Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

phân loại tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.76 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
A.ĐẶT VÂN ĐỀ
2
B.NỘI DUNG
2
I- Các quan niệm về tội phạm thời phong kiến
2
II- Các phương pháp phân loại thời phong kiến
2
1) Phân loại tội phạm dựa theo ý chí người phạm tội 3
2) Phân loại tội phạm theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác 3
3) Phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt 4
4) Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm 4
5) Phân loại tội phạm đồng phạm 4
6) Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của tội phạm 5
III- Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm 5
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với pháp luật Việt Nam hiện nay, tội phạm, tệ nạn là một trong
những vấn đề quan trọng trong pháp luật hình sự, một trong những ngành
luật quan trọng nhất trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Các
bộ luật phong kiến Việt Nam cũng có sự phân loại tội phạm theo các quan
niệm của thời bấy giờ, theo các cơ sở, tiêu chí khác nhau, nhằm mục đích tạo
cơ sở pháp lý cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và thực hiện chính sách
hình sự của Nhà nước trong việc xây dựng cũng như áp dụng các quy định
của luật trong thực tiễn.Việc phân loại tội phạm có một ý nghĩa quan trọng
không chỉ trong thời kì phong kiến mà nó còn có một vai trò quan trọng
trong quá trình xây dựng pháp luật thời hiện đại.


B. NỘI DUNG
I. Các quan niệm về tội phạm thời phong kiến:
Theo luật hình sự Việt Nam hiện nay, tội phạm là những hành vi của
con người gây nên một mức độ nguy hiểm cho xã hội thì đối với xã hội
phong kiến trước đây, quan niệm về tội phạm được hiểu rất rộng. Tuy không
có những định nghĩa cụ thể về tội phạm là gì nhưng trong Bộ Quốc Triều
Hình Luật (QTHL) thời Lê đã có những quan niệm về tội phạm là việc xâm
hại đến sự an toàn, bất khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê, mà
trước hết là sự an toàn của nhà vua và hoàng cung (nhóm tội Thập ác), xâm
phạm trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội theo quan điểm Nho giáo, xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của con người. Đến thời nhà
Nguyễn, trong bộ Hoàng Việt Luật Lệ cũng không có những định nghĩa
chung về tôi phạm mà chỉ đi thẳng vào các qui định cụ thể đối với từng loại
tội. Nhìn chung pháp luật Phong kiến chưa có những qui định, định nghĩa về
tòng phạm nhưng ta cũng có thể hiểu được quan niệm tội phạm của pháp
luật phong kiến là tất cả những hành vi vi phạm không chỉ trong lĩnh vực
hình sự mà trong cả các lĩnh vực dân sự, hành chính, thuế khóa, ruộng đất và
kể cả trong quan hệ đạo đức (Ví dụ: Điều 130- QTHL quy định:Có tang ông
bà, cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì phải tội đồ làm khao đinh).
1. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
a. Căn cứ vào loại hình phạt (chế tài):
Đây là cách phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt được quy định cho
tội đó. Hệ thống hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được chia
làm hai loại là ngũ hình và các hình phạt ngoài ngũ hình, trong đó các hình
phạt thuộc về ngũ hình đóng vai trò chủ đạo, và các hình phạt ngoài ngũ
hình thường được coi là phụ hình kèm với chính hình trong ngũ hình. Trong
pháp luật phong kiến Việt Nam năm loại hình phạt cụ thể là dấu hiệu để
phân biệt giữa năm loại tội trong áp dụng luật. Đó chính là xuy hình(đánh
bằng roi); trượng hình(đánh bằng gậy);đồ hình(tù khổ sai); lưu hình(đi đày);
tử hình(giết chết). Năm loai tội phạm đó, xét về mặt nội dung có sự phong

kiến Việt Nam khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm xã hội, chính vì thế
nó trở thành một tiêu chí để phân loại tội phạm. Trong các bộ luật, tội phạm
nhiều chỗ cũng được gọi bằng các tội danh như: tội xuy, tội trượng, tội đồ,
tội lưu, tội tử. Cụ thể theo điều 1 chương Danh lệ của Quốc triều hình luật
(QTHL) cũng như Hoàng Việt luật lệ (HVLL) thì:
- Tội xuy:có 5 bậc, từ 10 đến 50 roi gồm 10, 20, 30, 40, 50 roi.
- Tội trượng: có 5 bậc từ 60 đến 100 trượng gồm 60, 70, 80, 90, 100
trượng.
Tội đồ:
- Theo QTHL: 3 bậc, phân biệt giữa công việc của đàn ông và đàn bà.
- Đối với đàn ông: 3 bậc bao gồm dịch đinh, tượng phường binh, chung
điền binh.
- Đối với đàn bà: 3 bậc bao gồm dịch phu, xuy thất tỳ, thung thất tỳ.
- Theo HVLL: có 5 bậc đồ: 1 năm với 60 trượng; 1,5 năm với 70
trượng; 2 năm với 80 trượng; 2,5 năm với 90 trượng; 3 năm với 100 trượng.
Tội lưu: 3 bậc lưu
- Theo QTHL: gồm có lưu cận châu, lưu ngoại châu, lưu viễn châu.
- Theo HVLL: gồm 2000 dặm với 100 trượng; 2500 dặm với 100
trượng; 3000 dặm với 100 trượng.
Tội tử:
- Theo QTHL: có 3 bậc giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu); trảm kiêu
(chém bêu đầu); lăng trì (tùng xẻo).
- Theo HVLL: có 2 bậc giảo (thắt cổ), trảm (chém). Ngoài ra còn quy
định nhuận tử(chết 2 lần) bao gồm lăng trì (xẻo chậm), trảm kiêu (chém bêu
đầu); lục thi (chặt xác chết).
Bên cạnh ngũ hình còn có hình phạt ngoài ngũ hình như biếm, phạt tiền,
thích chữ, tịch thu tài sản, sung vợ con làm nô tỳ… nhưng chủ yếu là hình
phạt đi kèm.
Nhiều điều luật trong các bộ luật phong kiến Việt Nam cũng được xây dựng
dựa trên phân loại tội phạm này. Ví dụ: Trong QTHL và HVLL, điều 4 quy

