Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện chứng của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.62 KB, 22 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước tới nay, nó tồn tại và phát
triển chủ yếu dưới xã hội tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh
tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm
kiếm lợi nhuận từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, kinh
tế thị trường cũng có nhiều mặt tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất chủ nghĩa tư
bản, đó là xu thế phân hoá giầu nghèo, phân tầng xã hội gay gắt, tâm lý sùng
bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức. Nó có nguy cơ tiềm tàng
để phá vỡ hoặc mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
tập thể.
Chính vì vậy có ý kiến cho rằng, khơng thể có kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không
dung hợp với nhau, nếu đem “ghép” vào thì chẳng khác nào trộn dầu vào
nước. Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những
cái phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân nghi ngờ
về những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, từ đó chưa tin vào kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ
sở chế độ cơng hữu là nền tảng, kinh tế nhà nước là chủ đạo,…
Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng việc lựa chọn kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm cụm
từ “xã hội chủ nghĩa” là để “giữ vững lập trường” mà thơi, trước sau gì cũng
trượt sang con đường chủ nghĩa tư bản.
Tất cả những điều băn khoăn trên đều là dễ hiểu, bởi vì đây là điều cịn
rất mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, nếu không xác định rõ nội dung định
hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trị quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế thị trường thì những điều trên rất dễ xảy ra.
Vận dụng phép biện chứng duy vật, với tư cách là học thuyết về mối
liên hệ phổ biến và sự phát triển, với 2 nguyên tắc phương pháp luận chung
nhất đó là: trong nghiên cứu và giải quyết bất cứ một vấn đề nào cũng cần


1


thiết phải đặt trong hệ thống các mối liên hệ phổ biến, trong q trình vận
động khơng ngừng và phải phân tích, giải quyết những mâu thuẫn một cách
khoa học nhằm phát hiện và tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì
vậy, tơi đã lựa chọn đề tài: “Biện chứng của quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận
của mình.
Đề tài này sẽ chỉ rõ mối liên hệ phổ biến giữa kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với các yếu tố khác trong nền kinh tế cũng như quá
trình vận động phát triển không ngừng của kinh tế thị trường. Từ đó, hy vọng
sẽ giải đáp được một phần băn khoăn trên.
Kết cấu bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Đặt vấn đề
Phần 2: Giải quyết vấn đề
Phần 3: Kết luận
Trong giới hạn kiến thức cịn hạn hẹp của mình, bài viết sẽ khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cơ để bài viết được
hồn thiện hơn.

2


PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Phát triển Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất
trong kinh tế hàng hố khơng phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người

sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người
mua đáp ứng nhu cầu xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hố, trong
đó tồn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị
trường. Kinh tế hàng hố và kinh tế thị trường khơng đồng nhất với nhau,
chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc
và cùng bản chất.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Theo nguyên tắc phát triển, mọi quá trình phát triển đều diễn ra một
cách khách quan và tất yếu. Kinh tế thị trường thường gắn liền với chủ nghĩa
tư bản, phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh
mặt tích cực nó cịn có mặt trái, có khuyến tật từ trong bản chất của nó do chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất thì mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải
quyết được các vấn đề xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu
và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện tồn cầu hố hiện nay, nó
cịn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc
lột.
Chính vì thế, như Các Mác đã phân tích và dự báo chủ nghĩa tư bản
tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn

