Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Một số biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.11 KB, 97 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm chủ đạo mở rộng HTQT về
GD và tổ chức thực hiện tốt chủ trương đầu tư để phát triển GD, nâng cao chất
lượng đào tạo của nước ta: “Nỗ lực phấn đấu để GD - ĐT thực sự là quốc sách
hàng đầu cả về đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ, tổ chức quản lý, và chính sách ưu
tiên. Bên cạnh việc tăng đầu tư cho GD từ ngân sách nhà nước Bộ chính trị cho
rằng cần phải đa dạng hoá và chú trọng phát huy các nguồn lực khác, các thành
phần kinh tế, tinh thần hiếu học của từng gia đình và mở rộng HTQT để tăng
mạnh hơn nữa đầu tư cho GD - ĐT, nhằm tăng dần điều kiện và cơ sở vật chất
bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển GD như: kiên cố hoá trường học. …;
đồng thời phải hết sức chú ý kiểm tra chặt chẽ, nâng cao hiệu quả, chống lãng phí
trong đầu tư phát triển GD - ĐT. [23]
Trên cơ sở quán triệt đường lối chỉ đạo về GD - ĐT của Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là Nghị quyết TW 2 của BCH TW Đảng Khoá XIII coi “GD là quốc
sách hàng đầu”, trong những năm qua, ngành GD - ĐT đã nỗ lực phấn đấu và
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tập trung phát triển GD mạnh hơn, khẩn
trương và hiệu quả hơn, theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, đưa nền
GD nước nhà vào thế ổn định với chất lượng GD toàn diện, nhằm đào tạo có chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH- HĐH,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong đó, công tác GDĐH đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ.
Trên quan điểm so sánh hệ thống, trong 20 năm đổi mới vừa qua, cùng với
những thành tựu kinh tế đạt được của cả nước, GDĐH Việt Nam đã làm được
nhiều điều đáng tự hào. Chúng ta đã bám sát xu thế phát triển của thời đại, lựa
chọn các mô hình GDĐH tiên tiến để nghiên cứu áp dụng. So sánh với các nước
trong khu vực đã bước vào nền kinh tế thị trường trước chúng ta, không phải
= 1 =
chuyển đổi cơ cấu kinh tế như ở nước ta, GDĐH Việt Nam đã tiến khá nhanh
trong thế ổn định và hội nhập.
GDĐH đã tranh thủ được sự hỗ trợ và giúp đỡ quý báu của nhiều tổ chức


trong nước và quốc tế, góp phần từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của
ngành GD - ĐT.
GDĐH phát triển trên cơ sở bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu nhân lực
có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội để thực
hiện CNH - HĐH; nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và đi
vào kinh tế tri thức.
“Bảo đảm hiệu quả GD bằng chính sách sử dụng nguồn nhân lực, tận dụng
mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ phát
triển kinh tế xã hội ” [23]
Tuy nhiên, GD - ĐT nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ
cấu, và nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và
ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, thực hiện CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Nói
cách khác, sự nghiệp GD - ĐT đang đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu
vừa phải phát triển nhanh quy mô GD - ĐT, vừa phái gấp rút nâng cao chất
lượng đào tạo. Trong tình hình hiện nay, khi mà quy mô phát triển chưa phù hợp
với điều kiện thực có, chất lượng đào tạo còn chưa cao, vấn đề về quản lý GD
còn nhiều hạn chế, nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước còn nhiều eo hẹp,
chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của công tác đào tạo thì việc đẩy mạnh
HTQT nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài
dành cho GD và GDĐH là hết sức cần thiết. Song song với việc tranh thủ các
nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài thông qua việc đầu tư các DA về GD và GDĐH ,
việc QLTH tốt các DA đó thực sự trở thành cấp thiết trong toàn ngành.
Để đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn đầu tư hỗ trợ về GDĐH thực sự có
hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng GDĐH , chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề:
= 2 =
“Một số biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh” làm đề tài luận văn cao học chuyên
ngành “Quản lý giáo dục”.
2. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động QLTH DA GDĐH trong trường ĐH
Vinh.
- Đối tượng nghiên cứu: các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH trong
trường ĐH Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình cải cách và xây dựng hệ thống GDĐH Việt Nam, việc khai
thác có hiệu quả sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và
phi chính phủ là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành GD - ĐT. Nếu có được biện
pháp phù hợp để QLTH tốt các nguồn giúp đỡ quý báu về tài chính, cơ sở vật
chất, trang thiết bị và chuyên môn nghiệp vụ ... trong nước và quốc tế thì đó là
điều kiện hết sức thuận lợi để trường ĐH Vinh không ngừng đẩy mạnh và nâng
cao hơn nữa chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH -
HĐH đất nước.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về QLTH DA phục vụ đào tạo ĐH trong trường
ĐH
- Đánh giá thực trạng tình hình QLTH DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
- Đề xuất các biện pháp QLTH DA GDĐH có hiệu quả ở trường ĐH Vinh
trong giai đoạn mới.
6. Phương pháp nghiên cứu
= 3 =
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên
cứu sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá, khái quát hoá văn kiện của
Đảng, Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của ngành GD - ĐT, các ngành khác và
các công trình nghiên cứu, các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên

cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng của QLTH DA GDĐH để đề xuất
những biện pháp tăng cường hoạt động này, bao gồm:
- Điều tra xã hội học đối với cán bộ quản lý thuộc Ban điều phối DA GDĐH ,
lãnh đạo nhà trường, cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo, lãnh đạo và thành
viên Ban QLTH TDA GDĐH Trường ĐH Vinh.
- Quan sát thực tế hoạt động QLTH DA GDĐH
- Tổng kết kinh nghiệm về QLTH DA GDĐH
- Xin ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý GD - ĐT và
QLTH DA GDĐH .
6.3. Các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu và các kết quả
nghiên cứu.
7. Những điểm mới của đề tài
- Đề tài sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý GD và các lãnh đạo, cán bộ trong
ban QLTH TDA GDĐH thấy được những thành tựu và hạn chế về QLTH
DA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
- Đề xuất những biện pháp phù hợp để QLTH tốt DA GDĐH nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho khu vực các tỉnh Bắc
miền Trung nói riêng và cho cả nước nói chung.
8. Giới hạn của đề tài nghiên cứu
= 4 =
Công tác QLTH DA GDĐH là một hoạt động phức tạp, bao hàm nhiều vấn
đề, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều trường CĐ, ĐH trong cả nước ... Trong
đề tài này, tác giả giới hạn:
- Nội dung nghiên cứu: Hoạt động QLTH TDA GDĐH trong trường ĐH
Vinh.
- Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý thuộc Ban điều phối DA GDĐH , lãnh
đạo trường ĐH Vinh, cán bộ quản lý và thành viên thuộc ban QLTH TDA
GD ĐH trong trường ĐH Vinh.

