Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và các biện pháp phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.03 KB, 25 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A Lời nói đầu
ở bất kì quốc gia nào, ngân hàng cũng chiếm một ví trí kinh tế hết sức
quan trọng. Ngân hàng có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trởng
nhanh và ổn định. Ngân hàng là một bộ phận không thể thiếu giúp cho sự vận
động hàng hoá, tiền tệ đợc nhanh chóng, thuận lợi hơn nhằm đem lại hiệu quả
đầu t lớn nhất. Kinh nghiệm phát triển kinh tế ở các nớc đã chỉ ra rằng, mỗi bớc
thăng trầm của nền kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn liền với hoạt động
kinh doanh ngân hàng.
Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Đây là loại hình kinh
doanh gặp nhiều rủi ro nhất trong các loại kinh doanh, vì rủi ro tác động từ
nhiều phía vào cả tài sản nợ lẫn tài sản có của ngân hàng. Những rủi ro chủ yếu
trong hoạt động kinh doanh mà ngân hàng thờng gặp phải là rủi ro lãi suất, rủi
ro tín dụng, rủi ro hối đoái..., trong đó rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro
nguy hại nhất mà ngân hàng phải đơng đầu. Rủi ro lãi suất là loại rủi ro mà các
ngân hàng gặp phải khi có sự biến động về lãi suất. Ngân hàng là một trung
gian tài chính - đi vay để cho vay nên khi lãi suất tăng hoặc giảm thì cả tài
sản có lẩn tài sản nợ đều bị ảnh hởng, từ đó sẽ tác động tới nguồn lợi tức của
ngân hàng. Rủi ro lãi suất càng dễ xảy ra khi nền kinh tế thị trờng càng phát
triển. Vì vậy, việc nghiên cứu rủi ro lãi suất và đề ra những biện pháp phòng
ngừa là vấn đề hết sức cấp bách đang đợc đặt ra đối với các ngân hàng. Do tầm
quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, em chọn đề tài Rủi ro lãi suất
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và các biện pháp phòng
ngừa .
Đây là một đề tài rất khó, khả năng trình độ hiểu biết về các vấn đề trên
của em đang còn hạn chế, nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu sót,
sơ lợc. Em rất mong ý kiến đóng góp của các thầy, cô để bài viết của em ngày
càng hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Bất Tiến sĩ
Phó bộ môn Lý thuyết tài chính tiền tệ đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B Nội dung
Chơng I Rủi ro lãi suất trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng
I.1 K hái niệm về rủi ro lãi suất
I.1.1 K hái niệm về lãi suất
Lãi suất đóng vai trò nh là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ lợi hại, có ảnh h-
ởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của một ngân hàng.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu về lãi suất và cũng đa ra nhiều khái niệm
khác nhau. Từ giác độ ngân hàng, lãi suất là một loại giá cả của hàng hoá đặc
biệt: lãi suất là giá mua (đối với ngời gửi tiền), lãi suất là giá bán (đối với ngời
vay tiền). Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà ngời gửi tiền đòi hỏi khi tạm
thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho ngân hàng. Ngời đi vay coi lãi
suất ngân hàng là khoản phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của ngời
khác. Nh vậy điều không thể tránh khỏi là lãi suất đã hàm chứa một mâu thuẫn :
ngời cho vay muốn có lãi suất cao nhất trong khi ngời đi vay muốn có lãi suất
thấp nhất. Vì vậy nh giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu đợc
xác định bởi cung và cầu.
I.1.2 R ủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh tồn tại trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên
rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng có nhiều khác biệt so với
ngành kinh doanh khác cả về nguyên nhân cũng nh về mức độ.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng đợc hiểu là những thiệt hại
trong kinh doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng. Từ khái
niệm này, ta có thể rút ra:
Thứ nhất: không đợc coi tất cả các thiệt hại trong hoạt động kinh
doanh là rủi ro trong kinh doanh. Chỉ có những thiệt hại nằm ngoài khả năng
kiểm soát trong quá trình kinh doanh mới có thể coi là rủi ro trong hoạt động
kinh doanh. Có rất nhiều ngời trong thực tiễn rất hay đánh đồng khái niệm này
với khái niệm thất thoát trong kinh doanh. Hai khái niệm này hoàn toàn khác

Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhau nhng cả hai khái niệm này đều hợp thành trong hoạt động kinh doanh, có
nghĩa là:
Thiệt hại trong Rủi ro trong Thất thoát trong
hoạt động = hoạt động + hoạt động
kinh doanh kinh doanh kinh doanh.

Thứ hai: mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản trị của các
nhà kinh doanh ngân hàng. Không thể coi rủi ro là hoạt động bất khả kháng, coi
rủi ro là điều không thể tránh khỏi và để nó tự vận động, nghĩa là rủi ro có khả
năng kiểm soát đợc. Rủi ro có thể hạn chế khi tăng cờng khả năng kiểm soát mà
điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào trình độ quản trị của các nhà kinh doanh
ngân hàng.
Thứ ba: rủi ro trong hoạt động kinh doanh có nguyên nhân khách quan,
nguyên nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên. Nhng dù loại
rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa với các phơng pháp có thể khác nhau.
Trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng thờng gặp phải các rủi ro nh rủi
ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá...
I.1.3 K hái niệm về rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro có liên hệ dến tính chất không chắc chắn về các
biến động lãi suất và lợi tức. để hiểu rủi ro lãi suất là gì ta hãy nghiên cứu ví dụ
sau:
Giả sử bảng quyết toán tài sản của ngân hàng thơng mại X đợc viết dới
dạng sau:

Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(đơn vị: tỷ đồng)
Tài sản có Tài sản nợ

I/ Những tài sản có loại nhạy cảm I/ Những tài sản nợ loại nhạy cảm
với lãi suất 20 với lãi suất 50
- Cho vay ngắn hạn - Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn
- Chứng khoán ngắn hạn - Tiền gửi trên thị trờng tiền tệ
II/ Những tài sản có loại có lãi suất II/ Những tài sản nợ loại có lãi suất
cố định 80 cố định 50
- Tiền dự trữ - Tiền gửi có thể phát séc
- Tiền cho vay dài hạn - Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn
- Chứng khoán dài hạn - Chứng chỉ tiền gửi dài hạn
- Vốn cổ phần
Tổng tài sản có 100 Tổng tài sản nợ 100
Bên tài sản có gồm các loại tài sản có lãi suất cố định và các loại tài sản
có loại nhạy cảm với lãi suất.
Loại tài sản có lãi suất cố định là những khoản vốn sử dụng đem lại thu
nhập không thay đổi cho ngân hàng, không chịu sự chi phối của lãi suất thị tr-
ờng thay đổi, đó là các khoản cho vay trung và dài hạn.
Loại tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất là các khoản vốn sử dụng
đem lại thu nhập thay đổi do lãi suất thị trờng thay đổi, thờng là các khoản cho
vay ngắn hạn.
Bên tài sản nợ bao gồm nguồn vốn phải trả lãi suất cố định và nguồn vốn
phải trả theo lãi suất thay đổi.
Qua bảng trên , ta thấy:
ở bên tài sản có, ngân hàng X có 20 tỷ đồng là loại nhạy cảm với lãi suất
, chúng thay đổi nhiều lần( ít nhất 1 lần mỗi năm ), và 80 tỷ đồng loại có lãi
suất cố định, chúng giữ nguyên không đổi trong thời gian dài.
ở bên tài sản nợ, ngân hàng X có 50 tỷ đồng tài sản nợ loại nhạy cảm với
lãi suất và 50 tỷ đồng tài sản nợ loại có lãi suất cố định.
Giả sử lãi suất của tất cả các tài sản đều tăng 5%, ví dụ trung bình từ 10%
đến 15%, khi đó thu nhập của ngân hàng từ các tài sản có loại nhạy cảm với lãi
suất tăng thêm 1 tỷ đồng (=5%x 20 tỷ đồng). Trong khi đó , tiền thanh toán cho

Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những tài sản nợ của nó tăng thêm 2,5 tỷ đồng (=5% x 50 tỷ đồng tài sản nợ,
loại có nhạy cảm với lãi suất). Do tài sản nợ lãi suất thay đổi tăng nhiều hơn tài
sản có lãi suất thay đổi nên lợi nhuận của ngân hàng giảm mất 1,5 tỷ đồng (= 1
tỷ đồng - 2,5 tỷ đồng).
Mặt khác, nếu các lãi suất giảm bớt 5%, một sự suy luận tơng tự cho
chúng ta biết rằng lợi nhuận của ngân hàng X sẽ tăng thêm 1,5 tỷ đồng .
Qua việc phân tích trên, ta thấy : nếu một ngân hàng có nhiều tài sản nợ
loại nhạy cảm với lãi suất hơn là tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất, một sự
tăng lãi suất sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, trong khi đó một sự sụt giảm
lãi suất sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng .
I.2 N guyên nhân rủi ro lãi suất
I.2.1 S ự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ
Bằng sơ đồ, chúng ta có thể biẻu diễn trờng hợp một ngân hàng huy động
vốn có kỳ hạn là 1 năm và đầu t có kỳ hạn là 2 năm nh sau:
0 1
Tài sản nợ
0 1 2
Tài sản có

Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu t là 10%/năm.
Sau năm thứ nhất bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn 2 năm,
ngân hàng thu đợc lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 10% - 9% = 1%. Tuy
nhiên, lợi nhuận của năm thứ hai cha biết là bao nhiêu nên sẽ là một số không
chắc chắn. Nếu lãi suất thị trờng không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ
hai thì ngân hàng có thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không thay đổi là
9%; và do đó mức lợi nhuận thu đợc trong năm thứ hai sẽ bằng năm thứ nhất và
là 1%. Với lãi suất thị trờng có thể thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai,
cho nên ngân hàng luôn đứng trớc rủi ro về sự thay đổi lãi suất. Giả sử sang

năm thứ hai, ngân hàng chỉ có thể huy động vốn theo mức lãi suất thị trờng hiện
hành là 11%, do đó lợi nhuận của ngân hàng trong năm thứ hai sẽ là một số âm,
tức là ngân hàng sẽ chịu khoản lỗ 10% - 11% = -1%. Nh vậy, lợi nhuận của
năm thứ nhất chỉ đủ bù đắp cho khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, trong tr-
ờng hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài hơn tài sản nợ thì ngân
hàng luôn đứng trớc rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động vốn bổ sung trong những năm
tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu t tín dụng dài hạn.
Trờng hợp ngợc lại, ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu t có kỳ
hạn ngắn. Ví dụ: ngân hàng huy động vốn với lãi suất là 9%/ năm, kỳ hạn 2
năm và đầu t vào tài sản có mức lãi suất là 10%, kỳ hạn là 1 năm.
Bằng sơ đồ, chúng ta có thể biểu diễn nh sau:
0 1 2
Tài sản nợ
0 1
Tài sản có
Tơng tự nh trờng hợp nêu trên, sau năm thứ nhất ngân hàng thu đợc lợi
nhuận là 1%. Vì tài sản có chỉ có kỳ hạn là 1 năm, cho nên sau năm thứ nhất tài
sản có đến hạn và ngân hàng lại tiếp tục tái đầu t. Giả sử lãi suất đầu t của thị tr-
ờng trong năm thứ hai giảm xuống chỉ còn 8%, điều này đã khiến cho ngân
hàng gặp phải rủi ro về lãi suất, đó là lỗ 8% - 9% = -1%. Nh vậy, lợi nhuận thu
đợc của năm thứ nhất vừa đủ để bù đắp khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là,
ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất tái đầu t trong trờng hợp tài sản có có kỳ
hạn ngắn hơn so với tài sản nợ. Ví dụ điển hình về rủi ro lãi suất tái đầu t trong
những năn gần đây là hiện tợng các ngân hàng hoạt động trên thị trờng tiền tệ
Châu âu thờng huy động vốn với lãi suất cố định nhng lại đầu t với lãi suất thả
nỗi, tức là lãi suất của khoản đầu t tín dụng luôn đợc điều chỉnh (thay đổi) th-
ờng xuyên để phù hợp với lãi suất của thị trờng.

