Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử Triết học phương Đông cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.35 KB, 7 trang )

Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử Triết học phương Đông cổ đại
(Võ Hoàng Anh Minh; MSSV: 0856070029)
Đề bài: Trong quá trình bình chú và chú giải Veda sự xuất hiện kinh Upanisad đánh
dấu bước chuyển từ tư duy thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học, bằng nội dung tư
tưởng của Veda và Upanisad, anh chị hãy chứng minh luận điểm trên.
Bài làm
Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, cũng chính là lúc họ bắt đầu tìm cách nhận
thức về môi trường sống xung quanh mình, về chính bản thân và khám phá những năng
lực của nội tâm hay nói khác hơn là tìm hiểu và lý giải về vũ trụ và nhân sinh.
Dù sớm hay muộn thì trên tất cả các nên văn minh trên thế giới đều đi tìm ẩn số
trong bản thân con người, nhưng sớm nhất trên thế giới thì phải kể đến Ấn Độ. Một nơi
tôn giáo phát triển rất mạnh. Vì nó là nơi tôn giáo xuất hiện sớm nhất trên trái đất này,
đồng thời cũng là nơi nhiều tôn giáo nhất. Trong khi đạo Bà La Môn ở Ấn Độ được sùng
bái ở thế kỷ thứ X TCN thì hình như trên thế giới này chưa có nơi nào có bóng dáng của
tôn giáo. Sự ra đời của tôn giáo trong lịch sử nhân loại không phải là bước lùi mà là một
bước tiến:
“Sự phát triển của lịch sử nhân loại chứng tỏ rằng tôn giáo tôn giáo là hiện tượng xã
hội mà nhân loại phát triển đến giao đoạn nào đó mới có được. Trong buổi đầu của xã hội
loài người chưa thể có tôn giáo. Từ chỗ chưa có tôn giáo đến khi có tôn giáo ra đời đã
đánh dấu một bước tiến của nhân loại”
Ngoài Bà La Môn giáo ra, Ấn Độ có rất nhiều tôn giáo khác. Nhưng có lẽ, Bà La
Môn giáo là ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến đời sống của người dân Ấn Độ từ xưa tới nay.
Nền tảng của nó chính là những bộ thánh kinh Veda.
Thánh kinh Veda được ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Người dân Ấn Độ
cổ đại phải sống trong điều kiện tự nhiên rất phức tạp, địa hình đa dạng, chính những thế
lực này đè nặng lên tâm trí họ. Họ không thể lý giải được thiên hình vạn trạng của thế
giới tự nhiên, họ bắt đầu sợ hãi. Với tính chất huyền bí như vậy nên khi cố giải thích thế
giới tự nhiên, người Ấn Độ cổ đã thần thánh hóa thế giới tự nhiên. Họ dùng những câu ca
dao, vịnh phú mô tả vẻ đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ, những tập tục, lễ nghi, quan
điểm và những bài thánh ca, ca ngợi các đấng thần linh, tập hợp tất cả những câu ca dao,
vịnh phú trên là bộ thánh kinh Veda.