3


minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đang cố tìm mọi cách tự
điều chỉnh, tự thích nghi nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó nên

bản thân nó khơng thể tự giải quyết được, có chăng chỉ tạm thời xoa dịu
được chừng nào mâu thuẫn mà thơi. Vì vậy, nhân loại muốn tiến lên, xã hội
muốn phát triển thì dứt khốt khơng thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa.
Mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản,
nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản
xuất văn minh hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và
trên thực tế suốt hơn mấy chục năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước
và đời sống nhân dân Liên Xơ. Nhưng do nơn nóng, làm trái quy luật khơng
kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công. Sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối
những năm 80, đầu năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật mơ
hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường.
Việt Nam là một nước nghèo lạc hậu, trình độ kinh tế- xã hội cịn thấp,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý
tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn
đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Suốt một thời gian dài, Việt Nam
cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ Viết,
mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung mang tính bao cấp. Mơ hình này đã
thu được những kết quả quan trọng, nhưng về sau mơ hình này bộc lộ nhiều
khuyết điểm, nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
khơng tơn trọng quy luật khách quan.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện
có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra quan
niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
quan niệm về cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, thừa

4


nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt
để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch
toán kinh doanh.
Hội nghị trung ương 6 (tháng 3- 1989), khoá VI, phát triển thêm một
bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hố có kế hoạch gồm
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành
phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ
nghĩa xã hội. Đến đại hội VII, Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn
chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa
ra một kết luận hết sức quan trọng: “Sản xuất hàng hố khơng đối lập với chủ
nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng”, nhưng lúc đó cũng mới dùng từ kinh tế hàng
hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến
đại hội IX của Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Rõ ràng kinh tế thị trường đã phát triển trong thực
tế và nó cũng đã được thừa nhận trong định hướng của Đảng ta. Như vậy,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định là tổn tại
cả trong lý thuyết và thực tế.
2.1.3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc
tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng

tốt đẹp.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được
giải quyết tốt: Đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức khơng thể xem
thường. Xây dựng XHCN là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt
5


tới. Trong q trình đó, phải từng bước xác lập, tạo ra những điều kiện, những
tiền đề của CNXH, đồng thời tránh nguy cơ chệch hướng.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa
chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu
của thời đại. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập
tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở
đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế khơng có một nền
kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà
gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế
hàng hóa cụ thể. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự
hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan
của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân cơng lao động
xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy
định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng
như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do vậy, trong chủ nghĩa tư bản và trong
CNXH đều tồn tại kinh tế thị trường, nhưng có những đặc trưng khác nhau.
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
là nền kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường
XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

Sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là
sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay; là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân
loại, nhằm phát huy vai trị tích cực của kinh tế thị trường trong việc phát
triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - cơng nghệ, nâng cao
đời sống nhân dân... Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường gây ra.
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước
ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu;
6


cũng không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và
cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH,
cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Cần hiểu rõ nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN vừa mang tính chất chung của nền kinh tế thị
trường, vừa có tính chất đặc thù vì nó hoạt động trong khuôn khổ của những
nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Theo nguyên lý biện chứng, phát triển chính là một quá trình thống
nhất giữa khẳng định và phủ định. Chính vì vậy mà q trình phát triển có
tính chu kỳ, phát triển là kế thừa chứ không tách rời, trong cái cao hơn bao
gồm cả nhân tố cũ đồng thời cũng thể hiện mặt mới. Đảng ta trên cơ sở nhận
thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh
nghiệm phát triển của kinh tế thị trường thế giới đã đưa ra chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh
tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là một nền

kinh tế thị trường chung chung mà nó vừa kế thừa, tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền
kinh tế hàng hố nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng như:
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngồi nước để
thực hiện cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện từng bước đời
sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và cơng bằng xã hội,
khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xố đói giảm nghèo.

7


Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần. Trong nền kinh tế nước
ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba
loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức
sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị
chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là
những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối
với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh
tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành

phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn
nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là
chủ yếu. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân
phối thu nhập sau đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài
sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động (nó được thực hiện trong
các doanh nghiệp tư bản tư nhân và các doanh nghiệp mà vốn đầu tư là của
nước ngồi), phân phối thơng qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Phân
phối theo lao động là đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ
cơng hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân
phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh
tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một
mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. Nhà nước quản lý nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với
thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành nền kinh tế, nó tồn tại khách
quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Cịn kế hoạch hố là
8


hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể
quản lý. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận
hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động, của toàn thể nhân dân.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế

mở, hội nhập. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- cơng nghệ, đang
diễn ra q trình quốc tế hố đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia
trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu
vực và thế giới là tất yếu với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn,
kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để
khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực,
tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo
kiểu rút ngắn.
Như vậy có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong q trình chuyển biến từ
nền kinh tế cịn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới
tiến bộ xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan
niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Lựa chọn mơ hình đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng
được ưu thế cũng như hạn chế được khuyết điểm của hai cơ chế là kế hoạch
và thị trường.
2.2. Cơ sở phương pháp triết học để nhận thức đúng đắn về quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.2.1. Khái niệm phép biện chứng
Kế thừa có phê phán chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch
sử triết học, dựa chắc vào các thành tựu khoa học đương thời, Mác và
Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

9


lịch sử, đem lại cho phép biện chứng một sự phát triển mới về chất, đó là
phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được Mác, Ăngghen

khẳng định và được Lênin tiếp tục phát triển lên tầm cao mới, đã trở thành
môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con người. Đây là học
thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất về sự liên hệ phổ biến và sự phát triển.
Hệ thống quy luật của phép biện chứng duy vật vừa là quy luật của thế
giới khách quan, vừa là quy luật nhận thức của tư duy lơ-gích. Đó là sự thống
nhất trên cơ sở duy vật giữa phép biện chứng với lý luận nhận thức và lơ-gích
biện chứng. Đặc trưng nổi bật của phép biện chứng duy vật là tính cách mạng
và khoa học, vì thế nó mang tính tự giác cao, có tác dụng trong việc chỉ đạo,
hướng dẫn hoạt động nhận thức và thực tiễn. Xét theo nội dung cấu trúc cơ
bản, phép biện chứng duy vật khoa học bao gồm hai nguyên lý cơ bản:
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
2.2.2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.2.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát
mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ được hiểu là sự thống nhất của 3 phương diện: tính quy định, q
trình tương tác và dẫn tới là q trình biến đổi. Trong ba phương diện trên,
tính quy định là cơ sở khách quan của các quá trình tương tác, quá trình tương
tác là cơ sở, là nguyên nhân và quá trình biến đổi là hệ quả tất yếu. Nhưng
trong quá trình nhận thức về mối liên hệ thì thường ngược lại: từ quan sát đến
những sự biến đổi, trên cơ sở đó xác định nguyên nhân và sự tương tác có
được là do tính quy định. Mối liên hệ phổ biến chính là những mối liên hệ của
nó được thể hiện ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi trường hợp đặc thù, có
hai tính chất cơ bản là tính khách quan và tính phổ biến.

10



Tính khách quan là cái vốn có của các tồn tại thế giới, được hiểu là
khơng có sự vật đồng nhất, giữa các sự vật hiện tượng khơng có tồn tại biệt
lập tuyệt đối, cịn tính phổ biến được hiểu trên ba nội dung sau:
Thứ nhất: mọi sự vật hiện tượng, mọi lĩnh vực của thế giới luôn tồn tại
các mối liên hệ và liên hệ phổ biến. Theo nghĩa đó cũng đồng thời có nghĩa là
khơng có sự vật đồng nhất, đồng thời cũng khơng có sự tồn tại biệt lập giữa
các sự vật.
Thứ hai: với mỗi sự vật có vơ vàn các mối liên hệ khác nhau bởi tính
khơng giới hạn của những tính quy định, mỗi tính quy định là một sự tồn tại.
Vậy sự tồn tại của nó là vơ hạn, vì thế để nhận thức một đối tượng bao giờ
cũng phải xét nó trong mối liên hệ.
Thứ ba: mỗi sự vật biến đổi đều có thể dẫn tới những biến đổi khác.
Như vậy có thể thấy, mối liên hệ phổ biến là cơ bản trong nhận thức khoa
học. Theo nguyên tắc, khi nghiên cứu phải xem xét trên mọi mặt, mối liên
hệ có thể có và có thể làm được, tránh những phiến diện trong phân tích một
vấn đề cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến địi hỏi chủ thể phải có quan điểm
toàn diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng. Quan điểm tồn diện trong phân
tích hiện thực trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của
phương pháp biện chứng Mác-xít. Quan điểm này địi hỏi chúng ta khi phân
tích sự vật, hiện tượng phải tính tốn đến các điều kiện không gian, thời gian,
phải xem xét đầy đủ mối quan hệ qua lại đó với sự vật khác; phải nghiên cứu
cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nó.
Quán triệt quan điểm biện chứng vào việc phân tích tồn diện các mối
liên hệ của sự vật, hiện tượng giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của các
sự vật, hiện tượng làm cơ sở cho việc xác định đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu
một cách đúng đắn, chỉ ra được nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản lâu dài và mục tiêu
chủ yếu trước mắt; phối hợp chặt chẽ mọi hành động trong quá trình thực
hiện, thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển hợp quy luật khách quan, điều
kiện và khả năng khách quan.

