội dung, tư
tưởng, luận văn Thạc sĩ Khoa học Văn học - Đại học Sư phạm Hà Nội của tác
giả Dương Thị Huyền với đề tài Nguyên lí tính mẫu trong “Mẫu Thượng
Ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh và luận văn Thạc sĩ Khoa học Văn học - Đại
học Sư phạm Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Diệu Linh với đề tài: Diễn ngôn
lịch sử và văn hoá trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu bàn về vấn

đề tâm linh và vẻ đẹp
,
sức sống văn hoá Việt. Cùng mối quan đến nội dung tư

4

tưởng tác phẩm, khoá luận Tốt nghiệp - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn của tác giả Nguyễn Thu Hương với đề tài Bản sắc dân tộc trong “Mẫu
Thượng Ngàn” đã đề cập tới một số nét nghệ thuật trong tác phẩm.
Ở những phương diện tiếp cận khác, trong khoá luận tốt nghiệp Tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh dưới góc nhìn thể loại (qua hai tác phẩm Hồ Quý
Ly và Mẫu Thượng Ngàn) - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hoàng
Thị Hiền Lương đã chú ý đề cập tới vấn đề hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Xuân Khánh. Dù cách đặt vấn đề có khác nhau, song luận văn Thạc sĩ
Khoa học Văn học - Đại học Sư phạm Hà Nội của tác giả Nguyễn Hồng
Duyên với đề tài Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh
và luận văn Thạc sĩ Khoa học Văn học - Đại học Sư phạm Hà Nội của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Huyền với đề tài Từ tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” đến “Mẫu
Thượng Ngàn” đã chú ý tới vấn đề nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
trong tác phẩm.
Như vậy, tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn đã thu hút được sự quan tâm
chú ý của các nhà nghiên cứu và giảng dạy khối nhà trường đại học. Không
chỉ đơn thuần nhìn nhận Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết về lịch sử, văn
hóa, về tình yêu của người đàn bà, với phạm vi nghiên cứu của mình, nhiều
tác giả đã có sự tìm hiểu các vấn đề thuộc về “kỹ thuật tự sự” trong cuốn tiểu
thuyết “thật hay về văn hóa phong tục này”, nhưng chỉ ở một vài khía cạnh và
chưa có sự chuyên sâu. Những “bước tiến” và “điểm dừng” của các công trình
nghiên cứu trên là cơ sở, là xuất phát điểm để chúng tôi tiến hành đề tài
nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh.

2.2. Các bài viết giới thiệu - phê bình, trên báo in và mạng Internet
Nói đến lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh mà chỉ đề cập đến những công trình nghiên cứu khoa học, những

5

khoá luận, luận văn sẽ là một thiếu hụt lớn. Mới được xuất bản mấy năm trở
lại đây (từ 2006) nên những công trình nghiên cứu dày dặn và tập trung về tác
phẩm còn ít ỏi. Trái lại, tác phẩm này lại được giới thiệu rộng rãi và dành
được sự quan tâm sôi nổi trên báo in và mạng Internet, đặc biệt là các diễn
đàn văn học, các trang điện tử.
Quan tâm tới giá trị văn học có tác động tích cực tới nền tiểu thuyết và
văn học nước nhà, nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng định giá trị độc đáo của
Mẫu Thượng Ngàn trong bài viết Một cuốn tiểu thuyết thật hay về văn hóa
Việt. Theo nhà văn, để đi tìm một nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết này thì
chính là nền văn hoá Việt. Tác phẩm đặc sắc ở việc nhìn nhận những giá trị
văn hoá dân tộc trong một hoàn cảnh lịch sử cực đoan nhất (đứng trước sự
xâm nhập của chủ nghĩa thực dân Pháp cùng một nền văn hoá hoàn toàn xa
lạ). Với tư cách là một người bạn, một người bạn vô cùng thân thiết, nhà văn
Châu Diên trong bài Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc hé lộ:
Mẫu Thượng Ngàn là một biến thể hoàn toàn mới của Làng nghèo xưa, được
viết vào chặng đường chín chắn nhất của đời nhà văn. Và rất tự hào về bạn khi
nhận xét: “Nếu Nguyễn Xuân Khánh in bản Làng nghèo, anh sẽ có một cuốn
tiểu thuyết bậc trung, hiện thực tàm tạm. Đẩy lên thành Mẫu Thượng Ngàn,
anh đã có một tiểu thuyết mang tầm khái quát văn hóa, nhân vật không còn là
những thân phận riêng lẻ mà là cả một cộng đồng” [20]. Tác giả Ngô Lê
Khánh Huyền trong bài viết Nguyễn Xuân Khánh và ông Châu Diên, ông
Dương Tường khẳng định: tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn chứa đựng cả một
kho tàng phong tục tập quán, đọc tác phẩm thấy hiểu và yêu thêm dân tộc
mình. Trong bài viết Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: về từ miền hoang tưởng,

Lê Thanh Bình cho rằng: với Mẫu Thượng Ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh đã thành công trong việc gửi gắm một thông điệp về tình yêu: tình yêu
dân tộc, yêu đất nước, sự gắn bó với nền văn hóa Việt và trách nhiệm giữ gìn
nền văn hóa ấy.

