Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Lịch sử Thăng Long – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 69 trang )

Thăng Long thời tiền sử
LỜI MỞ ĐẦU
Thăng Long – Hà Nội là một trong những thủ đô của vùng Đông Nam
Á, thành phố duy nhất ở vùng này có lịch sử lâu đời và liên tục hàng ngàn
năm.
Thăng Long – Hà Nội đã cùng cả nước trải qua bao triều đại, hết thế hệ
này đến thế hệ khác, xây đắp nên giang sơn Việt Nam gấm vóc, đồng thời
tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống trả những thế lực
xâm lược hùng mạnh nhất trong suốt mười thế kỉ qua.
Lịch sử Thăng Long – Hà Nội gắn liền với lịch sử hào hùng của cả dân
tộc Việt Nam. Thăng Long là kinh đô cũ của các triều đại, núi sông tươi
sáng, muôn vật phồn thịnh, hàng ngàn năm nay là nơi đại đô hộ của nước ta.
Hàng ngàn năm xưa ấy, lịch sử kinh đô Thăng Long tuy còn lưu đọng
trong những trang sử cũ nhưng diện mạo của các cung điện, đền đài, lầu gác,
miếu mạo cùng những vật dụng dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các
triều đại như thế nào vẫn là điều bí ẩn và là mối quan tâm lớn của giới khoa
học và dư luận.
Các quộc khai quật khảo cổ trên mảnh đất này đã làm phát lộ một phức
hệ di tích, di vật rất phong phú, đa dạng, cho phép chúng ta hình dung được
quy mô hoành tráng và diện mạo cụ thể bộ mặt kinh thành Thăng Long của
hơn 1000 năm về trước. Cũng trong những phế tích khảo cổ ngổn ngang ấy,
có thể hình dung ra cả một nền nghệ thuật rực rỡ, không chỉ nằm trong ý
tưởng và còn hiện diện lộng lẫy trong màu men xanh, trắng đục hay men
vàng với những cánh hoa sen tao nhã, những hình rồng cuộn vương giả của
kinh kì Thăng Long thời Lý – Trần… Nền nghệ thuật ấy chính là một trong
những cội nguồn sâu sa tạo nên nét thanh lịch của người Thăng Long – Hà
Nội.
Nhóm biên soạn
- 3 -
Thăng Long thời tiền sử
NHỮNG Ý CHÍNH CỦA PHẦN TẬP SAN:


Thăng Long là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung
hưng (1010 - 1788).
Lịch sử
Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn Hoa Lư đến đất Đại La thì
thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay
lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngày nay tên Thăng Long còn dùng trong văn
chương, trong những cụm từ như "Thăng Long ngàn năm văn vật"... Năm
2010, là kỷ niệm 1 thiên niên kỷ của Thăng Long – Hà Nội.
Năm 1243, nhà Trần tôn tạo sửa đổi và gọi Thăng Long là Long Phượng.
Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly cho đặt tên là Đông Đô
Năm 1428, Lê Lợi đặt kinh đô tại Thăng Long và đổi tên là Đông Kinh, vào
khoảng thế kỷ 16, khi Đông Kinh trở thành một đô thị sầm uất, có cả người
Châu Âu đến buôn bán, thì trong dân gian bắt đầu gọi Đông Kinh là Kẻ Chợ
Năm 1805, sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn đặt kinh đô tại Phú
Xuân (Huế) và cho phá thành Thăng Long để xây thành theo phương pháp
của phương Tây do kỹ sư Pháp giúp đỡ.
Từ tháng 12 năm 2002 đến nay, trên khu vực thuộc Hoàng thành Thăng
Long xưa (khu vực giữa các phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập,
Bắc Sơn ở Hà Nội), các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật trên một
diện tích khoảng hơn 19 nghìn m², phát lộ một phức hệ di tích-di vật rất
phong phú, đa dạng từ La Thành-Đại La (thế kỉ 7-9) đến thành Thăng Long
(thế kỉ 11-18) và thành Hà Nội (thế kỉ 19).
- 4 -
Thăng Long thời tiền sử
Chương I: Thăng Long thời Lý
Thăng Long thời Lý là một kinh thành phong kiến.Trên hết là vua.Bình
thường vua mặc áo vàng,quần tía.Răng đen,tóc búi,cài trâm vàng.