9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khuyến nghị, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý DA phục vụ đào tạo ĐH
Chương 2: Thực trạng công tác QLTH DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng
GD ĐT ở trường ĐH Vinh
Chương 3: Các biện pháp tăng cường QLTH DA GDĐH nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo ở trường ĐH Vinh
Cuối luận văn có: danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
= 5 =
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DỰ ÁN PHỤC VỤ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
DA GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ĐH là một trong những
hoạt động quan trọng đối với ngành GD - ĐT nói chung và trường ĐH Vinh nói
riêng, góp phần không nhỏ trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ phục
vụ cho đất nước trong thời kỳ mới.
Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã khẳng định: “Muốn tiến hành CNH - HĐH
thắng lợi phải phát triển mạnh về GD - ĐT, phát huy nguồn lực con người, yếu tố
cơ bản của sự phát triển bền vững”[23]. Ngành GD đứng trước thử thách và khó
khăn mới, những nhiệm vụ hết sức nặng nề, chính vì vậy, công tác HTQT càng
trở nên quan trọng, góp phần vào sự nghiệp phát triển của ngành và mở rộng hợp
tác GD - ĐT, động viên cao độ các nguồn lực trong nước và tranh thủ tối đa
nguồn lực bên ngoài.
Tại Điều 109 Luật GD 2005 “khuyến khích hợp tác về GD với Việt
Nam” qui định: Tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài được Nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện để
giảng dạy, học tập, đầu tư, tài trợ, hợp tác, ứng dụng khoa học, chuyển giao công
nghệ về GD ở Việt Nam ….[36]
Công tác QLTH các DA đầu tư về GDĐH đóng vai trò đặc biệt quan
trọng đối với trường ĐH Vinh trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn

nhân lực trong công cuộc CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên, cho tới nay mới chỉ
có các công trình nghiên cứu nhằm tăng cường hoạt động HTQT trong ngành
= 6 =
GD - ĐT nói chung, chưa có những công trình nghiên cứu nhằm tìm ra các biện
pháp cấp thiết góp phần nâng cao hiệu quả công tác QLTH các DA đầu tư về
GD.
GS.TSKH Trần Văn Nhung – Thứ trưởng Bộ GD - ĐT trong cuốn “GD
và ĐT – Hướng dẫn thông tin Hợp tác đầu tư Việt Nam – Khu vực” đã đưa ra
nhiều định hướng quan trọng liên quan đến các DA quốc tế nhằm tăng thêm
nguồn lực cho GD - ĐT thông qua HTQT, trong đó có đề cập đến việc tranh thủ
hỗ trợ của các nước có trình độ kỹ thuật cao, có kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân
lực để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giảng dạy ĐH, NCKH…. và các cơ
sở đào tạo Việt Nam cần chú ý chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ năng lực để tranh thủ
được nhiều DA và triển khai có hiệu quả. Tuy nhiên, đó là những phương hướng
chung cho toàn ngành chứ chưa đi sâu vào vấn đề làm thế nào để tăng cường
công tác QLTH các DA đầu tư cho GD [14].
Biên bản ghi nhớ đợt công tác về giám sát giữa kỳ DA GDĐH do Ngân
hàng Thế giới triển khai đợt 29/4 đến 17/5/2002, có sự tham gia của đại diện Hội
đồng chỉ đạo liên bộ DA GDĐH, Ban Điều phối DA , Ban Đánh giá DA , các
Vụ liên quan của Bộ GD - ĐT…. Có đánh giá về tình trạng hiện thời (năm 2002)
(a) phân tích tiến trình thực hiện cho đến thời điểm giữa kỳ trong tương quan so
sánh với kế hoạch ban đầu; (b) xác định đến các vấn đề của DA liên quan đến
việc lập kế hoạch, đấu thầu, giải ngân và (c) đánh giá xem cácmục tiêu phát triển
có còn phù hợp không …. Tuy nhiên, báo cáo này mới chỉ đề cập những vấn đề
rất chung cho toàn DA GDĐH, về tình hình thực hiện DA trên cơ sở so sánh
tương quan các chỉ số thực hiện với các chỉ số ban đầu khi thiết kế DA. Với tính
chất đánh giá thực hiện giữa kỳ, báo cáo này chưa đưa ra những biện pháp cụ thể
về tình hình QLTH các TDA ở từng trường ĐH cụ thể.
Tóm lại, trong các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, các nhà nghiên
cứu chủ yếu chỉ đề cập đến các vấn đề tăng cường hoạt động HTQT nhằm tranh

thủ sự hỗ trợ tối đa của các cá nhân, tổ chức quốc tế về GD thông qua quá trình
= 7 =
nghiên cứu hoạt động HTQT nói chung chứ chưa có các công trình nghiên cứu
về tăng cường công tác QLTH các DA đầu tư giáo dục.
Để cải cách và xây dựng nền GD Việt Nam XHCN tiến vào thế kỷ 21,
quan điểm xem GD là quốc sách hàng đầu là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, tác động
mạnh mẽ đến các hoạt động trên các lĩnh vực, đặc biệt quan trọng đối với việc
tăng cường xã hội hoá GD và đẩy mạnh QHQT để bổ sung thêm nguồn lực cho
GD - ĐT và sớm hội nhập khu vực và quốc tế.
Đối với trường ĐH Vinh, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng mạnh
mẽ như hiện nay, nhà trường đã thiết lập và đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác
với một số tổ chức, cá nhân nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn lực để hỗ trợ
nâng cao chất lượng đào tạo ĐH. Trong bối cảnh đó, Nhà trường đã tiếp nhận,
QLTH một số các DA đầu tư về GDĐH , NCKH…. Tuy vậy, từ trước đến nay,
chưa có tác giả nào cũng như chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
QLTH DA GD nói chung trong các trường ĐH và trong trường ĐH Vinh nói
riêng. Chính vì vậy, việc tổ chức nghiên cứu để tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG
CƯỜNG QLTH TIỂU DỰ ÁN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG TRƯỜNG ĐH VINH” là đòi
hỏi cấp thiết nhằm tìm ra các biện pháp phù hợp để tăng cường công tác QLTH
TDA GDĐH trong trường ĐH Vinh, từng bước hoàn chỉnh cơ chế quản lý công
tác thực hiện DA giáo dục, góp phần thiết thực vào nâng cao chất lượng đào tạo,
đúng như tên gọi của nguồn đầu tư là Quỹ NCCL đào tạo, nhằm đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao phục vụ cho công cuộc CNH - HĐH đất nước.
Để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc tăng cường công tác QLTH Tiểu
DA GDĐH trong trường ĐH Vinh, cần xác định rõ những khái niệm liên quan
đến tăng cường biện pháp QLTH TDA GDĐH và những yếu tố ảnh hưởng đến
công tác QLTH TDA GDĐH trong trường ĐH Vinh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
1.2.1. Quản lý và quản lý giáo dục
= 8 =