2.2.2.2. Nguyên lý về sự phát triển
11


Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình
vận động đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hồn thiện hơn. Q trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự
vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là
tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên
trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường
như lặp lại một số đặc trưng; đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, thể
hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự
phát triển.
Vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Vận
động là phương thức tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu của vật chất, gắn
với mọi dạng vật chất bất kể trong điều kiện, hoàn cảnh nào. Sự phát triển là
một kiểu vận động đặc biệt, được đặc trưng bởi tính xu hướng, tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Vì thế không phải sự vận động nào cũng
được coi là sự phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho ta phương pháp nhận thức
khoa học về thế giới, chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn để cải tạo tự nhiên
và xã hội. Nếu phát triển là một q trình đổi mới khơng ngừng thì nhiệm vụ
của khoa học là phải nghiên cứu xem xét các sự vật, hiện tượng của thế giới
đang vận động, biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ giản đơn đến phức
tạp, từ thấp đến cao như thế nào. Điều đó địi hỏi phải xem xét sự vật, hiện
tượng trong sự phát triển; phải hành động để đưa đến sự phát triển của sự vật;
phải thấy phát triển là quá trình trong đó tất yếu có sự ra đời của cái mới.
Song sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới là cả một quá trình đấu
tranh gay go, phức tạp. Vì thế phép biện chứng yêu cầu chúng ta phải hướng
tới cái mới, phát hiện cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tương lai phát triển

của nó. Đồng thời trong phát hiện, hướng tới cái mới phải phân biệt cái mới
thực sự với những cái giả danh để kịp thời ngăn chặn, loại trừ. Chỉ những cái
nào ra đời hợp với quy luật, mang nội dung mới trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc loại bỏ cái cũ, có sự phát triển cao hơn về chất so với cái cũ thì mới được
coi là cái mới.
12


Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát
triển của nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất
về sự liên hệ phổ biến và về sự phát triển của thế giới. Với bản chất cách
mạng và khoa học, phép biện chứng đã, đang và sẽ tiếp tục cung cấp cho
chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa
học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung,
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn quân sự nói riêng.
2.3. Những mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường ở Việt Nam đang cịn trong
giai đoạn sơ khai, trình độ quản lý, hệ thống cán bộ cũng như cơ sở vật
chất để tiếp cận nền kinh tế thị trường còn yếu, do vậy khó có thể tránh
khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, thể hiện ở một số mâu
thuẫn sau:
2.3.1. Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới
Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh
hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống
dưới, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại khơng chịu trách
nhiệm gì về vật chất đối với quyết định của mình,….đã tạo nên một phong
cách làm việc trì trệ, thiếu trách nhiệm, sản xuất đình đốn. Chính vì vậy,

khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã khiến nền kinh tế gặp rất nhiều
khó khăn.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động
từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, nhưng phong cách thì
cửa quyền quan liêu, dẫn đến sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động sản
xuất của các cơ quan nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường không
bắt kịp nhịp độ sản xuất do máy móc cũ kỹ lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém
không so sánh được các hàng hố nhập ngoại và các xí nghiệp liên doanh.
13