Quan lại,sĩ phu mặc áo dài thâm,cổ vòng trên cài khít 4 vạt(tứ thân),quần
thâm,búi tóc,cài trâm sắt,chân đi dép da,tay cầm quạt lông hạc,đầu quấn
khăn sa đen,đỉnh tròn nhỏ.Vào đến hoàng cung thì quan lại đều phải cởi

dép,đi chân không,trời mưa nắng đều phải đội nón.
Dân thường đi chân đất,đàn ông mặc áo màu thâm,đàn bà dùng màu trắng,áo
cánh viền cổ nhỏ,tai đeo khuyên hạc.
Quân sĩ đóng khố, cởi trần.Quân Cấm Vệ trên trán khắc 3 chữ Hán ''THiên
tử binh'' , xăm ngực, xăm đùi và xăm bụng.Từ vua đến dân ai cũng xăm
mình.Mô típ trang trí trên thân thể hoặc hình rồng hoặc ''vẽ như lối văn khắc
trên trống đồng''hay văn hình móc câu khuất khúc như trên đỉnh đồng,lư
đồng thời cổ.Tóc thường gội dầu thơm, lúc ở nhà để đầu trần, khách tới thăm
mới đội khăn.
Vào triều yết kiến, trăm quan mặc áo bào tía,cầm hốt ngà,thắt da đỏ,nặn
sừng tê giác,sau thôm hình cá bằng vàng.
Võng cáng giống Chiêm Thành,Chân Lạp.Võng bằng vải,như cái túi,dùng
đòn dài để khiêng trên có mui dài dùng lá cây trang trí như lớp vẩy cá.Quan
đi võng 2 người khiêng,hai người đi theo hộ giá.Về sau,cuối thế kỷ XII mới
bắt chước Trung Quốc làm kiệu đều ngắn,mưa tạnh đều dùng được.Vua ngồi
xe giát ngọc,giát vàng,quạt lông trĩ ,che hai bên,màn cửa võng bằng bạc rũ
bốn phía,lọng vàng giương trên cao,cờ các sắc phấp phới...
Cấm quân mới được thích rồng ở đùi,xăm ở ngực.Cấm gia nô và các vương
- 5 -
Thăng Long thời tiền sử
hầu,quan liêu bắt chước Cấm quân xâm hình rồng lên người,ai vi phạm bị
sung công làm nô lệ.Đứng đầu người trên phải khoanh tay,yết kiến vương
hầu quý tộc phải quỳ lạy hay vái ba cái.Từ vua đến thường dân đều nhuộm
răng đen,ai cũng thích ăn trầu cau,thích ăn chua và ăn mặn.Vua ở nhà lầu 4
tầng, cột sơn son,vẽ rồng hạc và tiên nữ.Dân ở nhà tranh,vách đất,3 gian,mái
lợp cỏ, lá.
Trời nóng nực,toàn dân kinh thành thích ra sông tắm,ai nấy đều giỏi bơi
lội,giỏi chèo.Mùa mưa lũ cả kinh thành đều đi lại bằng thuyền.Thuyền lầu
của vua quan,thuyền nan của dân.Thuyền vua là cả một tòa nhà nguy
nga,tráng lệ...

Thăng Long, một thời giao thương
Nội, đất kinh kỳ hay còn gọi Thăng Long - Kẻ Chợ. Mối giao lưu buôn
bán của Hà Nội có từ rất lâu, nó gắn liền với việc hình thành và phát triển
kinh thành Thăng Long. Từ thời Lý, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với
nước ngoài đã có những mở mang nhất định. Trong Đại Việt Sử ký toàn thư
có ghi sự kiện vào năm 1149, đời Lý Anh Tông, thuyền buôn các nước
lndonesia, Xiêm La… đến vùng Hải Đông (gồm Hải Phòng, Hải Dương,
Quảng Ninh) xin cư trú và buôn bán. Trong các bạn hàng, Trung Quốc là
nước có quan hệ buôn bán lâu đời với Việt Nam. Hằng năm, thương thuyền
Trung Hoa vẫn qua lại buôn bán với nước ta. Các thương nhân người Hoa
thường đến vào mùa gió đông và đi vào mùa hạ. Họ cập bến tại Vân Đồn
(Quảng Ninh), Vị Hoàng (Nam Định), Phố Hiến (Hưng Yên) và ngược theo
sông Hồng đến Thăng Long - Kẻ Chợ để buôn bán. Thủ tục đầu tiên là các
chủ thuyền phải nộp thuế và lễ vật cho triều đình phong kiến. Hàng hóa các
thương nhân đem đến chủ yếu là vải vóc, giấy bút, đồ đồng, đồ sứ, diêm
sinh, khí giới. Họ mua về hồ tiêu, đường, gỗ, hương liệu, lâm thổ sản...