- Quản lý là sự tác động liên tục có tính tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt
chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế … bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra
môi trường và điều kiện cho sự phát triển cuả đối tượng. Đối tượng quản lý
có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một
con người cụ thể, sự vật cụ thể.
- Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc
qua những nồ lực của người khác.
- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người
cộng sự khác cùng chung một tổ chức.
- Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. [33]
Thuật ngữ quản lý có nhiều định nghĩa khác nhau về cách diễn đạt, nhưng
về bản chất có thể hiểu:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác động
của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn
khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức
và cho cả xã hội.
- Mục tiêu quản lý: Là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng
quản lý hoặc của một số yếu tố cấu thành nó.
- Nguyên tắc quản lý: Là những quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà
các cơ quan quản lý và các nhà lãnh đạo (các chủ thể quản lý) phải tuân thủ
trong quá trình quản lý.
- Phương pháp quản lý: Là tổng thể các cách thức tác động của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý (cấp dưới và tiềm năng có được của hệ thống) và khách
= 9 =
thể quản lý (các hệ thống khác, các ràng buộc của môi trường …), để đạt
được các mục tiêu đề ra.

- Chức năng quản lý: Là loại hình đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản
phẩm của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá quá trình quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau
và tạo thành chu trình quản lý, đó là chức năng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra cùng các hoạt động chung khác là thông tin và ra quyết định. Mỗi
chức năng có vai trò, vị trí riêng trong chu trình quản lý. Thông tin là mạch
máu của quản lý. Ra quyết định là hoạt động thường xuyên của quản lý.
Quản lý GD - ĐT là hoạt động điều hành công tác đào tạo trong phạm vi của
ngành giáo dục.
- Thuật ngữ “giáo dục” thường được hiểu như một khái niệm chung để chỉ
nhận thức, học vấn về những giá trị nhân cách trong một giai đoạn phát triển
lịch sử. Nhân cách được cụ thể hoá bằng hàng loạt những giá trị, nhất là
những giá trị tiêu biểu. Hệ thống giá trị nhân cách được định hướng theo
những chuẩn mực cho từng thời kỳ phát triển KT - XH, cho các cấp bậc đào
tạo.
- Giáo dục/đào tạo ĐH được hiểu là bồi dưỡng đào tạo nhân cách ở bậc sau
phổ thông (bậc ĐH ). Bậc ĐH theo nghĩa rộng gồm cấp cao đẳng, ĐH , thạc
sỹ, tiến sỹ. Thông thường còn sử dụng khái niệm đào tạo ĐH và đào tạo sau
ĐH. Đào tạo ĐH gồm cấp cao đẳng và ĐH. Đào tạo sau ĐH gồm cấp thạc
sỹ và tiến sỹ.
- Thuật ngữ “đào tạo” thường được hiểu như một khái niệm để chỉ những giá
trị hiểu biết về kỹ năng nghề nghiệp, về khoa học, kỹ thuật, công nghệ...
Khái niệm đào tạo không nằm ngoài khái niệm giáo dục. Đào tạo phải có giá
trị nhân cách, vì mục tiêu đào tạo là toàn diện, phải có đức, có tài, có phẩm
chất chính trị.
= 10 =
Quản lý đào tạo bao gồm các lĩnh vực quản lý mục tiêu, nội dung, chương
trình, các chuẩn mực đào tạo, quy trình tổ chức đào tạo, việc giảng dạy, học tập
cũng như việc kiểm tra, đánh giá, kiểm soát các chuẩn mực đảm bảo chất lượng.
Nhiệm vụ trung tâm của nhà trường là đào tạo. Chất lượng đào tạo quyết định sự

tồn vong của cơ sở đào tạo. Quản lý đào tạo thực chất là quản lý chất lượng.
1.2.2. Chất lượng và chất lượng đào tạo.
Có những quan điểm khác nhau về chất lượng, trong khuôn khổ đề tài,
chúng tôi quan niệm chất lượng gắn với sản phẩm – mà sản phẩm đào tạo ĐH ở
đây là con người – chính là những sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH – nguồn
nhân lực phục vụ cho xây dựng đất nước trong sự nghiệp CNH – HĐH.
Chất lượng đào tạo có thể coi là “tập hợp các đặc tính, tiềm năng của sinh
viên tốt nghiệp, đáp ứng mục tiêu đào tạo đã đề ra và có khả năng thoả mãn nhu
cầu của thị trường, của đất nước”
1.2.3. Quản lý DA và thực hiện DA
DA là cách tiếp cận trong quản lý được sử dụng rất nhiều vào những thập
kỷ 50, 60, và 70 thế kỷ XX. Tuy nhiên, cách tiếp cận quản lý này mới được đưa
vào Việt Nam những năm gần đây.
Có tác giả cho rằng DA là hoạt động tạo ra sản phẩm cụ thể bằng cách
phối hợp những cán bộ chuyên môn làm việc trong một nhóm [50]. Hoặc DA là
một đơn vị được tổ chức đề ra để đạt được một mục tiêu hay tạo ra một sản phẩm
với những thuộc tính xác định, đúng thời gian, sử dụng một lượng nguồn lực
định trước. Có thể có nhiều định nghĩa về DA nhưng nhìn chung, DA có thể
được xem là một hoạt động (đơn vị công việc) được tiến hành bởi một nhóm
người (một đội) để đạt được những mục tiêu (sản phẩm) nhất định, trong khoảng
thời gian nhất định và với chi phí xác định [ 51].
Có một số tài liệu đưa ra một số định nghĩa cụ đối với DA. Theo tác giả
Gary R. Heerkens trong cuốn Quản lý DA : “Một nỗ lực tạm thời được thực hiện
để đạt được một mục tiêu cụ thể ” [20].
= 11 =
Bất cứ DA loại nào thì đều có một số đặc tính chung, cụ thể:
- Một DA thực tế là sự đáp ứng một nhu cầu, là biện pháp cho một vấn đề.
Ngoài ra, nó là một biện pháp hứa hẹn một lợi ích – thường là một lợi ích tài
chính. Mục đích căn bản của hầu hết các DA đó là làm ra tiền hoặc tiết kiệm
tiền.