6

Quan tâm đặc biệt tới giá trị nghệ thuật tác phẩm, trong một bài phỏng
vấn của VTC News, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cho rằng: Mẫu Thượng
Ngàn là tác phẩm hấp dẫn và cuốn hút, lối viết của nhà văn vẫn là cổ điển
nhưng mang đậm hơi thở của cuộc sống thời đại, đặc biệt là những trường
đoạn viết về bản thể tự nhiên, tính phồn thực của nhân vật nữ. Rất sum suê,
phì nhiêu kiểu Nguyễn Xuân Khánh [10]. Nhà văn Văn Chinh trong bài viết
Lão mai Nguyễn Xuân Khánh vẫn rừng rực nở hoa cũng có nhận xét: Mẫu
Thượng Ngàn bộn bề yếu tố folklo với các môtíp dân gian, các câu hát hầu
bóng, văn tế… Và sex trong Mẫu Thượng Ngàn không đơn thuần là sex mà
hàm chứa sức sống tâm hồn Việt, văn hoá Việt.

Vấn đề nhân vật trong tác phẩm được bàn tới nhiều, nhưng chủ yếu là
những đánh giá, bàn luận về hình tượng người phụ nữ. Nguyên Ngọc trong
bài Một cuốn tiểu thuyết thật hay về văn hóa Việt khẳng định: trong cuốn tiểu
thuyết này, đông đúc nhất, đậm nhất, mê nhất là những nhân vật nữ. Đỗ Ngọc
Yên trong bài Có một nền văn hóa Mẫu như thế ca ngợi: Tác giả miêu tả tình
cảm, dục vọng tự nhiên của con người một cách thật tài tình. Ông đã mô tả
những cái bình thường trong đời sống và sinh hoạt của người phụ nữ Việt
Nam, ngay cả đến những sinh hoạt phòng the, chăn gối hay những cuộc tình
vụng trộm trên quan điểm cái Đẹp nên người đọc không hề cảm thấy thô
tục… trái lại, người đọc cảm thấy người phụ nữ Việt Nam trong tác phẩm của
ông thật sự rất đáng yêu và đáng trân trọng. Ngoài ra còn có thể kể đến nhiều
bài viết, nhiều bài phỏng vấn đăng trên các báo Nhân dân, Thanh Niên, Văn

nghệ trẻ, Văn nghệ công an… hay các website: www.vannghechunhat.net,
www.evan.com, www.talawas.org… Nhìn chung các ý kiến đánh giá đều
hướng tới sự khẳng định ngòi bút Nguyễn Xuân Khánh khá nhuần nhị và tinh
tế trong việc miêu tả vẻ đẹp của người đàn bà nông thôn; vẻ đẹp và sức sống
mãnh liệt của họ biểu tượng cho sự trường tồn của văn hóa Việt Nam.

7

Đặt Mẫu Thượng Ngàn từ phương diện lý thuyết hậu thực dân và lý
thuyết tự sự học, Đoàn Ánh Dương trong Tự sự hậu thực dân: Lịch sử và
huyền thoại trong Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh đã đi tìm
những biểu hiện của tự sự hậu thực dân trong tác phẩm, từ đó mở ra con
đường tiếp cận bộ phận văn học độc đáo: văn học Việt Nam hậu thuộc địa.
Trong những bài kể trên, có những bài mới chỉ dừng lại ở mức độ cảm
thụ, bộc bạch cách cảm nghĩ của cá nhân khi tiếp cận tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn. Cũng có những bài ít nhiều đề cập đến những khía cạnh về nghệ thuật
tác phẩm cùng những phát hiện mới lạ, độc đáo nhưng chỉ trên một khía cạnh
nhỏ. Các ý kiến chủ yếu tập trung khẳng định một số đặc điểm nổi bật ở tiểu
thuyết Mẫu Thượng Ngàn như: 1. Văn phong tiểu thuyết mang hơi thở cuộc
sống hiện đại; 2. Đề cập đến vấn đề tiếp biến văn hoá, giao lưu văn hoá; 3.
Nêu lên được các giá trị văn hoá đặc sắc như vấn đề đạo Mẫu; 4. Xây dựng
hình ảnh đẹp, giàu ý nghĩa về người phụ nữ bình dân; 5. Gửi gắm thành công
thông điệp tới người đọc. Chưa bài viết nào có khả năng đưa đến cho chúng ta
một bức tranh khái quát, toàn diện về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mẫu
Thượng Ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Điểm qua các công trình nghiên cứu phê bình, luận án, luận văn, khoá
luận và các bài báo như trên, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh đã được tiếp cận ở những mức độ rộng hẹp và
những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi chưa thấy có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật tự sự trong cuốn tiểu thuyết này.

Thực tiễn đó cho thấy, việc tập trung tìm hiểu về nghệ thuật tự sự trong Mẫu
Thượng Ngàn là một đề tài mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với nghiên
cứu lý luận phê bình cũng như tiếp nhận và sáng tạo văn học. Giải quyết vấn
đề còn đang bỏ ngỏ ấy và đưa ra một mô hình về nghệ thuật tự sự trong Mẫu
Thượng Ngàn, từ đó góp thêm một phát hiện mới về những nỗ lực, tìm tòi,

8

cách tân của Nguyễn Xuân Khánh trong quá trình lao động sáng tạo nghệ
thuật là nhiệm vụ mà chúng tôi đặt ra cho luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Luận văn nhằm làm nổi bật giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng
của tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, cái chung của thời đại và nét riêng phong
cách nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
3.2. Thông qua tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của Nguyễn Xuân
Khánh, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định vai trò, diện mạo, vị trí của
nhà văn trong nền văn học đương đại nói riêng và tiến trình phát triển của văn
học, văn hoá nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xác lập và củng cố vững chắc thêm hệ thống lý luận về nghệ thuật
tự sự và biểu hiện của nó trong văn học, đặc biệt là trong tiểu thuyết.
4.2. Làm nổi bật những đặc sắc về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Từ đó đưa ra cách nhìn mới,
đánh giá mới về tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Luận văn tập trung khảo sát tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh và cố gắng đối chiếu tác phẩm với các tác phẩm khác
của tác giả, đồng thời đặt tác phẩm trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại để đánh giá những thành công và sự đổi mới trong tư duy, trong
quan niệm nghệ thuật của nhà văn.