Theo các học giả hiện nay, thánh kinh Veda xuất hiện khoảng thế kỷ XV TCN,
nhưng mãi đến những năm X-VIII TCN, nó mới được sưu tập và biên chép lại bằng một
tiếng Phạn cổ. Veda bắt nguồn từ căn tự “vid” có nghĩa là tri thức, hiểu biết. Kết cấu của
Veda có hai cách hiểu, hiểu theo nghĩa hẹp và ngịa rộng.
Theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các Samhita. Bao gồm:
1)Rig Veda: tri thức về các thánh ca tán tụng. Có 1028 bài, 10580 câu thơ xuất hiện
thế kỷ XV-X TCN.
2) Sama Veda: tri thức về các giai điệu. Có 1549 câu thơ.
3) Yajur Veda: tri thức về các lời khấn khi tế lễ.
4) Atharva Veda: tri thức về thần chú.
Bốn loại Veda trên được gọi chung là Tứ Veda.
Trong những bộ Veda đầu tiên coi nặng về tôn giáo, nhẹ về triết lý. Triết lý chỉ xuất
hiện dưới dạng mầm mống phôi thai, nhưng lại cực kỳ quan trọng, bởi vì hầu hết những
dòng sông triết học ở Ấn Độ đều từ suối nguồn này mà ra. Trong Rig Veda có thể thấy
những suy tư ban đầu về triết học như bản nguyên, bản tính vũ trụ, quan hệ giữa vĩ mô và
vi mô, linh hồn và hơi thở.
Về vấn đề bản nguyên, trong Rig Veda đã ít nhiều đề cập đến nó, có nhiều thuyết
khác nhau hình thành nên thế giới, bản nguyên của thế giới là nước, đến nhiệt là động
lực..., hoặc vũ trụ, thần linh, con người cũng như vạn vật đều từ quả trứng vàng sinh ra...
Khi đã có thế giới thì cái gì chi phối hoạt động của thế giới này? Người Ấn Độ cổ đã
lý giải là thế gian này tồn tại theo sự chi phối của một lực vô hình nào đó. Lục vô hình đó
RigVeda mệnh danh là nguyên tắc Rita của vũ trụ. Nguyên tắc này điều khiển vạn vật
theo quỹ đạo nhất định. Nó được ví như khái niệm Ý Niệm của Plato, có điều nó xuất
hiện sớm hơn nhưng vẫn còn dưới dạng sơ khai.
Rig Veda đã suy tư về quan hệ giữa thế giới vĩ mô và vi mô, quan hệ giữa tự nhiên
và con người. Rig Veda không phân chia con người và tự nhiên thành chủ thể và khách
thể mà đồng nhất con người và tự nhiên.
Trong Rig Veda còn đề cập đến linh hồn và hơi thở của con người. Hơi thở gắn liền
sự sống, có nghĩa là gắn liền với linh hồn. Hơi thở đối với con người vô cùng quan trọng,
người ta có thể nhịn ăn, nhịn uống tương đối lâu nhưng không nhịn thở lâu được. Người

sống khác với người chết là người sống còn thở, kể cả trong lúc ngủ. Cho nên “nó không
bao giờ ngủ trong cơ thể của người đang ngủ” “ hơi thở không rời khỏi người sống, kể
khi đang ngủ, nhưng linh hồn có thể rời khỏi thể xác trong giấc mơ”.
Veda theo nghĩa rộng bao gồm Samhita(Tứ Veda), Brahmana, Aranyaka và
Upanisad.
Brahmana: Phạm Thư, giải thích các quy tắc, nghi thức tế tự.
Aranyaka: Sâm lâm thư, do các Bà La Môn truyền thụ trong rừng, nộ dung chủ yếu
làm rõ mặt lý luận việc cúng tế còn đề cập đến những ý tưởng triết học như đâu là cứu
cánh vũ trụ, đâu là cứu cánh con người...
Upanisad: Áo Nghĩa Thư, kinh sách bình chú có tích chất tôn giáo-triết học, giải
thích ý nghĩa triết lý sâu xa của các kinh Vede.
Như vậy, sự xuất hiện của Upanisad đánh dấu bước chuyển từ thế giới quan thần
thoại sang tư duy triết học. Trong khi Tứ Veda thiên về con đường thờ phụng, cầu
nguyện để tìm cách thể nhập với đấng tối cao thì Upanisad muốn khai phá con đường trí
tuệ để lý giải vấn đề bản thể vũ trụ và cảnh giới nội tâm. Tuy nhiên, Upaniṣad không
hoàn toàn bác bỏ những điều đã nêu trong Veda mà trái lại là một sự triển khai và hoàn
tất hoàn hảo hơn.
Nhìn chung, quan niệm về sự sáng tạo này mang tính thần thoại nhiều hơn, nó phản
ánh trình độ hiểu biết sơ khai mông muội của con người thời đó, và quan niệm về các
thần linh cũng là hệ quả tất yếu của sự chưa phát triển khoa học.
Về thời gian xuất hiện, các học giả cho rằng vào thế kỷ VIII-V TCN, đây là thời kỳ
đặc biệt của nhân loại mà Karl Jaspers đã mệnh danh là “thời đại trục”, thời kỳ con người
rủ bỏ tấm áo thần thoại tôn giáo để tiến đến vương quốc tư duy triết học.
Từ Upanisad bắt nguồn từ gốc “upa” là bên cạnh, kề cận, “ni” nhiệt thành và “sad”
có nghĩa ngồi xuống, tiêu diệt, phá hủy và nới lỏng. Do đó, Upanisad có nghĩa là các môn
đồ ngồi xuống bên cạnh thầy mình, với lòng nhiệt thành để đón nhận những lời giáo huấn
về hiện thực cao cả, giúp trút bỏ hoài nghi và tiêu diệt vô minh. Upanisad có nhiều loại,
nhiều khuynh hướng và nhiều niên đại khác nhau vì nó tập hợp tư tưởng của nhiều triết
gia, đạo sĩ trong những hoàn cảnh và thời gian khác nhau, cho nên tư tưởng triết học
không phải lúc nào cũng thể hiện một cách rõ ràng, thống nhất. Thậm chí, Upanisad có