- Một DA có bản chất tạm thời; có nghĩa là nó có một điểm xuất phát và đích
đến cụ thể. Một DA được định nghĩa kỹ gồm các công việc nhỏ (các phần
việc) và thường rốt cuộc dẫn đến việc tạo ra một sản phẩm hoặc sản phẩm
chung cuộc (Các sản phẩm bàn giao). Sẽ có một trình tự thi hành được ưu tiên
đối với các công việc của DA (lịch biểu).
- Một DA là một công việc duy nhất, một lần; nó sẽ không bao giờ được thực
hiện lại y như vậy, bởi những người như vậy và trong một môi trường như
vậy nữa.
Sẽ luôn có một mức độ không chắc chắn nào đó kết hợp với DA của bạn.
Tính không chắc chắn này tiêu biểu cho sự rủi ro – một mối đe doạ luôn có mặt
đối với khả năng lập các kế hoạch cuối cùng và tiên đoán các kết quả có các mức
độ tin tưởng cao. Tất cả các DA đều tiêu thụ các tài nguyên – các tài nguyên
theo dạng thời gian, tiền bạc, các vật tư và các lao động. Một trong những nhiệm
vụ chính của nhà quản lý DA là phục vụ như người quản lý chung các tài nguyên
này một cách có hiệu quả.
Quản lý DA :
Các tài liệu về quản lý DA hiện đại không đề cập đến định nghĩa DA mà
đi ngay vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể [53].
- Viện quản lý DA định nghĩa quản lý DA là “… ứng dụng kiến thức, các kỹ
năng, các công cụ và các kỹ thuật vào các hoạt động DA để đáp ứng các yêu
cầu của DA ” [48].
Các DA thường có các giai đoạn DA (vòng đời DA ) có thể định danh và
mỗi giai đoạn có một loạt các thách thức duy nhất đối với nhà quản trị DA . Nếu
= 12 =
xem tiến trình DA từ cấp cao nhất, ta có thể định danh bốn giai đoạn DA cơ bản
và nên tiếp cận quản lý DA theo mô hình bốn giai đoạn dưới đây:
- Trong giai đoạn đầu tiên, giai đoạn Khởi đầu, nhu cầu được định danh. Một
đáp ứng thích hợp đối với nhu cầu được định danh. Một đáp ứng thích hợp
đối với nhu cầu được xác định và được mô tả. ( Đây thực tế là nơi DA bắt
đầu). Các nhóm làm việc tham gia được định danh.

- Kế tiếp là giai đoạn Hoạch định, ở đó biện pháp DA được phát triển thêm
càng chi tiết càng tốt. các hoạt động được xác định và lịch biểu để thực hiện
các hoạt động đó. Các bản ước tính về kế hoạch thực hiện, thời gian và tiền
bạc để hoàn tất một công việc được đưa ra.
- Trong giai đoạn thứ ba, giai đoạn Thi hành, công việc đã được quy định được
thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của nhà quản lý DA. Tiến độ liên tục
được giảm sát, các điều chỉnh thích hợp được thực hiện và được ghi lại dưới
dạng biến trạng so với kế hoạch ban đầu. Suốt giai đoạn này, đội DA vẫn tập
trung vào việc đáp ứng các mục tiêu đã phát triển và đã đồng ý tại đầu DA .
- Trong giai đoạn cuối, giai đoạn Kết thúc, trọng tâm tập trung vào việc xác
minh DA đã đáp ứng hoặc sẽ đáp ứng nhu cầu ban đầu. Về mặt lý tưởng, DA
cuối cùng dẫn đến một sự chuyển tiếp nhịp nhàng từ việc tạo thành phẩm bàn
giao (DA) sang việc vận dụng thành phẩm bàn giao (vòng đời hậu DA). Tuy
nhiên, mặc dù đội DA và nhà quản trị DA, thường ngưng tham gia vào thời
điểm này, song họ vẫn có thể hưởng lợi đáng kể qua việc tìm hiểu và đánh giá
những gì diễn ra sau DA.
Trước đây, quản lý DA được áp dụng để đạt được các mục tiêu cụ thể do
quy mô lớn; do tính phức tạp của tổ chức và nhu cầu đa dạng của khách hàng
không cho phép quản lý chức năng đạt được mục tiêu nhanh chóng.
Ngày nay, do yêu cầu của thực tiễn, KHCN phát triển không ngừng, nhu
cầu tập trung mọi nguồn lực để giải quyết những nhiệm vụ hoặc thực hiện một số
= 13 =
công việc đòi hỏi tiến độ khẩn trương, quản lý DA cũng được áp dụng khá phổ
biến.
Quản lý DA là một công việc phức tạp gồm những đặc điểm chính sau:
- Một DA được thành lập và một giám đốc điều hành được bổ nhiệm để thực
hiện một mục tiêu đơn lẻ;
- Hệ thống lập kế hoạch trong quản lý DA và thông tin sử dụng phải rất thực
tiễn, chuẩn xác để có thể đưa vào điều chỉnh kịp thời;
- Đơn vị thực thi DA được thành lập trong tổ chức nhưng không có chức năng