Mặt khác, nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã tạo nên cho con người
thói quen làm việc rề rà, sản xuất kém năng động đã cản trở sự phát triển nền
kinh tế thị trường
Mơ hình kinh tế cũ- kinh tế chỉ huy, mà điển hình là nền kinh tế kế
hoạch hố, tập trung, bao cấp có ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào
những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm
tiến bộ khoa học- kỹ thuật, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của đơn
vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội, vì vậy
việc giải quyết mâu thuẫn này cũng là để tạo sự phát triển vững mạnh cho
nền kinh tế.
2.3.2. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế trường với
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nhà tư bản bằng cách gia
sức bóc lột sức lao động của cơng nhân làm thuê, do đó đã gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, là việc cạnh tranh không lành mạnh sinh ra
độc quyền dẫn đến sự thôn tính của các cơng ty lớn với cơng ty nhỏ bằng các
thủ đoạn khác nhau. Với sự phát triển của kinh tế thị trường thị quyền lực nhà
nước rất dễ bị lấn át, lũng đoạn bởi các tập đoàn tài chính, những cơng ty lớn

tập trung mọi quyền lực trong tay.
Để giữ vững được việc kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn là xã hội khơng có bất cơng, khơng có sự
phân hố giầu nghèo, mọi người được bình đẳng với nhau,….địi hỏi phải có
sự lãnh đạo của Đảng, vai trị quản lý tích cực của Nhà nước, tính tự giác của
các chủ thể trong nền kinh tế, khắc phục sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân
cư, để nền kinh tế vận hành theo sự phát trỉển kinh tế thị trường mà vẫn đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.3. Mâu thuẫn giữa mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường
Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật
kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh
14


tranh,…Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thơng qua giá
cả thị trường. Nhờ sự vận động của mình thơng qua giá cả mà diễn ra một sự
thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng
cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội (tổng cầu), tức là sự hoạt động
của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội. Kinh tế thị trường có
những ưu điểm và tác dụng mà khơng có cơ chế nào hồn tồn thay thế được,
đó là:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động và hiệu quả.
Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa
tổng cung và tổng cầu, nhờ đó có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân
về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước
làm sẽ phải thực hiện một công việc rất lớn, có khi khơng thực hiện được và
địi hỏi chi phí cao trong q trình ra các quyết định.
Cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức

ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá
biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như
không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi
mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách
tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các
yếu tố sản xuất, vốn đều tuân thủ nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển
đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế sẽ
được phân bổ một cách tối ưu.
Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ
quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh
tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội.
Nhờ có những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải
quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất

15


điều tiết nền sản xuất xã hội, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những
khuyết tật vốn có của nó, cụ thể:
Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm sốt của cạnh
tranh hồn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh khơng hồn hảo, thì hiệu lực của cơ
chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền
có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu được lợi nhuận cao, mặt khác, khi
xuất hiện độc quyền thì khơng có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới
kỹ thuật.
Mục đích hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, vì vậy họ
có thể lạm dụng tài ngun của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con
người, do đó hiệu quả kinh tế- xã hội khơng được đảm bảo.
Phân phối thu nhập khơng cơng bằng, có những mục tiêu xã hội dù cơ

chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động
của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của
cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thị
trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó khơng tự động mang lại
những giá trị mà xã hội muốn vươn tới.
Nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi
những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Người
ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước một khó
khăn nan giải của kinh tế vĩ mơ; khơng có một nước nào trong một thời gian
dài lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc làm.
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên
trong thực tế khơng tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà phải có sự can
thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường.
2.4. Giải quyết mâu thuẫn