nhiều chỗ vô lý, mâu thuẫn, ngây thơ, đôi khi mông lung như tư tưởng của Hegel, nhưng
cũng có những chỗ ẩn dấu những tư tưởng triết lý sâu sắc nhất trong lịch sử. Tuy nhiên,
những vấn đề triết học biểu hiện chủ yếu trong Upanisad như: Brahman, Atman, luân hồi-
nghiệp báo, giải thoát...
Brahman tiếng Sankrit có nghĩa là Thánh trí, Thần lực…, xuất phát từ căn tự “ Brah”
có nghĩa là vuơn lên, ý nói đến một thực tạu tuyệt đối tối cao vĩnh hằng và bất diệt.
Trong Phạm Thư, quan niệm đa thần giáo đã được thay thế bằng nhất thần giáo.
Đấng Brahman là vị thần tối cao sáng tạo ra thế giới. Đến Upanisad, Brahman được trừu
tượng hóa, siêu hình hóa lên một bước
Brahman là căn nguyên tối cao hình thành nên vũ trụ. Trong Taittiriya, Brahman
được định nghĩa là nơi mà vạn vật sinh ra, nhờ đó mà vạn vật sinh truởng, cái trong đó
mọi vật nhập vào sau khi tiêu tan. Sự tiến hóa các yếu tố được trình bày trong học thuyết
năm lớp vỏ bọc trong Taittiriya. Cấp thấp nhất là vật chất, nó vô thức , vô hồn và không
có sự sống. Nhưng nếu không có vật chất thì không có sự sống, vật chất là công cụ hòan
thành mục đích của Brahman. Trạng thái thứ hai là sự sống, nó tràn ngập vũ trụ và ràng
buộc con người vào phần còn lại của thế giới. Trạng thái thư ba chính là bản năng và hoạt
động phản xạ, giai đoạn nhận thức bản năng đi vào hồi kết, khi nó tiến triển nguyên lý
cao hơn, giúp sự nhận thức trở thành tự ý thức dựa trên lý trí. Do đó, trạng thái thứ tư là
nhận thức lý trí. Trạng thái này chỉ có ở con ngừơi, nghệ thuật, tôn giáo, triết học, đạo
đức…chỉ có thể xuất hiện ở giai đoạn này. Trạng thái thư năm hay là trạng thái cao nhất
của sự tiến hóa chính là niềm hạnh phúc không nhị nguyên, hiện thực tối cao vuợt lên tất
cả và là nền tảng cơ sở của tất cả. Cái thấp không bị mất đi hay tiêu diệt, nó đơn thuần chỉ
chuyển hóa thành cái cao hơn. Vật chất không bị mất đi trong sự sống, sự sống không
mất đi trong bản năng, bản năng không mất đi trong lý trí, lý trí không mất đi trong hạnh
phúc. Brahman bao trùm tất cả chúng. Nó kiểm soát tinh thần nội tại và bản ngã của tất
cả. Như tất cả các căm xe ở trục xe và bánh xe chi phối tất cả chúng, chứa đựng trong
chúng, tất cả sự sống, thế giới, đều đựợcchứa trong bản ngã vũ trụ là Brahman. Nó tự tỏa
sang, bất tử, là chỗ dựa của mọi thế giới, cao nhất và sau nó không còn gì.
Kế thừa truyền thống Veda, Upanisad dùng phương pháp phủ định để khẳng định
Brahman. Bởi vì muôn vàn hiện tuợng trên thế gian đều là biểu hiện của Brahman nhưng