hành chính.
Thực hiện DA :
Việc thực hiện DA được tiến hành thông qua người quản lý DA. Ban điều
hành sử dụng nguồn lực được cung cấp cùng với những nguồn lực sẵn có hoặc
bổ sung thêm để đạt các mục tiêu của DA. Đối với các tổ chức khác nhau, việc
thực hiện DA phải tính đến những yếu tố: cấu trúc tổ chức, mối quan hệ giữa
đơn vị thực hiện DA và tổ chức.
Quá trình thực hiện DA phải tuân theo tiến độ đã đưa ra. Mẫu biểu dùng
trong quản lý phải thống nhất. Nguồn lực được sử dụng theo kế hoạch và được
cung cấp theo các điều khoản đã được ký kết. Các báo cáo tiến độ thực thi và các
điều kiện bảo đảm cũng những khó khăn xuất hiện được gửi định kỳ đến các cơ
quan chức năng.
1.3. Tổng quan về DA GDĐH
1.3.1. Tổng quan về DA GDĐH Việt Nam
Để đạt được các mục tiêu cải cách GDĐH trong giai đoạn mới, chính phủ
Việt Nam với sự hỗ trợ tín dụng của Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) – Ngân
hàng Thế giới (WB) thực hiện DA GDĐH .
Mục tiêu của DA GDĐH chủ yếu dựa trên các nội dung sau đây:
= 14 =
- Nâng cao tính gắn kết, tính linh hoạt và thích ứng của hệ thống GDĐH đối
với các nhu cầu đa dạng, ngày càng cao của sự nghiệp phát triển KT -XH.
- Nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu của các trường ĐH
- Nâng cao hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực trong toàn hệ thống và trong
từng trường ĐH .
DA GDĐH gồm có 3 thành phần hợp thành, như sau:
Tên thành phần Nội dung của các thành phần
Thành phần 1: Hỗ trợ việc nâng cao năng lực quản lý, điều hành ở cấp hệ
thống và ở các trường ĐH (thuộc phạm vi DA )
Thành phần 2:
(Quỹ NCCL –

QIG)
Cung cấp tài chính nhằm hỗ trợ trên cơ sở cạnh tranh cho các
hoạt động nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo và
nghiên cứu của các ĐH mà phần chủ yếu là hoạt động tài
chính của Quỹ NCCL .
Thành phần 3: Hỗ trợ cho viêc điều phối, quản lý và thực hiện DA .
Trong đó:
Thành phần 1 gồm 3 bộ phận hợp thành:
- Hỗ trợ cho việc tăng cường năng lực quản lý, điều phối và giám sát ở cấp hệ
thống.
- Hỗ trợ cho việc tăng cường năng lực quản lý, điều phối và giám sát ở cấp
trường.
- Triển khai việc áp dụng công nghệ thông tin trong các trường ĐH .
Thành phần 2 được gọi là Quỹ NCCL. Quỹ NCCL được lập trên cơ sở một
khoản tiền trích từ vốn vay của Ngân hàng Thế giới để tài trợ cho các hoạt động
do các trường ĐH tiến hành nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo. Các khoản tài trợ từ Quỹ này chỉ trao cho các ĐH đủ tiêu chuẩn trên cơ
sở cạnh tranh để đáp ứng mục đích trên.
Các trường có đủ tiêu chuẩn đều có thể tham gia Quỹ NCCL. Các DA do các
trường ĐH đề xuất được gửi đến Ban đánh giá của DA để hội đồng xem xét trên
= 15 =
cơ sở khả năng cạnh tranh cao. DA được lựa chọn phải thoả mãn một số yêu cầu
như:
- Có chất lượng cao
- Nhất quán với mục tiêu tổng thể của DA GDĐH cũng như Kế hoạch chiến
lược của trường.
- Nhằm đạt được các kết quả trong việc nâng cao chất lượng trong giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học hoặc nâng cao tính hiệu quả và hiệu suất
trong quản lý và sử dụng nguồn lực.
Quỹ NCCL có thể hỗ trợ cho những chương trình nâng cao chất lượng với

các mục tiêu sau:
- Khuyến khích việc củng cố và phát triển các ĐH đa ngành.
- Cải tiến chương trình đào tạo, nâng cấp và trang bị mới thiết bị, cập nhật các
tài liệu giáo trình – hiện đại hoá phương pháp giảng dạy và chương trình đào
tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong thời kỳ đổi mới của
đất nước.
Quỹ NCCL có 3 mức tài trợ là: mức A, mức B và mức C. Một trường ĐH
đủ tiêu chuẩn tham dự có thể đề nghị và cũng có thể nhận được cả 3 mức tài trợ
A, B, C nếu các đề nghị thoả mãn các tiêu chuẩn đánh giá của từng mức.
Thành phần 3 nhằm trợ giúp năng lực về điều phối, thực hiện, mua sắm,
quản lý tài chính cùng với các dịch vụ tư vấn cần thiết để thực hiện DA . Thành
phần 3 đươc chia thành 3 thành tố:
- Ban Điều phối DA ;
- Các dịch vụ về mua sắm - đấu thầu;
- Các dịch vụ tư vấn về đơn xin tài trợ của Quỹ NCCL .
1.3.2. DA GDĐH với việc nâng cao chất lượng đào tạo của trường ĐH.
Bước vào thế kỷ XXI, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ
của KH - CN , sự phát triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và
toàn cầu hoá đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ giữa các nước
= 16 =
trở nên hiện thực hơn. KH - CN trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh
tế xã hội. GD là nền tảng của sự phát triển KH - CN, các nước đang phát triển
tiến hành CNH - HĐH đất nước, để theo kịp các nước phát triển bằng cách sử
dụng các thành quả của KH - CN của thế giới hiện đại, bằng việc phát huy tiềm
năng lao động dồi dào được đào tạo chất lượng cao.
Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương phải xây dựng cho được một nền kinh
tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cũng với sự phát triển
của thế giới, chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế tri thức tuân theo sự điều
tiết bởi cơ chế thị trường. Đào tạo ĐH trở thành một loại “sản xuất nguồn nhân
lực” cũng phải tuân theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và do đó