5.2. Nghệ thuật tự sự là một vấn đề nghiên cứu có phạm vi rộng nên
chúng tôi tập trung nghiên cứu về các phương diện: người kể chuyện và điểm
nhìn trần thuật, thế giới nhân vật trong truyện kể và nghệ thuật tổ chức cốt
truyện.


9

6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý thuyết tự sự học để nghiên cứu nghệ thuật tự sự
trong Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Ngoài ra, luận văn còn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như:
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh, đối chiếu và tổng hợp, khái quát
7. Đóng mới của luận văn
7.1. Làm rõ vai trò của cá tính sáng tạo trong việc cách tân tiểu thuyết
trên bình diện kỹ thuật tự sự, qua đó nhận diện thành tựu đa dạng của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
7.2. Khẳng định tầm quan trọng của việc ứng dụng lý thuyết tự sự học
vào việc tìm hiểu các hiện tượng văn học hiện đại, đặc biệt là ở lĩnh vực tiểu
thuyết.
7.3. Cung cấp thêm một cách “đọc hiểu”, một hướng tiếp cận mới về
tiểu thuyết sau đổi mới - hướng tiếp cận từ khía cạnh nghệ thuật tự sự.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Phần Nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1: Mẫu Thượng Ngàn trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
Chương 2: Người kể chuyện và thế giới nhân vật trong truyện kể
Chương 3: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện

10

NỘI DUNG
Chương 1
MẪU THƯỢNG NGÀN
TRONG DÒNG CHẢY TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975
1.1.1. Tiền đề xã hội - thẩm mĩ
Từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước ta phải sống trong những điều
kiện bất bình thường của “ngày có giặc” (chữ dùng của Hữu Thỉnh), mọi hoạt
động của cộng đồng từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đều phải tập trung
phục vụ cho cuộc chiến đấu sống còn của Tổ quốc. Với chiến thắng vĩ đại
mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ từ chiến
tranh chuyển sang hòa bình, từ trạng thái bất bình thường, con người được trở
về với quỹ đạo của đời thường.
Do hậu quả nặng nề của chiến tranh, những năm đầu thập kỷ 80, đất
nước ta chìm trong khó khăn và thử thách, một cuộc khủng hoảng toàn diện
đã diễn ra, nhất là khủng hoảng về kinh tế. Đảng và nhà nước đã sớm lựa chọn
con đường đổi mới như một yêu cầu tất yếu. Đại hội Đảng lần thứ VI là sự
kiện lịch sử trọng đại cắm cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ của nền
văn học nước ta. Một phong trào nói thẳng, nói thật được phát động sôi nổi.
Tiêu chí văn hoá và bản sắc dân tộc được đề cao làm nền tảng cho việc mở
rộng đề tài sáng tác và đánh giá thành tựu của văn học giai đoạn trước.
Từ 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, kinh tế
nước ta cũng đã từng bước chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị

trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là
điều kiện để cá nhân tự khẳng định mình và vấn đề cá nhân cũng đòi hỏi phải
nhìn nhận khác trước. Do đó, văn học nghệ thuật cũng phải đi từ nhiệm vụ
phản ánh số phận cộng đồng sang những yêu cầu phản ánh số phận cá nhân.

11

Trong xu thế mở cửa hiện nay, việc giao lưu, hội nhập đa phương với
thế giới được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Chúng ta có sự nhập
ngoại nhiều kênh thẩm mĩ khác nhau, có cả những kênh thẩm mĩ mà ta chưa
được quen, song nó đã góp phần thổi bùng lên ý thức cá nhân, khát vọng dân
chủ. Cùng với đó là sự phát triển của văn học dịch đã cho nhà văn cơ hội tiếp
cận với nhiều đỉnh cao văn học; làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của đông đảo
độc giả, trước hết là tầng lớp thanh niên và thôi thúc các nhà văn Việt Nam
phải đổi mới cách viết.
Với một tiền đề xã hội - thẩm mĩ như thế, sự đổi mới của văn học Việt
Nam sau năm 1975 là tất yếu. Tuy vậy, chính nội lực của mỗi cá nhân, của
các thế hệ nhà văn sẽ quyết định thành công của công cuộc đổi mới trên lĩnh
vực văn học nghệ thuật. Đổi mới vừa là cơ hội vừa là thử thách đối với mỗi
nhà văn.
1.1.2. Đội ngũ nhà văn
Từ sau 1975, đội ngũ người viết ngày càng hùng hậu, năng động và
sáng tạo. Tuy khác nhau về tuổi đời, tuổi nghề nhưng họ đều mang trong mình
sức sống và hơi thở của thời đại. Họ đều là những người ham mê khám phá
cái mới và xông xáo trên con đường đổi mới văn học.
Đất nước hòa bình, từ giã cuộc sống đầy bất trắc với những cách khu xử
bất thường của thời chiến, con người trở về với cái “bản chất người thực sự
như nó vốn có”, văn chương để phụng sự được con người cũng cần phải khác.
Qua dằn vặt rồi quyết tâm, Nguyễn Minh Châu đã chọn cho mình hướng đi:
lấy con người làm đối tượng khảo sát thay cho đời sống tập thể cộng đồng. Từ