Nh vậy, ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản có và tài sản nợ với những kỳ
hạn không cân xứng với nhau, thì phải chịu rủi ro lãi suất trong việc tái tài trợ
tài sản có và tài sản nợ.
I.2.2 C hính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương
Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương cũng là một trong những
nguyên nhân gây nên rủi ro lãi suất đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng .
Chúng ta hãy xem xét chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương và rủi ro
lãi suất là nh thế nào thông qua ví dụ sau:
Trớc hết, đó là việc thay đổi mức lãi suất thuộc về chính sách tiền tệ của
ngân hàng Trung Ương. Lãi suất mà ngân hàng Trung Ương tính cho thị trờng
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
báo hiệu chiều hớng mà nó muốn lãi suất di chuyển theo. Ví dụ: Ngân hàng
Trung Ương nâng tỷ lệ chiết khấu mua thơng phiếu của nó, khi đó đến lợt mình,
thị trờng chiết khâu sẽ nâng tỷ lệ chiết khấu các chứng khoán ngắn hạn giao
dịch trên thị trờng mình. Vì vậy, lãi suất thơng phiếu, trái phiếu kho bạc, chứng
chỉ tiền gửi và các công cụ tài chính khác sẽ có chiều hớng tăng. Trong khi đó,
các ngân hàng cung cấp vốn cho thị trờng chiết khấu sẽ nâng lãi suất của họ
tính trên khoản vốn này. Kết quả này sẽ lan truyền sang thị trờng tiền tệ thứ cấp
hay thị trờng bán buôn. Nếu dự đoán lãi suất còn tăng nữa, các ngân hàng buộc
phải chào lãi suất cao hơn đối với các chứng chỉ tiền gửi. Còn trờng hợp họ vay
mợn trên thị trờng liên ngân hàng, họ phải trả lãi suất cao hơn. Điều này sẽ ép
các ngân hàng nâng lãi suất cơ bản của mình để duy trì chênh lệch giữa chi phí
vốn vay và lãi suất cho vay. Việc lãi suất cơ bản tăng lên trong khi làm tăng lãi
suất cho vay, đồng thời cũng làm tăng lãi suất tiền gửi. Vì vậy, sự thay đổi lãi
suất ngắn hạn sẽ có tác động dây chuyền thông qua một số loại lãi suất. Nó
cũng sẽ có tác động lên lãi suất dài hạn.
Từ phân tích trên ta thấy rằng, nếu Ngân hàng Trung Ương điều chỉnh
mức lãi suất một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển, thì những cú sốc về thay dổi lãi
suất là không lớn. Mặt khác nếu Ngân hàng Trung Ương mở rộng cung ứng tiền