GDĐH không chỉ cần có chất lượng cao mà còn cần phải có hiệu quả cao và
hiệu suất cao. Chất lượng đào tạo ĐH được thể hiện qua năng lực của người
được đào tạo sau khi hoàn thành chương trình đào tạo.
Trong bối cảnh tình hình GDĐH đại chúng hoá cùng với áp lực cạnh tranh
quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế (nét nổi trội là kinh tế tri thức) kết hợp
với nhau làm thay đổi yêu cầu đối với chất lượng đào tạo trong TK 21.
Sự phát triển KT - XH ở Việt Nam nói riêng và của khu vực Châu Á Thái
Bình Dương nói chung đòi hỏi GDĐH Việt Nam cần có chiến lược để nâng cao
chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, phục vụ nhu cầu phát triển của xã
hội. Các trường ĐH trở thành nơi hội tụ, trao đổi kinh nghiệm về phát triển giáo
dục, KT - XH, hợp tác giao lưu văn hoá, khoa học – kỹ thuật của các nước trên
thế giới. Trong bối cảnh như vậy, việc tăng qui mô, đa dạng hoá loại hình, đồng
thời phải nâng cao chất lượng đào tạo đẩy các trường ĐH đứng trước thách thức
lớn do mâu thuẫn về gia tăng số lượng và chất lượng đào tạo, mâu thuẫn về yêu
cầu cơ sở vật chất, thư viện, trang thiết bị thí nghiệm và dạy học với ngân sách
đầu tư cho GD còn hạn hẹp.
GDĐH có sứ mệnh đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, nâng cao phúc lợi cho
mọi người, quản lý và điều hành xã hội, đáp ứng được sự phát triển của đất nước
= 17 =
mình và sớm hoà nhập vào thế giới. Trong khi đó, nhịp điệu thay đổi trong xã
hội ngày càng tăng nhanh do có tác động sâu sắc tới bản chất và vai trò các
trường ĐH. Việc cải cách GD đã trở thành một hiện tượng quốc tế. Quá trình cải
cách GD luôn luôn phải đương đầu với những định kiến lâu đời, bảo thủ của
người quản lý về cách thức quản lý, của cán bộ giảng dạy về phương pháp,
phương tiện dạy học, về nội dung chương trình giảng dạy trong trường ĐH.
GDĐH Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh như vậy. Chính phủ đã có các biện
pháp về phát triển GD trong thời kỳ 2001 - 2010 về tăng đầu tư ngân sách nhà
nước, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục…. Nâng tỷ lệ
chi cho GD trong ngân sách nhà nước từ 15% năm 2000 lên ít nhất 18% năm
2005 và 20% năm 2010; tranh thủ nguồn tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho GD

từ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), các tổ chức
quốc tế và các nước [5]. GDĐH với vị trí quan trọng riêng biệt của mình trong
hệ thống GD quốc dân và vị trí nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ
cao để thoả mãn nhu cầu phát triển của xã hội, nên hầu hết các nước trong khu
vực và trên thế giới, nhất là các nước có nền kinh tế phát triển luôn quan tâm đến
GDĐH. Thực tế cho thấy, thông qua cải cách, GDĐH ở những nước này mà
nguồn nhân lực đào tạo ra có trình độ, thích ứng với việc làm trong xã hội, năng
lực tự tạo việc làm cho mình và cho người khác. Sản phẩm của GDĐH thời kỳ
mới là nguồn nhân lực có chất lượng cao và thực sự giữ vị trí vô cùng quan
trọng, nếu không nói là hàng đầu trong việc phát KT - XH và xây dựng đất nước.
DA GDĐH ra đời góp phần hỗ trợ kinh phí cho GDĐH Việt Nam thực
hiện nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản đã đề ra.
1.3.3. Các dự án giáo dục ở Việt Nam
GD ở Việt Nam đã và đang nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài (DA GD
tiểu học thông qua vay tín dụng IDA hiện đang được tiến hành; DA về GD
trung học thông qua một DA của Ngân hàng Phát triển Á Châu – ADB). Tuy
nhiên, Chính phủ không thể giải quyết tất cả các vấn đề ở trên và cần sự hỗ trợ từ
= 18 =
bên ngoài để khởi xướng những sự thay đổi đáng kể trong hệ thống GDĐH. Bản
báo cáo phân tích được tiến hành giữa Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế
giới đã cho thấy những vấn đề thuộc lĩnh vực này có liên quan đến hai vấn đề
chủ yếu: (i) thiếu sự điều phối và gắn kết trong hệ thống GDĐH với tính chất là
một tổng thể; và (ii) thiếu sự tự chủ, sự tự chịu trách nhiệm, năng lực quản lý và
giảng dạy ở cấp nhà trường. Hai vấn đề cơ bản này bản thân chúng đã được thể
hiện theo 3 cách sau đây: (a) thiếu sự đáp ứng của hệ thông GDĐH với những
nhu cầu đòi hỏi đang được thay đổi của xã hội và của nền kinh tế thị trường; (b)
hiệu quả thấp của GDĐH; (c) chất lượng nghèo nàn của GDĐH. Sự tác động của
Ngân hàng Thế giới vào lĩnh vực GDĐH tập trung chủ yếu vào những vấn đề
trên và hướng vào những vấn đề có liên quan ở trong lĩnh vực GDĐH.
Các Bộ ngành ở Trung ương và Bộ GD - ĐT đã thể hiện khả năng của

mình trong việc hình thành và thực hiện các chính sách cải cách GDĐH trong
quá trình DA. Bộ GD - ĐT có một số kinh nghiệm trong việc quản lý việc thực
hiện các DA phát triển của các nhà tài trợ lớn.
DA GDĐH là một DA được xây dựng trên một giả thuyết mới: tăng cường
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với mỗi trường ĐH trong lĩnh vực GDĐH.
Mục tiêu dài hạn của DA này là tăng cường năng lực điều phối và sự gắn kết của
nền GDĐH ở cấp hệ thống cũng như việc xây dựng năng lực, sự tự chịu trách
nhiệm (thông qua các báo cáo định kỳ, công khai gửi đến Ngân hàng Thế giới)
và tính tự chủ ở cấp trường.
Tồn tại những vấn đề của GDĐH trong thời kỳ mới chuyển đổi nền kinh tế
thị trường gồm có: (i) Sự không có hiệu quả về mặt kinh tế gây nên bởi số lượng
lớn ở các trường ĐH chuyên ngành sâu, nhỏ về qui mô và đơn ngành; (b) dàn
trải sự trợ cấp của Chính phủ cho các sinh viên ĐH; (c) các trường ĐH bị chia
mảng và chuyên môn hoá với cấu trúc tổ chức nhà trường và thủ tục quản lý
được kế thừa từ thời kế hoạch hoá tập trung, tính tự chịu trách nhiệm thấp và sự
tự chủ của từng trường ĐH là yếu với sự quan sát của bộ chủ quản cụ thể; và (d)
= 19 =
sự đáp ứng chậm chạp của GDĐH đối với các nhu cầu thay đổi của đất nước. Tất
cả những thực trạng trên là do chất lượng và nội dung GD hiện đang được các
trường ĐH cung cấp.
Chính phủ công nhận là GDĐH đã có sự đóng góp có ý nghĩa để đạt được
những cải cách kinh tế trong những năm cuối của thập kỷ 80 và những thành tựu
đạt được trong thời kỳ đó đã có tác đông mạnh mẽ đối với sự phát triển của đất
nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề yếu kém về mặt tổ chức, quản lý
nhà trường trong GDĐH vẫn còn chưa được đề cập một cách thoả đáng và Chính
phủ tìm kiếm sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế khác để
đề cập đến vấn đề này và để điều chỉnh những nỗ lực trong việc giải quyết những
vấn đề khác của lĩnh vực GDĐH. Trên cơ sở những thực trạng về GDĐH, Chính
phủ đã cố gắng đưa ra các chiến lược phát triển GDĐH bằng cách (a) tăng cường
hiệu quả thông qua việc hợp nhất một số trường ĐH chuyên ngành thành các