định về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho đối tượng phạm tội thuộc diện bát
nghị (điều 3) đã phân biệt giữa trường hợp phạm tử tội với các trường hợp
phạm tội khác. Ngoài ra, một số điều luật quy định tội phạm cụ thể cũng dựa
trên sự phân loại tội phạm này. Ví dụ: Điều 131 QTHL quy định: “ông bà,
cha mẹ và chồng bị tội tử hình còn đang phải giam mà con cháu hay vợ lại
đàn hát thì xử biếm 2 tư”.
Phân loại tội phạm theo căn cứ này còn cho phép chúng ta nhận thấy rõ được
quan điểm của các nhà làm luật thời bấy giờ trong việc đánh giá mức nguy
hiểm của từng loại tội phạm, tính nghiêm khắc của từng loại hình phạt cũng
như vai trò của các hình phạt trong việc duy trì trật tự xã hội có lợi cho Nhà
nước phong kiến.
b. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm (khách thể)
Theo căn cứ này, phân biệt được tội thập ác và tội thường. Căn cứ này là kết
quả gián tiếp của việc liệt kê mười loại tội được xem là nguy hiểm nhất đối
với chế độ quân chủ cũng như đối với trật tự, kỉ cương, đạo đức xã hội.
Loại tội thập ác bao gồm mười nhóm tội khác nhau, đó là nhóm mưu phản,
nhóm mưu đại nghịch, nhóm mưu chống đối (mưu phiến), nhóm ác nghịch,
nhóm bất đạo, nhóm đại bất kính, nhóm bất hiếu, nhóm bất mục, nhóm bất
nghĩa và nhóm nội loạn. Do tính chất nguy hiểm đặc biệt của tôi thập ác nên
cả QTHL và HVLL đều thể hiện thái độ trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước
đối với loại tội này. Một trong những biểu hiện đó là các bộ luật có các quy
định loại trừ không cho người phạm tội thập ác được hưởng các chế độ miễn
giảm trách nhiệm hình sự như các tội phạm thường. VÍ Dụ: Theo điều 4
QTHL quy đinh việc miễn giảm cho người phạm tội thuộc diện bát nghị đã
khẳng định: “… nếu phạm tội thập ác thì không theo luật này”. Còn theo
HVLL thì phải tâu lên để vua quyết định. Ngoài ra những quy định miễn
giảm cho những trường hợp cụ thể cũng loại trừ trường hợp phạm tội thập
ác. Điều 11 QTHL còn quy định: “những kẻ tội phạm tội tội ác nghịch thì
dẫu có dịp ân xá cũng không được ân xá”. Cùng với các quy định chung như
vậy, các quy định về các tội cụ thể của tội thập ác cũng thể hiện thái độ

trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước phong kiến đối với tội thập ác.
Đối với các tội thường khác, các nhà làm luật đã căn cứ vào tính chất, mức
độ của các hành vi để tạo thành những nhóm, những chương tương đối hợp
lý (đương nhiên trừ những điều luật liên quan đến tội thập ác). Cụ thể:
Đối với QTHL phân ra như sau:
- Nhóm tội xâm phạm về an toàn thân thể của vua, xâm phạm sự an
toàn,yên tĩnh, nghi lễ cung phủ. (Chương 2 – Vệ cấm: từ điều 50 đến 96).
- Nhóm tội xâm phạm lễ nghi, quan hệ vua tôi, và chế độ quân chủ.
(Chương 3 – Vi chế: từ điều 97 đến 240).
- Nhóm tội phạm về quân sự (Chương 4 – Quân chính: từ điều 241 đến
283).
- Nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình, chế độ quản lý nhân
khẩu. (Chương 5 – Hôn nhân: từ điều 284 đến 341).
- Nhóm tội xâm phạm chế độ quân điền. (Chương 6-Điền sản: từ điều
342 đến 400).
- Nhóm tội thông gian. (Chương 7 – Thông gian: từ điều 401 đến 410).
- Nhóm tội đạo tặc. (Chương 8 – Đạo tặc: từ điều 411 đến 464).
- Nhóm tội đấu tụng. (Chương 9 – Đấu tụng: từ điều 465 đến 514).
- Nhóm tội trá nguỵ. (Chương 10 – Trá nguỵ: từ điều 515 đến 552).
- Nhóm tội xâm phạm an toàn nơi đông người. (Chương 11 – Tạp
phạm: từ điều 553 đến 644).
- Nhóm tội bộ vong. (Chương 12 – Bộ vong: từ điều 645 đến 656).
- Nhóm tội đoán ngục. (Chương 13 – Đoán ngục: từ điều 658 đến 772).
Đối với HVLL:
- Đạo tặc (giặc cướp): từ điều 223 đến 250 .
- Nhân mạng (giết người): từ điều 251 đến 270 .
- Đấu ẩu (đánh nhau): từ điều 271 đến 292.
- Lăng mạ (chửi mắng): từ điều 293 đến 300.
- Hối lộ (nhận của đút lót): từ điều 312 đến 320.
- Trá nguỵ (man trá, giả mạo): từ điều 321 đến 331.

- Phạm gian (gian dâm): từ điều 332 đến 340.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×