Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.55 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỞ BÀI ...…………………………………………………………………………..…2
NỘI DUN ..……………………………………………………………………………2
I. Lý luận chung về người bào chữa…………………………………………………...2
1. Một số khái niệm ...…………………………………………………………………2
2. Phân loại người bào chữa…………………………………………………………...3
II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành…………………..…..4
1. Quyền của người bào chữa………………………………………………………….4
2. Nghĩa vụ của người bào chữa……………………………………………………....7
3. Những điểm mới về địa vị pháp lí của người bào chữa theo BLTTHS 2003 so với
BLTTHS 1988………………………………………………………………………...8
4. Ý nghĩa chế định địa vị pháp lí của người bào chữa trong pháp luật hiện hành..…11
III. Thực trạng về địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay……...12
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn
hiện nay……………………………………………………………………………...15
KẾT LUẬN………………………………………………………………………….16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………....17
1
A. MỞ BÀI
Trong những người tham gia tố tụng hình sự thì người bào chữa là người có vị
trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và
thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và thống
nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
phạm vi những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Tìm
hiểu khía cạnh của vấn đề “ Địa vị pháp lí của người bào chữa” từ lí luận, quy định
của pháp luật đến thực tiễn thực hiện chế định về người bào chữa hiện nay nhằm hiểu
rõ hơn các quy định của pháp luật và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị
pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về người bào chữa
1. Một số khái niệm


* Địa vị pháp lí:
Địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật qui định cho
một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một
cách độc lập.
* Người bào chữa:
Theo từ điển giải thích luật học thì: Người bào chữa là người tham gia tố tụng
để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một
nghĩa rộng hơn thì Người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho
một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự, hoặc cho việc bào chữa cho
đương sự đó đang bị lên án.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan
đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là
người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa.
“Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động
2
chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa,
người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không
được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng
Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về người bào
chữa. Dựa trên các quy định của pháp luật ta có thể hiểu người bào chữa như sau:
“Người bào chữa là người được cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố
tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm
chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ”.
* Địa vị pháp lý của người bào chữa:
Dựa theo khái niệm về địa vị pháp lí và người bào chữa, ta có thể hiểu địa vị
pháp lí của người bào chữa như sau: “Địa vị pháp lí của người bào chữa là tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người bào chữa, tạo cho người bào

chữa có khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ pháp
luật”. Như vậy, trong tố tụng hình sự người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực
hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người
bào chữa thực hiện chức năng của mình BLTTHS quy định cụ thể các quyền và nghĩa
vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lí của
người bào chữa trong tố tụng hình sự.
2. Phân loại người bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có
thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa
viên nhân dân.
- Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham
gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của Luật sư
là hoạt động có tính chất chuyên nghiệp (1), đây là đội ngũ chính tham gia bào chữa
3
trong TTHS. Hiện nay, Luật luật sư đang điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể về
luật sư, theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 thì luật sư phải đáp ứng được các yêu
cầu: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm”, Khi muốn hành nghề
luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”.
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại
diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần. Ngoài ra theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có các chủ
thể khác là đại diện hợp pháp như: bố nuôi, mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột
và những người khác theo quy định của pháp luật đối với những trường hợp người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất
hoặc tinh thần. Người địa diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một
chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

- Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy
ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử để bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của tổ chức mình. Về mặt pháp lý,
bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Nhưng trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận
tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được
hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất
nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ.
II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành.
1. Quyền của người bào chữa
Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đã quy định quyền của người bảo chữa một cách
khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này đã
4
khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn trong quá
trình tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003 đã quy định một cách khá chi
tiết các quyền mà người bào chữa khi tham gia tố tụng có được:
- Thứ nhất, Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lấy khai của người bị tạm
giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị
can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác và có quyền xem các biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực
hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố,
xét xử đúng người, đúng tội.
- Thứ hai, Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời
gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Cũng như quy định ở
trên quy định quyền này của người bào chữa nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa
có thể chủ động hơn trong việc có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can...
- Thứ ba, Theo điều 43 và điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì người bào

chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch nếu có căn cứ theo Điều 42 BLTTHS về những trường hợp phải từ chối hoặc
thay đổi người tiến hành tố tụng, và nếu xét thấy việc những người này tiến hành hoặc
tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người mà mình bào chữa.
- Thứ tư, Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những
người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Muốn bào chữa tốt
được cho thân chủ của mình người bào chữa không chỉ dựa vào những chứng cứ, tài
liệu do cơ quan điều tra thu thập được, làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều
tra mà cơ quan điều tra đã đưa ra hoặc kết luận. Vì vậy, người bào chữa phải có quyền
5
tự mình đi thu thập tài liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các
quyền khác của người bào chữa, ví dụ như quyền gặp bị can bị cáo, sau khi gặp và có
mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm được những tình tiết mới
hoặc bị can, bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm giúp những nhân chứng, vật chứng
(tài liệu, đồ vật) mà có thể cung cấp những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo.
- Thứ 5, Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào
chữa có quyền đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm
nguời làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho
người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu,
đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
- Thứ sáu, Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo
đang bị tạm giam. Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi tiếp xúc với
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các
đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lí, tâm tư, nguyện vọng của người được bào
chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm
nhẹ tội để bào chữa cho những người này.

- Thứ bảy, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến người bào chữa. Qua việc đọc
và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được
những chứng cứ buộc tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa
chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
- Thứ tám, Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tại
phiên tòa xét xử vai trò của người được bào chữa thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa
có quyền tranh luận dân chủ trước tòa án ( Điều 19 BLTTHS 2003).
Như vậy, quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa được
BLTTHS năm 2003 quy định rất chi tiết và rõ ràng. Người bào chữa có quyền hỏi bị
cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được có những câu trả lời
6

×