Brahman không phải như vậy. Cho nên con người không thể nhận thức được Brahman
theo logic thông thường, cũng không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả ngài. Cho dù dùng
mọi ngôn ngữ trên thế gian cũng không thể nói được bản chất thật Ngài là gì, cũng giống
như một nguời chưa bao giờ uống nước cho dù dùng mọi lời nói để diễn tả cho nguời đó,
người đó cũng không thể hiểu được mùi vị của nuớc là gì, trừ khi nguời ấy đích thân
uống ly nuớc thì sẽ cảm nhận được, lúc này ngôn ngữ sẽ trở nên vô nghĩa. Chính vì vậy
trong Brhadaranya Upanisad nói rằng “ đó là cái mà Bà La Môn gọi là bất diệt. Nó không
phải là thô kệch, không phải là nhỏ nhắn, không dài không ngắn, không đỏ, không uớt,
không hình, không bóng, không phải gió, không phải khoảng không, không dính, không
mùi, không vị, không măt, không tai, không lời , không có cảm giác, không có sức nóng,
không có hơi thở hoặc không có miệng, không đo đếm được, không có trong, không có
ngoài, nó không ăn được gì và cũng không có gì ăn được nó” (III, 8.8).
Đồng thời lại khẳng định rằng: “ đó chính là Brahman, đó chính là sinh chủ, hết thảy
chư vị thiên thần,…., bât luận là vật gì đều nhờ Thức chăn dắt. Thế giới này dựa vào
Thức, được Thức chăn dắt. Thức là Brahman” ( Aitareya Upanisad, V.3)
Sự khác biệt giữa mặt ẩn và mặt hiện của Brahman cũng giống như sự khác biệt giữa
bản chất và hiện tượng, giống như hình với bóng, nước với sóng. “ Brahman có hai biểu
hiện: biểu hiện ra hình thể và không có hình thể,…., biểu hiện tồn tại ở đây và tồn tại ở
kia” ( Brhadaranya Upanisad, II, 3.1”
Một khái niệm thường gặp ở Veda là Atman, nó là bản ngã cá nhân, là hỗn hợp của
cái thực và cái không thực, là nút thắt của tồn tại và không tồn tại, là sự kết nối của cái
đúng và sai.
Từ Atman nghĩa gốc là hơi thở của sự sống, dần dần mang nghĩa cảm xúc, trí tuệ,
linh hồn và tinh thần. Đó chính là sự phát triển của các thời kỳ kinh Veda, cái sau thừa kế
và phát triển cái trước. Trong Brahmana, Atman dùng để chỉ cho các bộ phận trong cơ
thể nguời như máu, thịt, xương… Trong Aranyaka, Atman vừa là các bộ phận của con
nguời hoặc hơi thở, vừa là nguyên lý sáng tạo vạn vật. Như vậy Atman vừa là tiểu ngã,
vừa là đai ngã. Đến Upanisad, Atman được xem là linh hồn của vạn vật. Shankaracharya
có câu thơ nói đến những ý nghĩa khác nhau của Atman , Atman là cái tràn ngập khắp
nơi, là chủ thể và hiểu biết, trải nghiệm và soi rội khách thể, nó bất tử và luôn luôn bất

biến.
Bản ngã là chủ đề nghiên cứu chính trong Upanisad. Trong Chandogya, sự phát triển
của khái niệm bản ngã từ thực tế, hoặc trong giấc mơ, hay thực nghiệm và bản ngã trong
giấc ngủ say không mộng mị, cuối cùng đến bản ngã tuyệt đối. Prajapati dạy Indra rằng
“Thể xác không phải là bản ngã mặc dù nó tồn tại cho bản ngã. Những gì trãi nghiệm
trong giấc không phải là bản ngã, dù nó chỉ có ý nghĩa khi nói đến bản ngã…Bản ngã là
nền tảng của trạng thái mơ, ngủ, tỉnh và còn vượt ra khỏi các trạng thái đó. Bản ngã phổ
biến khắp nơi chẳng khác gì siêu nghiệm. nó bất tử tự tỏa sáng, tự chứng minh.” Cũng
như Brahman, bản ngã không thể nhìn thấy bằng các nhận thức cảm tính, lý tính mà phải
bằng con đường thực nghiệm tâm linh. Những gì chúng ta thấy qua cảm giác, lý trí chỉ là
tập hợp thoáng qua của những tính chất, bản sao rải rác mà không phải là bản ngã thật sự.
Việc Prajapati nhấn mạnh bản ngã thật sự là chủ thể cuối cùng, là nguyên lý cơ bản của
mọi tri thức, là sự hiểu biết thuần khiết tự tỏa sáng, mà bản thân nó biểu lộ như là chủ thể
và khách thể, vừa là cái tôi vừa không phải tôi, đồng thời vượt qua sự phân chia này. Lúc
này Atman đã đồng nhất với Brahman. “ đây là linh hồn trong tâm của ta, nó nhỏ như hạt
gạo, hạt lúa mạch, cọng cải, cọng lúa, hạt nếp. linh hồn này ở trong ta lớn hơn trời, hơn
đất, hơn không trung, hơn thế giới vạn hữu này” ( Chandogya,III, 14.3)
“ Tất cả cái này là Atman “ ( Chandogya, VII, 25.2)
“ Trước tiên chỉ có Atman “ ( Aitareya,II, 1)
Upanisad cho rằng Brahman là đại vũ trụ, còn Atman là tiểu vũ trụ. Cùng một hiện
thực nhưng từ khía cạnh chủ quan là Atman, khía cạnh khách quan là Brahman. Brahman
và Atman bản chất going nhau, tựa như không khí trong cái bình và không khí ngoài cái
bình là như nhau. Deussen nói rằng “ chính ở đây, lần đầu tiên trong những nhà tư tưởng
trong Upanisad, bằng tấm lòng thành kính vô biên, đã tìm thấy điều đó khi họ nhận thức
được Atman-bản chất cá nhân sâu thẳm nhất của chúng ta, Brahman-bản chất sâu thẳm
nhất của bản tính vạn vật và tất cả hiện tượng của nó.” Câu nói nôit tiếng trong Upanisad,
“ ta là Brahman”, “Atman là Brahman”, “ Ta hạnh phúc bất nhị”…Nói tóm tại, bản ngã
cá nhân không phải là một cá nhân nào mà là toàn bộ, nó đạt đến trình độ Phạm-Ngã
đồng nhất. Nó cũng giống như khái niêm Thiên-Nhân hợp nhất vào thời nhà Hán Trung
Quốc. Cả hai đều dùng cái siêu nhiên để giải thích cái tồn tại duới đất. Nhưng Phạm-Ngã