tệ và cho phép lãi suất tự do biến động, thì mức độ dao động lãi suất sẽ là rất
lớn, điều này có ảnh hởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh ngân hàng .
I.2.3 Rủi ro lãi suất do giá trị của tài sản thay đổi khi lãi suất thị tr ờng
biến động
Giá trị thị trờng của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên khái niệm giá trị
hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trờng tăng lên thì mức chiết khấu giá
trị tài sản tăng lên, cho nên giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm
xuống. Ngợc lại, nếu lãi suất thị trờng giảm thì giá trị của tài sản có và tài sản
nợ sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng
với nhau thì đó cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất. Giả sử tài sản có có
kỳ hạn dài hơn tài sản nợ, thì khi lãi suất thị trờng tăng, giá trị của tài sản có sẽ
giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá trị tài sản nợ, từ đó có thể dẫn
đến thiệt hại về tài sản của ngân hàng.
I.3 Tác động ảnh h ởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngành kinh doanh ngân hàng là một trong những dịch vụ quan trọng và
rất cần thiết trong cơ chế thị trờng ngày nay. Hoạt động kinh doanh ngân hàng
phụ thuộc rất nhiều vào tình hình biến động trong nền kinh tế thị trờng. Trong
đó sự tăng lên hay giảm xuống của lãi suất đã tác động đến tình hình hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, có thể đa đến lợi vốn hoặc tổn thất vốn và gây ra sự
không chắc chắn về lợi tức đầu t. Chính điều này làm cho ngân hàng trở nên
quan tâm hơn với việc đối mặt với rủi ro lãi suất. Nếu nh ngân hàng không có
những biện pháp phòng ngừa đúng đắn và kịp thời, thì nó có thể dẩn đến sụp đổ
ngân hàng. Điều này không chỉ làm tổn hại đến ngân hàng đó, mà còn ảnh hởng
nghiêm trọng tới tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khác, và
nguy hại hơn, nó còn ảnh hởng một cách nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Chơng II Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi
suất

II.1 C ác phép đo rủi ro lãi suất
II.1.1 D ự đoán lãi suất
Nhìn chung dự đoán lãi suất là để đa ra quyết định nên chọn mua tài sản
nào, còn trong trờng hợp này là để có thể loại trừ các rủi ro lãi suất với các danh
mục tài sản hiện có của ngân hàng. Đây là một công việc hết sức khó khăn, việc
dự báo thờng do các chuyên gia kinh tế đảm nhận. Các nhà dự báo có thể sử
dụng các mô hình lý thuyết hoặc thực nghiệm về diễn biến của lãi suất để đa ra
các dự báo lãi suất. Chẳng hạn các mô hình cung cầu trái khoán hoặc các mô
hình cung cầu tiền tệ. Theo mô hình cung cầu trái khoán hoặc cung cầu tiền tệ
thì lãi suất sẽ thay đổi khi mà cung, cầu trái khoán hoặc cung, cầu tiền tệ thay
đổi. Cung trái khoán sẽ thay đổi khi có sự thay đổi tính hấp dẫn của các cơ hội
đầu t, của chi phí thực do tiền vay hoặc do các hoạt động của Chính phủ. Cầu
trái khoán thay đổi khi có thay đổi của cải, về lợi tức dự tính, về rủi ro, về tính
lỏng của trái khoán. Cung tiền tệ thay đổi lệ thuộc vào chính sách tiền tệ để đáp
ứng cầu về tiền. Cầu tiền thay đổi theo sự thay đổi của cải, về mức giá...
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhìn chung, những mô hình dự đoán lãi suất sẽ thay đổi theo chiều hớng
nào trên thực tế thờng hết sức phức tạp. Đồng thời cần phải thừa nhận rằng trên
thực tế cha có cách thức nào để dự báo chính xác sự thay đổi của lãi suất.
Những dự đoán sai lầm có thể gây ra những thiệt hại to lớn, do đó ra quyết định
dựa trên dự đoán lãi suất có thể là một sự nguy hiểm.
II.1.2 P hân tích tính nhạy cảm lãi suất của các tài sản
Sự phân tích nhạy cảm lãi suất bao gồm sự phân tích đặc tính này với
từng tài sản và tổng tài sản của ngân hàng, nhằm định lợng rủi ro lãi suất phát
sinh cùng với việc sở hữu tài sản
Để phân tích tính nhạy cảm lãi suất của các tài sản, ngời ta phải tiến hành
phân tích mối quan hệ giữa mức thay đổi trong giá trị thị trờng của tài sản so
với mức thay đổi của lãi suất thị trờng. Mối quan hệ này có thể định lợng một
cách trực tiếp bằng cách sử dụng: phơng pháp phân tích khoảng cách và phơng