ĐH đa ngành; (b) đã đưa ra chế độ học phí đối với sinh viên đồng thời cung cấp
học bổng trên cơ sở kết quả học tập và nhu cầu của sinh viên nghèo, đồng thời
tạo cơ hội học tập cho sinh viên nghèo bằng cách tạo cơ hội để sinh viên nghèo
có thể tiếp cận được với hệ thống tín dụng, vay tiền để đảm bảo sự công bằng
trong việc nhập học ĐH; (c) chuyển từ ĐH tinh hoa sang đào tạo đại chúng, cho
phép thành lập các ĐH gần như là tư thục (ĐH dân lập); và (d) cấu trúc lại tổ
chức giảng dạy trong một số trường ĐH lớn bằng cách chuyển sang đào tạo theo
moduyn/tín chỉ đã được xác định trong khuôn khổ văn bằng quốc gia đã được đề
ra.
Tăng cường công tác QLTH DA GDĐH với mục đích đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng GDĐH đối với chất lượng, số lượng nguồn nhân lực phục
vụ cho đất nước trong thời kỳ mới.
Theo điều 39 Luật GD 2005 “Mục tiêu của GDĐH và sau ĐH là đào tạo
người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến
= 20 =
thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức
khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”[36].
Trong xu thế hội nhập, dù muốn hay không thì Việt Nam cũng phải chịu
sự tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá. Trong Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xác định 4 nguy cơ tụt hậu mà trong đó nguy
cơ tụt hậu về kinh tế được nhấn mạnh, để phát triển về kinh tế thì không có con
đường nào khác là phải đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng, đạt về chất
lượng phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. DA GDĐH với các mục tiêu
chính được thiết kế phù hợp với yêu cầu đổi mới GDĐH, đáp ứng yêu cầu xã hội
đặt ra. Chính vì vậy, tăng cường QLTH DA GDĐH là hết sức cần thiết, nhằm
thực hiện tốt các mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong trường
ĐH .
1.4. Sự cần thiết của việc tăng cường quản lý DA trong GD ĐH
DA GDĐH là DA đầu tiên về GDĐH dùng vốn vay của Ngân hàng Thế giới và
là DA thứ hai về GD có sự hỗ trợ từ các ngân hàng quốc tế về nguồn kinh phí để

thực hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm
về QLTH DA GDĐH tương tự ở các nơi khác trên thế giới. [56] Các DA ở
Hungary và Achentina đã thành lập các khoản tài trợ tăng cường cho các trường
có đủ tiêu chuẩn để khuyến khích cho việc tăng cường chất lượng, đạt hiệu quả
và sự trong sáng trong cơ chế tài trợ cho các tổ chức GDĐH . Các DA của
Achentina và Inđônesia có các thành phần chú trọng đến: (i) sự phát triển nhà
trường, (ii) tăng cường việc xây dựng kế hoạch và quản lý; và (iii) tăng sự chịu
trách nhiệm về tài chính và khoa học. Những bài học đã học được từ các kinh
nghiệm của quản lý và thực hiện DA từ các nước trên cho thấy là để hướng vào
các vấn đề tương tự về chất lượng GDĐH, hiệu quả và sự đáp ứng đối với nền
kinh tế, việc tăng cường QLTH DA là thích đáng.
= 21 =
Bảng 1: Danh sách một số DA lớn về GDĐH được Ngân hàng Thế giới/ tổ
chức phát triển tài trợ (đã hoàn thành, đang thực hiện và đang có kế hoạch
thực hiện).
TT Vấn đề thuộc lĩnh vực DA
1 Tăng cường sự đáp ứng của GDĐH đối
với nền kinh tế thị trường
Hungary: Nguồn nhân lực
2 Thành lập môi trường cạnh tranh để tăng
cường GDĐH
Achentina: DA cải cách
GDĐH
3 Tăng cường chất lượng và công tác quản
lý trong các trường ĐH của các tỉnh
Trung Quốc: Các trường
ĐH của các tỉnh
4 Mở rộng và tăng cường nhân lực quản lý
và kỹ thuật
Trung Quốc: Phát triển

trường ĐH II
5 Tăng cường chất lượng và hiệu quả Inđônexia: GDĐH II
Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THỰC HIỆN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
2.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của trường Đại học Vinh
= 22 =
Trường ĐH Vinh được thành lập năm 1959 với tên gọi là Phân hiệu ĐHSP
Vinh, theo Nghị định 375/NĐ của Bộ GD (nay là Bộ GD - ĐT ), là trường
ĐHSP thứ 2 của nước Việt Nam Dân chủ Công hoà. Phân hiệu ĐHSP Vinh được
đặt tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm đầu tiên thành lập, trường có 17 cán
bộ, công chức và 158 sinh viên thuộc hai ban Toán - Lý và Văn – Sử. Sau 3 năm
xây dựng và trưởng thành, ngày 28/8/1962, Bộ trưởng Bộ GD ký quyết định số
637/QĐ đổi tên Phân hiệu ĐHSP Vinh thành Trường ĐHSP Vinh. Qua quá trình
xây dựng và phát triển, sau gần 42 năm kể từ ngày thành lập, ngày 25/4/2001,
Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 62/2001/QĐ-TTg đổi tên trường ĐHSP
Vinh thành trường ĐH Vinh và giao nhiệm vụ cho trường:
- Đào tạo giáo viên có trình độ ĐH và từng bước mở thêm các ngành đào tạo
khác phù hợp với khả năng của Trường và nhu cầu nhân lực của xã hội;
- Nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển KT - XH.
Hiện nay, Trường Đại học Vinh có 18 khoa đào tạo với 34 ngành, 64 tổ bộ
môn, gần 23 nghìn học sinh – sinh viên, 1 khối phổ thông chuyên Toán – Tin, 15
đơn vị Phòng, Ban, Trung tâm và các đơn vị phục vụ trực thuộc Trường, khoa
Đào tạo Sau ĐH có 31 chuyên ngành đào tạo Thạc sỹ, 09 chuyên ngành đào tạo
Tiến sỹ, với gần 798 cán bộ, công chức, trong đó cán bộ công chức hành chính
306 chiếm khoảng 38%, cán bộ giảng dạy 492 chiếm gần 62% gồm: 2 Giáo sư,
28 Phó giáo sư, 4 giảng viên cao cấp, 4 giáo viên phổ thông trung học cao cấp,
89 tiến sỹ, 113 giảng viên chính, 261 thạc sỹ, số còn lại có trình độ ĐH và CĐ,
trong đó số công chức dưới trình độ ĐH và CĐ là 90.
Từ ngày thành lập đến nay Trường đã đào tạo được 42 khoá sinh viên,