Những công việc trao đổi buôn bán này chủ yếu diễn ra qua mạng lưới chợ.
Chợ Thăng Long xưa rất nhộn nhịp sầm uất, bởi Thăng Long ngoài trung
tâm đầu não của nhà nước phong kiến còn ở vào địa thế giao thông thuận lợi
cho các mối giao thông buôn bán. Phía đông dọc theo hệ thống sông Lực
Nam, sông Thái Bình có thể ra vùng Hải Phòng, Quảng Ninh, phía nam theo
hệ thống sông Hồng, sông Đáy, sông Vị Hoàng có thể ra Nam Định, Ninh
- 6 -
Thăng Long thời tiền sử
Bình, phía bắc có đường bộ từ Lào Cai, Lạng Sơn rất thuận tiện cho việc
buôn bán bằng đường bộ với Trung Quốc. Song có một điều là tất cả những
con đường đó đều dẫn tới kinh thành Thăng Long phồn hoa và náo nhiệt.
Theo thống kê của nhà sử học Phan Huy Chú thì thế kỷ XVIII Thăng Long
có 8 chợ lớn là chợ Cửa Đông, chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang,
chợ Bà Đá, chợ Văn Cử, chợ Bắc Cử, chợ Ong Nước. Đến thế kỷ XIX thêm

chợ Đông Thành, chợ Yên Thọ (ô Cầu Dền), chợ Thái (Bưởi).
Chợ tạo ra sự giao lưu trao đổi thông thương buôn bán giữa nông thôn với
thành thị, giữa những người nông dân với tầng lớp thị dân (bao gồm cả quan
lại quý tộc, vua, chúa). Chợ Thăng Long ngày trước cũng mang nhiều dáng
vẻ cung bậc khác nhau: Có chợ họp buổi sớm, chợ họp buổi chiều, chợ
phiên, chợ ven đê, chợ trên sông... Có chợ kinh doanh chủ yếu một mặt
hàng, có chợ phong phú đa dạng nhiều mặt hàng. Thương nghiệp chợ kinh
thành bao gồm những người buôn bán chuyên nghiệp, chủ yếu là thị dân gốc
tại đây họ có lều, quán và địa điểm cố định như các hàng vải, hàng xén, hàng
mắm, hàng thịt, hàng cá… Bên cạnh đó, số lượng các tiểu thương, tiểu chủ
cũng không nhỏ, họ thường là những thợ thủ công kiêm thương nhân, tự sản
xuất, giới thiệu và bán những sản phẩm thủ công của mình. Trong tầng lớp
những người buôn bán còn xuất hiện một số nông dân lên kinh thành chạy
chợ, lấy công làm lãi để tận dụng lao động nông nhàn. Ngoài ra phổ biến
hơn cả là những người tiểu nông (nông dân ở các vùng phụ cận) đem những
sản phẩm của mình (chủ yếu là nông phẩm) sản xuất được ra bán. Hệ thống
chợ ở Thăng Long ngày trước thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nền kinh tế
tiểu nông phát triển, tạo ra sự giao lưu đối thoại thường trực giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng, các miền, rộng ra là các nước với nhau, qua đó
các sắc thái văn hóa của từng địa phương cũng có sự giao thoa đan xen hòa
quyện với nhau tạo lên một văn hóa rất đặc trưng mà ngày nay chúng ta vẫn
thường gọi là văn hóa chợ Hà Nội.