pháp phân tích khoảng thời gian tồn tại.
II.1.2.1 P h ơng pháp phân tích khoảng cách
Nội dung của phơng pháp phân tích khoảng cách là việc phân tích các
luồng tiền dựa trên giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa tổng số tài sản
có loại nhạy cảm với lãi suất với tổng số tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất
hay một khe hở nhạy cảm lãi suất đã hình thành.
Khe hở Tổng tài sản Tổng tài sản
nhạy cảm = có loại nhạy cảm - nợ loại nhạy cảm
lãi suất với lãi suất với lãi suất
Nếu tổng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất trong mỗi giai đoạn kế
hoạch (ngày, tuần, tháng, năm...) lớn hơn tổng tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi
suất , ngân hàng đợc xem là có khe hở nhạy cảm lãi suất dơng.
Tổng tài sản Tổng tài sản
Khe hở dơng = có loại nhạy cảm - nợ loại nhạy cảm > 0
với lãi suất với lãi suất
Với khe hở dơng, các yếu tố khác không đổi thì: nếu lãi suất tăng, tỷ lệ
thu nhập lãi cận biên của ngân hàng sẽ tăng vì thu từ lãi trên tài sản sẽ tăng
nhiều hơn chi phí trả lãi cho vốn huy động; nếu lãi suất giảm, tỷ lệ thu nhập lãi
cận biên của ngân hàng sẽ giảm vì thu từ lãi trên tài sản sẽ giảm nhiều hơn cho
các nguồn vốn.
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong trờng hợp ngợc lại, tổng tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất lớn
hơn tổng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất, ngân hàng lúc này đợc xem là có
khe hở nhạy cảm lãi suất âm. Khi đó nếu lãi suất tăng lên sẽ làm giảm tỷ lệ thu
nhập lãi cận biên của ngân hàng, khi lãi suất giảm sẽ làm tăng tỷ lệ thu nhập lãi
cận biên của ngân hàng.
Ta xét bảng cân đối tài sản của ngân hàng X ở trên:
Khe hở nhạy cảm lãi suất = 20 tỷ đồng- 50 tỷ đồng= -30 tỷ đồng.
Biểu diễn kết quả dới dạng % nh sau:

100
30

x 100=30%
Bằng cách biểu diễn ở dạng % này cho ta thấy tính chất của rủi ro lãi suất
; và mức chênh lệch tài sản có và tài sản nợ trên quy mô tài sản của ngân hàng
là nh thế nào.
Trong ví dụ của chúng ta, ngân hàng có tài sản có nhạy cảm với lãi suất
thấp hơn tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất là 30%. Nếu lãi suất tăng 5% thì
thay đổi về lợi nhuận sẽ là: -1,5 tỷ đồng (5% x -30 tỷ đồng), nghĩa là ngân hàng
thiệt 1,5 tỷ đồng.
Qua phân tích trên, ta thấy phơng pháp phân tích khoảng cách là một
công cụ hữu ích đối với các nhà quản trị ngân hàng và những nhà định chế trong
việc phòng ngừa rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, phơng pháp này bộc lộ điểm yếu:
vấn đề phân nhóm tài sản trong một khung kỳ hạn nhất định đã phản ánh sai
lệch thông tin về cơ cấu các tài sản có và tài sản nợ trong cùng một nhóm. Ví
dụ: giá trị tài sản có và tài sản nợ trong cùng một nhóm có cùng một kỳ hạn đến
hạn có thể là nh nhau, nhng tài sản nợ có thể đợc định giá lại tại thời điểm cuối
của kỳ định giá và trong lúc đó tài sản nợ có lại đợc định giá lại tại thời điểm
đầu của kỳ định giá. Giả sử, trong cùng một nhóm tài sản có kỳ hạn từ 3 đến 6
tháng, số lợng tài sản có và tài sản nợ là bằng nhau và bằng 50 tỷ đồng, theo ph-
ơng pháp phân tích khoảng cách thì chênh lệch trong kỳ hạn này là 50 50 =
0 . Nhng nếu cơ cấu kỳ hạn của tài sản có là từ 3 đến 4 tháng, trong khi đó cơ
cấu của tài sản nợ lại là từ 5 đến 6 tháng, rõ ràng là kỳ hạn đến hạn giữa tài sản
có và tài sản nợ là không cân xứng với nhau, trong khi đó theo phơng pháp phân
tích khoảng cách lại coi nh không có vấn đề gì đối với thu nhập của ngân hàng.
Rõ ràng là nếu kỳ hạn định giá càng nhanh thì những hạn chế của phơng
pháp phân tích khoảng cách càng nhỏ. Nếu kỳ định giá đợc tính toán hằng ngày
thì sẽ cho ta một bức tranh trung thực về sự thay đổi lợi nhuận của ngân hàng .
Hiện nay các ngân hàng hiện đại đã áp dụng những kỹ thuật dựa trên máy tính

Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mà theo đó tài sản có và tài sản nợ đợc phân theo tiêu thức tới hạn hoặc đợc
định giá lại trong ngày hôm nay, trong tuần tới, trong 30 ngày tới... Nhà quản lý
cố gắng tơng đồng các danh mục tài sản có nhạy cảm lãi suất với tài sản nợ
nhạy cảm lãi suất cho mỗi thời hạn nhằm tăng khả năng đạt đợc những mục tiêu
lợi nhuận mà ngân hàng đề ra.
Ví dụ: chơng trình mới nhất của ngân hàng có thể cho ra những số liệu sau:
(đơn vị: triệu đồng)
Tài sản có
nhạy cảm lãi
suất
Tài sản nợ
nhạy cảm lãi
suất
Khe hở nhạy
cảm lãi suất
Khe hở nhạy
cảm lãi suất
tích luỹ
Trong vòng
24 giờ tới
40 30 +10 +10
7 ngày sau 120 160 -40 -30
1 tháng sau 85 65 +20 -10
3 tháng sáu 280 250 +30 +20
6 tháng sau 455 395 +60 +80
..... .... ...... ........
Thông qua số liệu trên ta thấy rằng thời kỳ tính khe hở nhạy cảm lãi suất
có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá trạng thái nhạy cảm lãi suất thực tế

của một ngân hàng. Ví dụ trong vòng 24 giờ tới, ngân hàng trên có khe hở d-
ơng, lợi nhuận của ngân hàng tăng lên nếu lãi suất tăng lên trong ngày hôm nay
và ngày mai. Tuy nhiên, nếu lãi suất tăng lên trong vòng 7 ngày tới có thể là tin
xấu vì ngân hàng có một khe hở âm trong giai đoạn này và kết quả là chi phí trả
lãi tăng nhiều hơn là từ chi phí thu lãi. Nếu lãi suất đợc dự báo tăng, nhà quản lý
cần xem xét có thể sử dụng một số biện pháp để có thể bảo vệ lợi nhuận của
ngân hàng nh: bán ngay những chứng chỉ tiền gửi dài hạn hoặc sử dụng hợp
đồng kỳ hạn... ( những biện pháp này sẽ đợc trình bày rõ hơn trong phần sau).
Xem xét phần còn lại của bảng ta thấy một điều rất rõ ràng là ngân hàng sẽ tiến
triển tốt hơn trong một vài tháng tới nếu lãi suất tăng vì cuối cùng khe hở nhạy
cảm lãi suất trở lại trạng thái dơng.
Với sự giúp đỡ của máy tính, nhà quản lý sắp xếp giá trị của tất cả các
khoản mục tài sản có và nợ trên cơ sở phân nhóm theo khoảng thời gian cho t-
ơng lai cho tới khi từng khoản mục đáo hạn hoặc đợc định giá kại. Trên cơ sở
dự báo sự biến động lãi suất trong từng thời kỳ, nhà quản trị ngân hàng sẽ quyết
Nguyễn Việt Đức Lớp Tài chính công 41A

×