cung cấp hàng ngàn giáo viên cho các trường ĐH , cao đẳng, các trường THPH
và nhiều cán bộ khoa học, cán bộ quản lý cho các ngành, các cấp và các cơ sở
đào tạo khắp cả nước.
Trong những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, Nhà trường đã đón trước
được yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, cùng với sự dịch chuyển cơ
= 23 =
cấu kinh tế, đặc biệt là đối với địa phương và khu vực Bắc Trung bộ. Trong
những năm qua, trên cơ sở ổn định củng cố và phát triển đào tạo ngành sư phạm,
Trường đã mở rộng, đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhằm không ngừng đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên các cấp có trình độ ĐH, đẩy
mạnh đào tạo sau ĐH. Nhiều năm liền Trường đã liên kết với các Trường ĐH
trên cả nước mở các ngành đào tạo như: Kỹ sư điện, điện tử – tin học, cử nhân
quản trị kinh doanh, hoá công nghệ thực phẩm, kỹ sư xây dựng dân dụng và
công nghiệp, luật kinh tế, kỹ sư nuôi trồng, kỹ sư chế biến thuỷ sản, …. Tính đến
nay, ngoài ngành sư phạm, Trường đã cung cấp cho các ngành KT - XH hàng
ngàn kỹ sư nuôi trồng, chế biến thuỷ sản, điện điện tử – tin học, hoá công nghệ
thực phẩm và hàng trăm cử nhân luật kinh tế, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại
ngữ, tin học cho hàng vạn người thuộc các thành phần xã hội, thực hiện chuẩn
hoá và đào tạo hàng trăm học viên cao học cấp bằng thạc sỹ và đào tạo hàng
chục nghiên cứu sinh cấp bằng tiến sỹ.
Hoạt động NCKH của Trường cũng đã triển khai có hiệu quả, nhiều đề tài
cấp Nhà nước, cấp Bộ được đánh giá cao, hàng năm 100% giảng viên có đề tài
nghiên cứu khoa học các cấp. Trong 5 năm qua, cán bộ khoa học trường đã thực
hiện thành công 12 đề tài cấp Nhà nước, 104 để tài cấp Bộ, nhiều đề tài cấp tỉnh.
1059 tài cấp cơ sở (cấp trường, cấp khoa), xuất bản hàng trăm giáo trình, tài liệu
tham khảo và đã công bố hàng ngàn bài cáo trên các tạp chí khoa học có uy tín
trong và ngoài nước. Là một trường ĐH lớn của khu vực Bắc miền Trung, các
đề tài NCKH của Trường phần lớn đã gắn với địa phương và cơ sở sản xuất như
đề tài nghiên cứu con người Nghệ An, khu bảo tồn thiên nhiên Phù Mát, ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý Nhà nước…

Hoạt động HTQT của trường ĐH Vinh trong những năm qua được đẩy
mạnh, Tháng 12 năm 2003, Trường đã thành lập phòng Quan hệ Quốc tế. Hiện
tại, Trường đã thiết lập được mối quan hệ với các trường ĐH, viện nghiên cứu
= 24 =
trong nước và trên thế giới như Lào, Thái Lan, Hàn quốc, Pháp, Đức, Canada,
Na-uy, Hà Lan, các nước trong khối Liên xô và Đông âu (cũ)…
Thông qua các quan hệ hợp tác nhiều mặt với các tổ chức trong và ngoài
nước, nhất là các tổ chức quốc tế, Nhà trường thường xuyên nhận được sự trợ
giúp hỗ trợ về mặt KH - KT, NCKH, tài chính…. Nhiều DA như : DA GDĐH ,
DA nghiên cứu xoá đói giảm nghèo, DA công nghệ sinh học, DA công nghệ
thông tin … đã và đang triển khai có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo ĐH , đồng thời tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các
phòng thí nghiệm cũng như các giảng đường dạy học, Trung tâm Thông tin –
Thư viện.
Chiến lược phát triển của ĐH Vinh từ nay đến năm 2010 là “xây dựng nhà
trường trở thành một trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực có uy tín”. Để làm
được điều này, trường tập trung mở rộng quy mô cùng với nâng cao chất lượng
đào tạo đang là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi vậy, trường luôn tìm các biện
pháp đổi mới và hiện đại hoá nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy và
cơ sở vật chất kỹ thuật.
Trường ĐH Vinh đang tập trung mọi nỗ lực để nâng cao chất lượng đào
tạo toàn diện đối với tất cả các ngành và các hệ đào tạo trong trường. Nhà trường
huy động mọi nguồn lực để hỗ trợ cho GD - ĐT. Một trong những hỗ trợ có hiệu
quả đó là các DA đầu tư hỗ trợ về tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học đổi mới phương pháp giảng dạy… Các DA được thực hiện sẽ góp phần
quan trọng trong việc tăng cường năng lực cho Trường ĐH Vinh nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nhân lực KH - CN, đẩy mạnh hoạt động NCKH, ứng dụng
KH - CN tiến bộ vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Đây sẽ là sự đột phá cho
quá trình chuyển đổi theo hướng đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở một
môi trường học tập và giảng dạy hiện đại, phát huy sáng tạo và gắn với thực tiễn

phát triển của các địa phương trong khu vực của Trường ĐH Vinh.
2.2. Thực trạng QLTH DA GDĐH ở trường ĐH Vinh:
= 25 =

×