Nguyễn Minh Châu vấn đề con người với số phận riêng cùng vô vàn trăn trở
âu lo đã được văn học quan tâm khai thác ở cách nhìn mới.
Vào những năm đầu 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng tác của Ma Văn
Kháng đã "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên những cuộc

12

tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn văn học. Ở vị trí hàng đầu của nền văn học
cách mạng Việt Nam, các sáng tác của Nguyễn Khải cũng luôn đem lại những
cách nhìn mới và sâu thẳm về con người, về cõi vô tận của đời sống vốn rất
mênh mông và khó nắm bắt.
Trong nhịp bước đổi mới, các thế hệ nhà văn đã và đang nỗ lực sáng
tạo. Ở chặng chuyển mình giữa hai thời kỳ chiến tranh và hậu chiến, các nhà
thơ, nhà văn vẫn duy trì quán tính cũ. Tuy nhiên, tên tuổi của Nguyễn Huy
Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Quang Thiều…
đã thực sự khuấy động cho một phong trào mới khởi sắc. Tiếp đó, Nguyễn
Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái… cũng tạo nên lối
viết độc đáo, ấn tượng. Làn sóng sáng tạo của các cây bút trẻ như Vi Thuỳ
Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Quyến, nhóm
“Ngựa trời”, “Mở miệng”… đem đến cho thơ ca hiện đại một phong cách
mới. Riêng trong văn xuôi nhìn lại vài năm trước, chúng ta sẽ thấy sự hình
thành một bức tranh về truyện ngắn và tiểu thuyết của những nhà văn trẻ.
Một tương lai mới cho diện mạo văn học nước nhà đã và đang được các
thế hệ chạy đua tiếp sức. Chúng ta tin tưởng vào những đột phá của lớp nhà
văn thế kỷ mới sẽ đưa lại cho văn học một bước chuyển mình.
1.1.3. Những thành tựu mới
Theo dõi nền văn học Việt Nam trên tiến trình đổi mới, ta thấy đời sống
văn học Việt Nam, nhất là sau 1986 đã thực sự “sung túc” hơn trong bầu
không khí dân chủ. Trên thực tế, văn học nước nhà đã thoát khỏi quán tính
của những “khuôn vàng thước ngọc” cũ để hoà nhịp cùng văn học thế giới và

đạt được nhiều thành tựu đáng mừng.
1.1.3.1. Đổi mới về ý thức nghệ thuật
Thành tựu quan trọng nhất của văn học sau 1975 là sự đổi mới trong ý
thức nghệ thuật của giới cầm bút. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, hầu hết người

13

làm văn, làm thơ thuộc các thế hệ khác nhau đều chung một ý nghĩ “không thể
viết như cũ được nữa” (Lê Lựu trả lời phỏng vấn báo Quân đội nhân dân,
ngày 24 - 4 -1988). Ý nghĩ ấy càng tỏ ra dứt khoát hơn ở lớp nhà văn xuất
hiện từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI như Nguyễn Huy Thiệp, Trần Thuỳ Mai,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều, Bảo Ninh, Nguyễn Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh… Trong ý thức của họ không phải không có chỗ khác biệt, nhưng
hầu như tất cả đều thống nhất với nhau trong một nhận thức chung: hiện thực
không phải là một cái gì đơn giản, xuôi chiều; con người là một sinh thể
phong phú, phức tạp, còn nhiều bí ẩn phải khám phá; nhà văn phải có tư
tưởng, phải nhập cuộc bằng tư tưởng chứ không chỉ bằng nhiệt tình và trong
tìm tòi sáng tạo không chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng mà còn phải dựa
vào kinh nghiệm cá nhân; độc giả không phải là những đối tượng để thuyết
giáo mà là những người bạn để giao lưu, đối thoại một cách bình đẳng…
Đặc điểm chung nữa của giới cầm bút là sự thức tỉnh ngày càng sâu sắc
về ý thức cá nhân. Mỗi người đều muốn là một tiếng nói riêng, đều muốn tạo
cho mình một bút pháp, phong cách riêng. Tất nhiên, ý thức cá nhân, bản thân
nó, không tạo ra được nghệ thuật, tâm và tài mới quyết định. Dù sao khát
vọng khẳng định cá tính và sự nỗ lực trăn trở nhằm tạo cho mình một tiếng
nói riêng của giới cầm bút cũng gây ra được một phong trào, một không khí
có sức kích thích, cổ vũ, từ đó sẽ xuất hiện những tài năng lớn tiêu biểu cho
thời đại văn học mới.
1.1.3.2. Những thành tựu ở các thể loại
Sau năm 1975, quan niệm về văn học và ý thức nghệ thuật đã có sự

thay đổi, chi phối đến phương thức phản ánh, đến cách thức cấu trúc và vận
dụng thể loại. Nhìn vào tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ sau 1975
đến nay, ta dễ nhận ra sự phong phú đa dạng của diện mạo thể loại, những
biến động về thi pháp cùng sự hưng thịnh của từng thể loại riêng biệt.