Trước đây, buôn bán thương mại ở Thăng Long chủ yếu nằm trong phạm vi
hoạt động của người Việt. Nhưng từ thế kỷ XVII-XVIII, xuất hiện thêm một
số thương điếm của các thương nhân nước ngoài. Năm 1672, đại diện toàn
quyền Anh là Gyfford, đi trên tàu Zant đến Đàng ngoài và lập được thương
điếm ở Phố Hiến, sau thương điếm này rời lên Thăng Long. Cũng vào đầu
thế kỷ XVII, lúc ưu thế buôn bán của Hà Lan vượt lên so với các nước khác.
Năm 1602, công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập, công ty này có thế lực rất
lớn, được nhà nước Hà Lan đầu tư về mọi mặt. Năm 1637, đại diện của phái

đoàn công ty Đông Ấn Hà Lan VOC là Hartsinc, đi trên chiếc tàu Grol đã
- 7 -
Thăng Long thời tiền sử
cập bến ở Đàng ngoài. Haltsinc gặp vua Lê Thần Tông một nhân vật trung
gian có tên là Oursan. Cuộc gặp gỡ thành công tốt đẹp, vua Lê Thần Tông
nhận Hartsinc làm con nuôi và cho phép lập thương điếm ở Phố Hiến. Năm
1645, thương điếm này mở thêm chi nhánh lên Kẻ Chợ. Vậy là cho đến giữa
thế kỷ XVII, người Hà Lan có hai thương điếm ở Đàng ngoài, một ở phố
Hiến, một ở Thăng Long - Kẻ Chợ. Qua việc giao thương buôn bán với các
nước phương Tây một số kỹ thuật được đưa vào Việt Nam như kỹ nghệ đúc
súng, kỹ thuật đóng tàu, nghề làm đồng hồ…
Sự nhộn nhịp của hệ thống chợ, phường nghề phố nghề tại Thăng Long góp
phần tích cực để duy trì thúc đẩy các nghề thủ công nghiệp truyền thống tồn
tại phát triển. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo như khảm, gốm
sứ, mây, tre, chiếu cói bày bán tại kinh thành Thăng Long không chỉ phục vụ
nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cho tầng lớp thị dân mà dáng vẻ thẩm mỹ và
tính chất tinh xảo độc đáo của những mặt hàng này là yếu tố quan trọng thu
hút thương nhân nhiều nước đến đây buôn bán. Giá trị những sản phẩm thủ
công mỹ nghệ này không chỉ đơn thuần ở ý nghĩa sử dụng, biểu trưng nổi
bật chính là những nét văn hóa dân gian được bàn tay khối óc của các nghệ
nhân nhào nặn trong đó, qua đó phần nào phản ánh những ước mơ hoài bão
cũng như tâm hồn nghệ thuật của con người Việt Nam.
Thăng Long thời Lý là một kinh thành phong kiến.Trên hết là vua.Bình
thường vua mặc áo vàng,quần tía.Răng đen,tóc búi,cài trâm vàng.
Quan lại,sĩ phu mặc áo dài thâm,cổ vòng trên cài khít 4 vạt(tứ thân),quần
thâm,búi tóc,cài trâm sắt,chân đi dép da,tay cầm quạt lông hạc,đầu quấn
khăn sa đen,đỉnh tròn nhỏ.Vào đến hoàng cung thì quan lại đều phải cởi
dép,đi chân không,trời mưa nắng đều phải đội nón.
Dân thường đi chân đất,đàn ông mặc áo màu thâm,đàn bà dùng màu trắng,áo
cánh viền cổ nhỏ,tai đeo khuyên hạc.

- 8 -
Thăng Long thời tiền sử
Quân sĩ đóng khố, cởi trần.Quân Cấm Vệ trên trán khắc 3 chữ Hán ''THiên
tử binh'' , xăm ngực, xăm đùi và xăm bụng.Từ vua đến dân ai cũng xăm
mình.Mô típ trang trí trên thân thể hoặc hình rồng hoặc ''vẽ như lối văn khắc
trên trống đồng''hay văn hình móc câu khuất khúc như trên đỉnh đồng,lư
đồng thời cổ.Tóc thường gội dầu thơm, lúc ở nhà để đầu trần, khách tới thăm
mới đội khăn.
Vào triều yết kiến, trăm quan mặc áo bào tía,cầm hốt ngà,thắt da đỏ,nặn
sừng tê giác,sau thôm hình cá bằng vàng.