Để có thể giải quyết những mâu thuẫn trên và để đảm bảo nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì cần
thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

16


Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì
dân; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam; trên cơ sở liên minh
vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức;
là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc
lập xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập,
dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Trong tổ chức hoạt động của mình,

quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự
phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức hoạt động của Nhà nước
thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, đảm bảo sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ
và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nước
và từng địa phương, của cả toàn hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo
yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị,
quy luật cung- cầu, cạnh tranh,…. giá cả do thị trường quyết đinh; thị trường
có vai trị quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước
trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó
những “thất bại” của thị trường. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả
các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều
khác biệt trong cơ chế vận hành của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền
kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà
nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa chữa những thất
bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo, mà bản thân cơ
chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn
17


định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo cơng bằng xã hội. Khơng ai
ngồi nhà nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện kinh tế

thị trường.
Tóm lại: Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa khơng đơn thuần là sự tìm tịi và phát triển về mặt lý luận của chủ nghĩa
xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mơ hình phát triên
trong thực tiễn mang tính cách mạng sáng tạo ở Việt Nam. Phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với
quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

18


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, ta có thể thấy nền kinh tế thị trường không
phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, nó hồn tồn có thể tồn tại và
phát triển trong chủ nghĩa xã hội và sau đó nữa. Kinh tế thị trường đã và đang
trong quá trình vận động phát triển, từ kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với
những thành tựu đem lại cho chủ nghĩa tư bản, nhưng chủ nghĩa tư bản khơng
thể thốt khỏi những mâu thuẫn bản thân nó. Chính vì vậy, kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định để
chuẩn bị sang giai đoạn hậu cơng nghiệp theo xu hướng xã hội hố. Đây là tất
yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Xã hội muốn tiến lên, muốn
phát triển thì dứt khốt khơng thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Để có thể thực hiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì cần có một
giai đoạn trung gian, đó là giai đoạn thực hiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Và để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì mấu
chốt phải giải quyết mâu thuẫn giữa các nhân tố của kinh tế thị trường và các
nhân tố của xu hướng mới đang vận động và phát triển, đang phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó nhân tố đầu tiên phải đóng vai trị
động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh; nhóm nhân tố thứ hai

đóng vai trị hướng dẫn sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu xác
định, bổ sung mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường nhằm
hồn thiện mơ hình chủ nghĩa xã hội.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên,
thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển
năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước
đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự cơng bằng, bình đẳng và lành
mạnh các quan hệ xã hội. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản
19


xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội. Thúc đẩy tích tụ và tập trung sản
xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với
các nước trên thế giới. Không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt
các vấn đề xã hội và cơng bằng, bình đẳng trong xã hội.
Trong điều kiện phát triển với tốc độ cực nhanh của kinh tế thế giới
hiện nay càng địi hỏi phải có quan điểm trong nhìn nhận và giải quyết các
vấn đề đang đặt ra. Chủ trương “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” mà Đảng ta đề ra trong nghị quyết của mình là một chủ trương
thể hiện sự vận dụng khoa học phép biện chứng duy vật vào hoàn cảnh cụ thể
hiện nay của nước ta trong bối cảnh chung của quốc tế. Nó vừa thể hiện sự
quán triệt các nguyên tắc của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đồng thời còn
là các nguyên tắc của nguyên lý phát triển.

20



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin- NXB Chính trị Quốc Gia- Hà
Nội- 2002
3. Giáo trình Triết học- NXB Lý luận chính trị- Hà Nội- 2006
4. Triết học Mác-Lênin- Tập 2- NXB Quân đội nhân dân- Hà Nội- 1995
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VIII- NXB Chính Trị Quốc
Gia- Hà Nội 1996
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX- NXB Chính Trị Quốc GiaHà Nội 2001
7. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X- NXB Chính Trị Quốc GiaHà Nội 2006

21


MỤC LỤC

22



×