14

Về văn xuôi, thời gian đầu, phóng sự, tiểu thuyết phóng sự, kịch bản
sân khấu phát triển mạnh do nhu cầu bức xúc chống tiêu cực. Về sau, nghệ
thuật kết tinh hơn ở truyện ngắn và tiểu thuyết với sự xuất hiện nhiều tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu (Bến quê, Cỏ lau, Phiên chợ Giát), Nguyễn
Khải (Chút phận của đời, Hà nội trong mắt tôi…), Nguyễn Huy Thiệp (Như
những ngọn gió), Ma Văn Kháng (Đám cưới không có giấy giá thú), Nguyễn
Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến
tranh), Dương Hướng (Bến không chồng), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng), và
nhiều truyện ngắn, truyện dài được dư luận chú ý của Hữu Mai, Nguyễn
Quang Lập, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Phan Thị Vàng Anh, Trang Thế Hy…
Về thơ, tình hình có khác. Ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975, nổi
lên một phong trào viết trường ca ở các nhà thơ xuất thân quân đội: Những
người đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo; Đường tới
thành phố của Hữu Thỉnh… nhưng một thời gian lại lắng đi. Trong thế hệ các
nhà văn trước Cách mạng có Chế Lan Viên với các tập Di cảo thơ (xuất bản
sau khi ông qua đời) gây được tiếng vang. Những cây bút thế hệ chống Mỹ
cứu nước vẫn tiếp tục viết đều. Trội hơn cả là Thanh Thảo, Ý Nhi, Nguyễn
Duy, Thu Bồn, Xuân Quỳnh… Lớp nhà thơ mới sau 1975 xuất hiện rất đông
đảo. Những gương mặt đáng chú ý có thể kể: Nguyễn Thị Hồng Ngát, Dư Thị
Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Nguyễn Quang Thiều, Phùng Khắc Bắc…
Những tìm tòi, những thử nghiệm của các cây bút thơ thời kỳ này đã tạo cho
thơ một diện mạo mới tuy khá ngổn ngang, bề bộn.

Về nghệ thuật sân khấu, trong mảng đề tài chiến tranh cách mạng có tác
phẩm của Hoài Giao, Đào Hồng Cẩm, Tấn Đạt… Đề tài lịch sử là thế mạnh
của sân khấu, đáng chú ý là các tác phẩm của Nguyễn Đình Thi: Rừng trúc
(1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979). Về đề tài xã hội, Lưu Quang Vũ
cũng xuất hiện như một cây bút có sức sáng tạo dồi dào với khoảng năm mươi

15

vở kịch được công diễn, trong đó các vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt (1984),
Tôi và chúng ta (1985) có tiếng vang hơn cả. Về nghệ thuật chèo, nổi trội hơn
cả là bộ ba tác phẩm Bài ca giữ nước của Tào Mạt (1986).
Về lý luận, phê bình văn học, những biểu hiện đổi mới đến chậm hơn,
nhưng tiêu chí đánh giá đã có những chuyển dịch nhất định: chú ý nhiều hơn
đến giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản, chức năng thẩm mĩ của văn học. Vai
trò của chủ thể sáng tác được coi trọng hơn cùng với tính tích cực trong tiếp
nhận văn học của người đọc. Nhiều trường phái lý luận văn học phương Tây
đã được dịch và giới thiệu. Lối phê bình xã hội học dung tục tuy chưa mất hẳn
nhưng không còn được coi trọng.
Không kỳ vọng vào một cuộc cách mạng văn chương duy tân như thời
đại 1930 - 1945, nhưng rõ ràng văn học Việt Nam từ sau 1975 đã bước đầu
đạt được nhiều thành tựu về thể loại và đang trên đà hiện đại hóa. Về mặt
nguyên lý, sức sống của một thời đại văn học phụ thuộc vào sự phong phú và
khả năng hồi sinh, đổi mới của các thể loại. Văn học Việt Nam trong thời
gian qua và cả trong kỷ nguyên tới đang vận động và phát triển theo chiều
hướng song song ấy.
1.1.3.3. Những đổi mới về nội dung và nghệ thuật
Trước hết là những đổi mới trong quan niệm về con người. Trước năm
1975, đối tượng của văn học chủ yếu là con người lịch sử, là nhân vật sử thi;
sau năm 1975, con người được nhìn nhận ở phương diện cá nhân và trong
quan hệ đời thường: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Thời xa vắng

(Lê Lựu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu)…
Trước 1975, con người được nhấn mạnh ở tính giai cấp; sau 1975, con người
còn được nhìn nhận ở tính nhân loại, nhất là trong các tác phẩm viết về chiến
tranh hay tôn giáo (Cha và con và… của Nguyễn Khải, Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai…). Trước đây, nhân vật văn học

16

chỉ được khắc hoạ ở phẩm chất tinh thần; sau 1975, nhân vật văn học

còn
được thể hiện ở phương diện con người tự nhiên, ở nhu cầu bản năng… Trước
năm 1975, con người chỉ được mô tả trong đời sống ý thức; về sau còn được
thể hiện ở phương diện tâm linh (Thanh minh trời trong sáng của Ma Văn
Kháng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường…).
Những chuyển biến về tư tưởng nói trên đem đến những nguồn cảm
hứng mới cho người cầm bút: cảm hứng thế sự tăng mạnh, trong khi cảm
hứng sử thi, lãng mạn giảm dần. Từ đó, văn học quan tâm nhiều hơn tới số
phận cá nhân trong những quy luật phức tạp của đời thường; nội tâm của nhân
vật được khai thác sâu hơn, bút pháp hướng nội được phát huy, không gian
đời tư được chú ý, thời gian tâm lý ngày càng mở rộng; phương thức trần
thuật trở nên đa dạng hơn, giọng điệu trần thuật trở nên phong phú hơn; ngôn
ngữ văn học cũng gần với hiện thực đời thường hơn.
Chúng ta không phủ nhận, kinh tế thị trường đã có tác động tiêu cực đối
với một bộ phận của giới làm văn, làm báo, nhất là một số cây bút chạy theo
thị hiếu thấp kém của một bộ phận công chúng, biến sáng tác văn học thành
một thứ hàng hoá để câu khách, khiến cho nền văn học khó tránh khỏi có
những biểu hiện xuống cấp ở mặt này hay mặt khác trong sáng tác và phê bình
văn học. Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận, kinh tế thị trường có nhiều tác
động tích cực đối với văn học: kích thích tài năng sáng tác đáp ứng yêu cầu