Võng cáng giống Chiêm Thành,Chân Lạp.Võng bằng vải,như cái túi,dùng
đòn dài để khiêng trên có mui dài dùng lá cây trang trí như lớp vẩy cá.Quan
đi võng 2 người khiêng,hai người đi theo hộ giá.Về sau,cuối thế kỷ XII mới
bắt chước Trung Quốc làm kiệu đều ngắn,mưa tạnh đều dùng được.Vua ngồi
xe giát ngọc,giát vàng,quạt lông trĩ ,che hai bên,màn cửa võng bằng bạc rũ
bốn phía,lọng vàng giương trên cao,cờ các sắc phấp phới...
Cấm quân mới được thích rồng ở đùi,xăm ở ngực.Cấm gia nô và các vương
hầu,quan liêu bắt chước Cấm quân xâm hình rồng lên người,ai vi phạm bị
sung công làm nô lệ.Đứng đầu người trên phải khoanh tay,yết kiến vương
hầu quý tộc phải quỳ lạy hay vái ba cái.Từ vua đến thường dân đều nhuộm
răng đen,ai cũng thích ăn trầu cau,thích ăn chua và ăn mặn.Vua ở nhà lầu 4
tầng, cột sơn son,vẽ rồng hạc và tiên nữ.Dân ở nhà tranh,vách đất,3 gian,mái
lợp cỏ, lá.
Trời nóng nực,toàn dân kinh thành thích ra sông tắm,ai nấy đều giỏi bơi
lội,giỏi chèo.Mùa mưa lũ cả kinh thành đều đi lại bằng thuyền.Thuyền lầu
của vua quan,thuyền nan của dân.Thuyền vua là cả một tòa nhà nguy
nga,tráng lệ...
Thăng Long, một thời giao thương
- 9 -
Thăng Long thời tiền sử

Nội, đất kinh kỳ hay còn gọi Thăng Long - Kẻ Chợ. Mối giao lưu buôn
bán của Hà Nội có từ rất lâu, nó gắn liền với việc hình thành và phát triển
kinh thành Thăng Long. Từ thời Lý, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với
nước ngoài đã có những mở mang nhất định. Trong Đại Việt Sử ký toàn thư
có ghi sự kiện vào năm 1149, đời Lý Anh Tông, thuyền buôn các nước
lndonesia, Xiêm La… đến vùng Hải Đông (gồm Hải Phòng, Hải Dương,
Quảng Ninh) xin cư trú và buôn bán. Trong các bạn hàng, Trung Quốc là
nước có quan hệ buôn bán lâu đời với Việt Nam. Hằng năm, thương thuyền
Trung Hoa vẫn qua lại buôn bán với nước ta. Các thương nhân người Hoa
thường đến vào mùa gió đông và đi vào mùa hạ. Họ cập bến tại Vân Đồn
(Quảng Ninh), Vị Hoàng (Nam Định), Phố Hiến (Hưng Yên) và ngược theo
sông Hồng đến Thăng Long - Kẻ Chợ để buôn bán. Thủ tục đầu tiên là các
chủ thuyền phải nộp thuế và lễ vật cho triều đình phong kiến. Hàng hóa các
thương nhân đem đến chủ yếu là vải vóc, giấy bút, đồ đồng, đồ sứ, diêm
sinh, khí giới. Họ mua về hồ tiêu, đường, gỗ, hương liệu, lâm thổ sản...
Những công việc trao đổi buôn bán này chủ yếu diễn ra qua mạng lưới chợ.
Chợ Thăng Long xưa rất nhộn nhịp sầm uất, bởi Thăng Long ngoài trung
tâm đầu não của nhà nước phong kiến còn ở vào địa thế giao thông thuận lợi
cho các mối giao thông buôn bán. Phía đông dọc theo hệ thống sông Lực
Nam, sông Thái Bình có thể ra vùng Hải Phòng, Quảng Ninh, phía nam theo
hệ thống sông Hồng, sông Đáy, sông Vị Hoàng có thể ra Nam Định, Ninh
Bình, phía bắc có đường bộ từ Lào Cai, Lạng Sơn rất thuận tiện cho việc
buôn bán bằng đường bộ với Trung Quốc. Song có một điều là tất cả những
con đường đó đều dẫn tới kinh thành Thăng Long phồn hoa và náo nhiệt.