đồng nhất hướng con người lên trời, còn Thiên-Nhân hợp nhất hướng con người xuống
đất. Triết học phương Đông không phân chia rõ ràng giữa con người và tự nhiên, họ lấy
quy phạm luân thường đạo lý của xã hội áp đặt cho quy luật khách quan của thế giới tự
nhiên, lấy tự nhiên được luân thường đạo lý hóa thay thế cho tự nhiên khách quan hóa.
Chính từ luận điểm này, nên phương Đông nhận thức tự nhiên để sống hòa đồng với tự
nhiên, hay đồng nhất bản ngã với siêu nhiên hay Atman đồng nhất với Brahman.
Will Durant tóm lược quan điểm triết học quan trọng nhất trong Upanisad, Atman và
Brahman có 3 giai đoạn:
Giai đoạn thư nhất: Atman là cái vô hình, vô thanh ở trong nội tâm ta, sâu thẳm
không phải là tinh thần, thể chất…
Giai đoạn thư nhì: Brahman là bẻn thể thế giới không đụng chạm được…, Atman là
linh hồn của mọi linh hồn, nó là sức mạnh duy nhất vượt ra khỏi, vừa trên vừa duới các vị
thần…
Giai đoạn thứ ba, quan trọng hơn cả: Atman và Brahman chỉ là một. Linh hồn hoặc
sức mạnh ở trong hòa đồng với linh hồn của thế giới. Vượt ra khỏi tất cả hình thức, ở
phía sau tất cả các giả tướng, thì chủ thể và khách thể chỉ là một, chính chúng ta-xét về
mặt thực thể phi cá tính hóa, và Thượng đế- bản thể của vạn vật, chỉ là một Thiên nhân
đồng thể, hợp nhất…
Ở Veda, vấn đề bản nguyên vũ trụ đã được hình thành nhưng đó chỉ là những quan
niệm về những vị thần sáng tạo thế giới, đó là lực lượng siêu nhiên, đến Upanisad quan
điểm duy vật về bản nguyên vũ trụ đã được phát triển.
Thứ nhất, bản nguyên vũ trụ là một dạng vật chất cụ thể. Những dạng vật chất cụ thể
như:
Đất: “ Brahman cũng từ đất mà ra nhưng lại không ở trong đất, cho nên đất không
biết được. Brahman lấy đất làm thân thể, cho nên thân thể khống chế bởi đất. Đất là chúa
tể của người đất sống mãi” (Briradranyaka III, 7.3)
Nước: “thưở ban đầu, thế giới này chỉ là nước, nước này đản sinh ra thực
tại”( Briradranyaka,V,5.1)
Gió: “không khí quả thật là người thâu tóm thiên hạ…”(Chandogya, IV,3,1-2)
Lửa: “lửa lớn hơn nước lủa khống chế gió và hâm nóng không trung...”

(Chandogya,VII,11,1-2)

×