của độc giả.
Có thể khẳng định, quá trình đổi mới của văn học sau 1975 diễn ra khá
toàn diện và sâu sắc từ nhà văn đến công chúng, từ bản chất văn học đến tư
cách nghệ sĩ, từ tư tưởng đến thi pháp. Những thành tựu đó nói lên rằng: đổi
mới là quy luật tất yếu. Vận động trên con đường ấy, chắc chắn, văn học sẽ
còn đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong tương lai. "Cánh đồng" văn học
Việt Nam đương đại sẽ ngày càng đơm hoa kết trái.

17

1.2. Tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 - những vấn đề đổi mới tư duy và
cách tân nghệ thuật
1.2.1. Quan niệm mới về tiểu thuyết
“Trong cuộc kiếm tìm và hướng tới sự đổi mới, điều quan trọng là phải
thấy được sự cần thiết phải thay đổi bản thân khái niệm của tiểu thuyết dẫn
đến sự thay đổi của bản thân khái niệm về văn học cùng với sự phát triển của
nó” (M. Butor). Ở nước ta, quá trình thay đổi quan niệm về hệ thống thể loại
được khởi động từ trước những năm 1986 nhưng chỉ trở nên rõ rệt từ sau năm
1986 mà người khởi đầu là Nguyễn Minh Châu. Trong bài tiểu luận Hãy đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (1987), Nguyễn Minh Châu
đặt ra vấn đề văn học phải trở về với chính mình, chống nguy cơ “nhà văn
đánh mất cái đầu và những tác phẩm đánh mất tư tưởng - nghĩa là những tư
tưởng mới và độc đáo, mang tính khái quát cuộc đời của riêng từng nhà văn”.
Từ tiếng nói “mở đường” cho nền văn học mới của Nguyễn Minh Châu và
những định hướng về đổi mới văn hoá, văn nghệ của Đảng, sau Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986) đến nay, đời sống văn nghệ của ta trở nên sôi nổi với sự
xuất hiện liên tục các cuộc hội thảo, các bài viết được đăng tải trên báo chí
của các nhà văn, nhà lý luận - phê bình về những chặng đường đã qua của tiểu
thuyết cũng như yêu cầu cần phải thay đổi quan niệm về nghệ thuật, tư duy
tiểu thuyết. Tiêu biểu nhất là một loạt bài viết của các tác giả trên tuần báo

Văn nghệ số 33/1989, nhằm hướng tới Đại Hội nhà văn lần thứ IV; các bài
tham luận tại cuộc toạ đàm với chủ đề Tiểu thuyết những năm gần đây - Đi
tìm lời giải vào ngày 12 tháng 11 năm 1996 tại tuần báo Văn nghệ của gần 30
nhà tiểu thuyết, nhà phê bình văn học, các biên tập viên văn xuôi… Và ở một
quy mô lớn hơn, tại Nhà sáng tác Đại Lải (thuộc Bộ Văn hoá - Thông tin)
ngày 7 tháng 11 năm 2002 đã diễn ra Hội thảo đổi mới tư duy tiểu thuyết thu
hút đông đảo các nhà văn, nhà phê bình, nhà báo tham gia. Nhiều ý kiến của
những nhà văn tên tuổi như Ma Văn Kháng, Nguyễn Xuân Khánh, Đỗ Chu,

18

Hoàng Quốc Hải, Đình Kính, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đỗ Phú, Trung Trung
Đỉnh, Nguyễn Quang Hà… đã phân tích khá cặn kẽ thực trạng và yêu cầu đổi
mới thể loại. Có thể nhận thấy những nét lớn trong quan niệm về tiểu thuyết
qua những ý kiến của các nhà văn, nhà phê bình văn học cũng như thực tiễn
vận động của thể loại này những năm gần đây như sau:
Trước hết, cách tân tiểu thuyết phải gắn liền với việc thay đổi tư duy,
cảm quan nghệ thuật của nhà văn trước cuộc sống và con người thời đại mới.
Theo Carlos Fuentes - nhà văn Mỹ - La tinh, thế giới hiện nay bị tác động quá
lớn bởi “sự bùng nổ về thông tin” và “sự nổ tung bên trong của ý nghĩ”
(implosion du sens). Hiện thực không phải là một cái gì đơn giản, xuôi chiều;
con người là một sinh thể phong phú, phức tạp, còn nhiều bí ẩn phải khám
phá. Văn học cần có những bước nhảy đáng kể, trong đó có sự khám phá quá
trình “nổ tung bên trong của ý nghĩ” con người. Vậy nên, tiểu thuyết phải là
thể loại tự sự tiếp cận hiện thực nhìn từ góc độ con người bằng cảm hứng đa
chiều: vừa “hướng ngoại” vừa “hướng nội” - hướng vào thế giới nội tâm của
con người.
Về việc cần phải thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận về cuộc sống, tác
giả cuốn tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn đặt ra yêu cầu, tiểu thuyết cần
chỉ ra những vết nứt, sự đứt gãy trong đời sống và con người. Tiểu thuyết hôm

nay không được trốn tránh những mặt trái của hiện thực là nhận định của nhà
văn Nguyễn Xuân Khánh khi bàn về tính cấp thiết của yêu cầu đổi mới văn
xuôi, tiểu thuyết tại cuộc Hội thảo ngày 7 tháng 11 năm 2002. Trọng tâm
trong tác phẩm vẫn là hình tượng con người nhưng không được nhìn ở cái
nhìn đơn giản mà ở nhiều chiều, nhiều góc độ. Con người với những góc
khuất trong tâm hồn và thế giới tâm linh.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng không phải là tiểu thuyết chuyển hướng
(từ “hướng ngoại” sang “hướng nội”) mà có sự “đẳng hướng về thi pháp”