Theo thống kê của nhà sử học Phan Huy Chú thì thế kỷ XVIII Thăng Long
có 8 chợ lớn là chợ Cửa Đông, chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang,
chợ Bà Đá, chợ Văn Cử, chợ Bắc Cử, chợ Ong Nước. Đến thế kỷ XIX thêm
chợ Đông Thành, chợ Yên Thọ (ô Cầu Dền), chợ Thái (Bưởi).
Chợ tạo ra sự giao lưu trao đổi thông thương buôn bán giữa nông thôn với
thành thị, giữa những người nông dân với tầng lớp thị dân (bao gồm cả quan

lại quý tộc, vua, chúa). Chợ Thăng Long ngày trước cũng mang nhiều dáng
vẻ cung bậc khác nhau: Có chợ họp buổi sớm, chợ họp buổi chiều, chợ
phiên, chợ ven đê, chợ trên sông... Có chợ kinh doanh chủ yếu một mặt
hàng, có chợ phong phú đa dạng nhiều mặt hàng. Thương nghiệp chợ kinh
thành bao gồm những người buôn bán chuyên nghiệp, chủ yếu là thị dân gốc
tại đây họ có lều, quán và địa điểm cố định như các hàng vải, hàng xén, hàng
mắm, hàng thịt, hàng cá… Bên cạnh đó, số lượng các tiểu thương, tiểu chủ
- 10 -
Thăng Long thời tiền sử
cũng không nhỏ, họ thường là những thợ thủ công kiêm thương nhân, tự sản
xuất, giới thiệu và bán những sản phẩm thủ công của mình. Trong tầng lớp
những người buôn bán còn xuất hiện một số nông dân lên kinh thành chạy
chợ, lấy công làm lãi để tận dụng lao động nông nhàn. Ngoài ra phổ biến
hơn cả là những người tiểu nông (nông dân ở các vùng phụ cận) đem những
sản phẩm của mình (chủ yếu là nông phẩm) sản xuất được ra bán. Hệ thống
chợ ở Thăng Long ngày trước thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nền kinh tế
tiểu nông phát triển, tạo ra sự giao lưu đối thoại thường trực giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng, các miền, rộng ra là các nước với nhau, qua đó
các sắc thái văn hóa của từng địa phương cũng có sự giao thoa đan xen hòa
quyện với nhau tạo lên một văn hóa rất đặc trưng mà ngày nay chúng ta vẫn
thường gọi là văn hóa chợ Hà Nội.
Trước đây, buôn bán thương mại ở Thăng Long chủ yếu nằm trong phạm vi
hoạt động của người Việt. Nhưng từ thế kỷ XVII-XVIII, xuất hiện thêm một
số thương điếm của các thương nhân nước ngoài. Năm 1672, đại diện toàn
quyền Anh là Gyfford, đi trên tàu Zant đến Đàng ngoài và lập được thương
điếm ở Phố Hiến, sau thương điếm này rời lên Thăng Long. Cũng vào đầu
thế kỷ XVII, lúc ưu thế buôn bán của Hà Lan vượt lên so với các nước khác.