19

(Nguyễn Ngọc Thiện). Đây là một nét mới trong quan niệm về tiểu thuyết của
các nhà văn. Quan niệm về sự “đẳng hướng” ấy trong thi pháp tiểu thuyết ở
góc nhìn tinh tế và sâu sắc, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng, viết về
người bình thường, viết về cuộc đời thường là vấn đề mà những người viết
tiểu thuyết không thể không quan tâm. Tiểu thuyết được xem là thể loại “năng
động” nhất, vừa có khả năng bao quát hiện thực rộng lớn (vĩ mô) vừa có khả
năng đi sâu khám phá đời tư, tâm hồn con người (vi mô).
Theo quan niệm mới, tiểu thuyết còn là thể loại không có một hình thức
hoàn kết mà luôn có sự biến hóa, không đứng yên, luôn có sự đấu tranh thay
thế lẫn nhau giữa cái cũ và cái mới trong bản thân thể loại, bởi vì nó là “sử
thi của thời đại chúng ta”, tức là sử thi của cái hiện tại, cái đang hàng ngày,
hàng giờ đổi thay, bởi vì điều quan trọng đối với nó là sự tiếp xúc tối đa với
cái thực tại dang dở “chưa xong xuôi”, cái thực tại đang hình thành, cái thực
tại luôn bị đánh giá lại, tư duy lại. Chúng ta không thể khuôn tiểu thuyết vào
một số nguyên tắc nghệ thuật cứng nhắc, bất biến, mà chính là phải mở ra
những khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại này, phát triển và làm phong
phú nó. Chỉ có như vậy, cái “máy cái” của văn học mới có thể đáp ứng được
yêu cầu của người đọc, phù hợp với tư duy của con người thời nay và đáp ứng
tốc độ phát triển nhanh chóng của đời sống hiện đại.

Quan niệm này được nhà văn Tô Hoài phát biểu rất rõ: “Tôi không phủ
nhận giá trị tiểu thuyết thời trước, nhưng thật là không thể cho tiểu thuyết một
nghĩa cố định. Tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có
một khả năng tung hoành không bờ” [61, tr.105]. Nguyễn Minh Châu - nhà
văn luôn trăn trở về sự đổi mới văn học - cũng quan niệm: “Một thể loại văn
học phải chứng tỏ sức sống của nó ở tính đa dạng và không ngừng cách tân.
Nhất là đối với tiểu thuyết, một thể loại có một sức chứa và sức chở rất lớn”
[15, tr.2].


20

Nhấn mạnh tới yêu cầu đổi thay trong bút pháp tiểu thuyết, nhà văn
Đào Vũ cho rằng tiểu thuyết phải “linh hoạt hoá, đa dạng hoá trong việc thể
hiện”, “không dừng mãi ở những cung cách thể hiện quen thuộc”. Bằng những
trải nghiệm nghề nghiệp, Ma Văn Kháng đã đưa ra những ý kiến hết sức sâu
sắc, cụ thể, giúp người cầm bút định hình được các yếu tố trong tiểu thuyết
cần phải thay đổi như yếu tố thời gian bị đứt gãy, xáo trộn; tăng cường chất trí
tuệ và lí trí; sự đan chéo của nhiều sự kiện, yếu tố hồi ức trong sáng tạo…
đồng thời cần đưa các yếu tố thẩm mĩ vào sáng tác như yếu tố huyền ảo, hư
cấu, thế giới tâm linh của nhà văn…
Bàn về tiểu thuyết hiện đại, Milan Kundera có ý kiến đánh giá: “Một
trong những tiếng gọi hấp dẫn của tiểu thuyết hiện đại là tiếng gọi của trò
chơi” [35]. Trong văn học Việt Nam (hiện đại), quan niệm về tính trò chơi của
tiểu thuyết lần đầu tiên được đặt ra bởi nhà văn Phạm Thị Hoài. Đó là khi tác
giả “trình làng” tiểu thuyết Thiên sứ (1988) và đó là khi trên tờ Văn nghệ
(năm 1990) xuất hiện bài viết Về một trò chơi vô tăm tích của bà. Sau Thiên
sứ, “tiếng gọi của trò chơi” đã hấp dẫn nhiều nhà tiểu thuyết. Vì vậy, không ít
tác phẩm có tính trò chơi theo quan niệm mới của các nhà văn đã ra đời: Nỗi
buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Cõi người rung chuông tận thế, Trong sương

hồng hiện ra (Hồ Anh Thái), Thoạt kỳ thủy (Nguyễn Bình Phương), Thiên
thần sám hối (Tạ Duy Anh), Người sông Mê (Châu Diên)… Tính trò chơi của
tiểu thuyết được thể hiện ở nhiều phương diện: những hư cấu nghệ thuật trong
tác phẩm; cách kết cấu tác phẩm (hỗn loạn, rời rạc, tùy tiện, chắp vá, người
đọc muốn hiểu, phải tự chơi, tự ráp các mảng nhật ký, hồi ức, đối thoại… lại
với nhau như cách chơi trong trò chơi rubich…
Cái thời kỳ tiểu thuyết chỉ chú ý duy nhất đến “thông điệp”, đến tư
tưởng được gửi gắm vào tác phẩm đã qua. Song điều này không có nghĩa văn
học không còn cần đến những “ẩn dụ”, những triết lí về đời sống, về thân
phận con người. “Lạ hoá” dĩ nhiên rất cần thiết. Nhưng mọi sự làm lạ ấy cũng

21

chỉ nhằm để chuyển tải hiệu quả nhất những lớp “ý nghĩa” nằm sâu dưới hình
thức biểu đạt Yêu cầu đặt ra đối với tiểu thuyết đương đại là phải đạt đến sự
thống nhất giữa trò chơi và ẩn dụ lớn. Đến với tác phẩm, người ta như đến
với những trò chơi, đến để được chơi nhưng không vì thế mà họ không nghĩ
đến những vấn đề nghiêm túc mà tác phẩm đặt ra.
Những quan niệm về tiểu thuyết hiện nay chưa hẳn đã ổn định nhưng sẽ
định hướng cho nhà văn trong sáng tác và góp phần vào quá trình phát triển,
đổi mới thể loại tiểu thuyết, đưa thể loại văn học này phát triển lên một bước,
phong phú hơn, hấp dẫn hơn; vừa đáp ứng được nhu cầu đổi mới của bạn đọc
hiện đại, vừa góp phần đưa văn học Việt Nam bắt “nhịp” văn học thế giới.
Những quan niệm này không chỉ có ý nghĩa đối với nhà văn mà còn có ý
nghĩa quan trọng đối với nhà nghiên cứu phê bình và cả bạn đọc khi tiếp cận
thể loại tiểu thuyết.
1.2.2. Một số khuynh hướng nổi bật
Trong nghiên cứu, việc phân chia tiểu thuyết thành các khuynh hướng
thường có nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào phương thức khám phá và thể
hiện đời sống của tiểu thuyết đương đại, chúng tôi đề cập đến bốn khuynh

hướng tiêu biểu nhất.
1.2.2.1. Khuynh hướng nhận thức lại quá khứ
Mỗi lần chiến tranh qua đi, con người ta thường có xu hướng nhìn lại
quá khứ để nhẹ lòng bước tiếp tương lai. Những năm gần đây, khuynh hướng
nhận thức lại quá khứ trong tiểu thuyết rất phát triển. Nhà văn thường lấy quá
khứ làm đối tượng phân tích nhưng không phải toàn bộ quá khứ mà là những
phần khuất lấp, những vấn đề chưa được văn học thời trước quan tâm đúng
mức. Cảm hứng nhận thức lại quá khứ phần nào thể hiện tinh thần nhận chân
lại các giá trị đời sống bằng cái nhìn mới mẻ, thể hiện những suy tư của nhà

22

văn về số phận con người trong sự va đập của các biến cố đời sống và các sự
kiện lịch sử.
Khuynh hướng này có phần gần gũi với cảm hứng phản tư trong tiểu
thuyết Trung Quốc thời kỳ cải cách với Một nửa đàn ông là đàn bà của
Trương Hiền Lượng, Nôn nóng của Giả Bình Ao, Báu vật của đời của Mạc
Ngôn, Trường hận ca của Vương An Ức Trong quá trình nhận thức lại cách
mạng văn hóa, các nhà tiểu thuyết Trung Quốc cho rằng đó là cuộc chấn
thương tinh thần lớn nhất thế kỷ XX. Theo đó, dòng “văn học vết thương” ra
đời và để lại ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Tại Việt Nam, dòng “văn học
vết thương” xuất hiện từ sau những năm đầu thập kỷ 80 và phát triển mạnh
trong thời kỳ đổi mới. Các tác phẩm thuộc dòng văn học này chủ yếu phản
ánh và nhìn nhận lại những vấn đề lịch sử đương đại như cải cách ruộng đất,
thời bao cấp, chiến tranh chống Mỹ… Tiểu thuyết Đất trắng (Nguyễn Trọng
Oánh), Thời xa vắng (Lê Lựu), Những thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng
(Dương Thu Hương), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng
(Chu Lai), Truyện kể năm 2000 (Bùi Anh Tấn), Ba người khác (Tô Hoài)…
đã thể hiện sâu sắc nội dung của các vấn đề trên.
Ở một độ lùi xa hơn, tiểu thuyết về đề tài lịch sử cũng đang từng ngày

đổi mới, phát triển và nổi lên như một dòng chủ lưu. Trong quá trình sáng tác,
các nhà văn thường xử lý chất liệu lịch sử theo hai hướng chính: lịch sử hoá
tiểu thuyết và tiểu thuyết hoá lịch sử. Hướng thứ nhất thực ra vẫn đi trên con
đường quen thuộc. Cách xử lý chất liệu lịch sử theo tinh thần tiểu thuyết hoá
chắc chắn giúp cho các sự kiện, số liệu lịch sử trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
Bão táp cung đình, Huyền Trân công chúa, Vương triều sụp đổ (Hoàng
Quốc Hải), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn
(Nguyễn Xuân Khánh), Sắc đẹp khuynh thành (Kiều Thanh Tùng), Gió lửa,
Đất trời (Nam Dao), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác)… là những tác
phẩm đã và đang chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc. Mỗi tác phẩm

×