Năm 1602, công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập, công ty này có thế lực rất
lớn, được nhà nước Hà Lan đầu tư về mọi mặt. Năm 1637, đại diện của phái
đoàn công ty Đông Ấn Hà Lan VOC là Hartsinc, đi trên chiếc tàu Grol đã

cập bến ở Đàng ngoài. Haltsinc gặp vua Lê Thần Tông một nhân vật trung
gian có tên là Oursan. Cuộc gặp gỡ thành công tốt đẹp, vua Lê Thần Tông
nhận Hartsinc làm con nuôi và cho phép lập thương điếm ở Phố Hiến. Năm
1645, thương điếm này mở thêm chi nhánh lên Kẻ Chợ. Vậy là cho đến giữa
thế kỷ XVII, người Hà Lan có hai thương điếm ở Đàng ngoài, một ở phố
Hiến, một ở Thăng Long - Kẻ Chợ. Qua việc giao thương buôn bán với các
nước phương Tây một số kỹ thuật được đưa vào Việt Nam như kỹ nghệ đúc
súng, kỹ thuật đóng tàu, nghề làm đồng hồ…
Sự nhộn nhịp của hệ thống chợ, phường nghề phố nghề tại Thăng Long góp
phần tích cực để duy trì thúc đẩy các nghề thủ công nghiệp truyền thống tồn
tại phát triển. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo như khảm, gốm
sứ, mây, tre, chiếu cói bày bán tại kinh thành Thăng Long không chỉ phục vụ
nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cho tầng lớp thị dân mà dáng vẻ thẩm mỹ và
tính chất tinh xảo độc đáo của những mặt hàng này là yếu tố quan trọng thu
hút thương nhân nhiều nước đến đây buôn bán. Giá trị những sản phẩm thủ
công mỹ nghệ này không chỉ đơn thuần ở ý nghĩa sử dụng, biểu trưng nổi
- 11 -
Thăng Long thời tiền sử
bật chính là những nét văn hóa dân gian được bàn tay khối óc của các nghệ
nhân nhào nặn trong đó, qua đó phần nào phản ánh những ước mơ hoài bão
cũng như tâm hồn nghệ thuật của con người Việt Nam.

Chương II: Thăng Long thơì Trần
(1226-1400)
Nhà Lý chính thức chấm dứt sự thống trị của mình vào ngày mồng 1 tháng
Chạp năm Ất Dậu (1226), khi Lý Chiêu Hoàng dưới sự đạo diễn của Trần
Thủ Độ đã xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Nhà Trần thay nhà Lý trên chính trường chính trị, đồng thời cũng thay nhà
Lý mở ra một thời kỳ mới phát triển cao hơn của xã hội Đại Việt: vững
vàng, năng động, thống nhất và ổn định cho đến giữa thế kỷ XV. Thăng

Long thời Trần vẫn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá lớn nhất của
Đại Việt bấy giờ. Cuộc chuyển giao triều chính diễn ra một cách hoà bình đã
không làm cho Thăng Long thay đổi nhiều. Về kiến trúc vẫn như thời Lý,
nhiều cung điện trong Hoàng thành và Cấm thành vẫn giữ nguyên. Nhà Trần
ngoài việc trùng tu các công trình cũ còn xây dựng một số công trình kiến
trúc mới ở Thăng Long: lập Viện quốc học, Giảng võ đường... Kinh thành
chia làm 61 phường, bao gồm cả phường buôn, phường thợ và phường làm
nông nghiệp. Một số tên phường trong thời kỳ này còn thấy lác đác ghi trong
sử sách cũ như: Thái Hoà, Báo Thiên, Phủng Nhật, Cơ Xá, Bố Cái, Hạc
Kiều, Thịnh Quang, Toán Viên...
Việc buôn bán giữa Thăng Long và các địa phương đã bắt đầu phát triển.
Sông Tô Lịch thành nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền. Khách buôn
từ khắp nơi đều theo sông Hồng, qua cửa Hà Khẩu vào sông Tô để đưa hàng
vào kinh thành. Việc năm 1400 Hồ Quý Ly đánh thuế thuyền buôn đã chứng
tỏ hình thức buôn bán bằng đường thuỷ ở Thăng Long thời gian này khá
hưng thịnh.
Sự kiện năm 1282 vua Trần Thánh Tôn đi xe từ kinh thành đến Bình Than
(Chí Linh-Hải Hưng) để hội chư quân cho phép chúng ta khẳng định tuyến
đường bộ thời ấy đã tương đối rộng rãi và thông thương thuận tiện. Đây
- 12 -
Thăng Long thời tiền sử
chính là những tiền đề cần thiết cho các hoạt động kinh tế và thương mại của
Thăng Long thời Trần được đẩy lên một diện mạo mới.
Cuối thời Trần, Thăng Long đã được sử sách chép với cái tên “Kẻ Chợ”.
Điều đó cho thấy diện mạo của Thăng Long đương thời đã phần nào mang
dáng dấp của một thành phố quốc tế: một thành phố nhân ái, là nơi giao lưu
và hội tụ của nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá và con người; một thành phố thủ
công và buôn bán nhỏ của người Việt nhưng cũng có các cửa hàng buôn bán
lớn của người Hoa, Hồi Hột, Chà Và...; một thành phố đón tiếp các sứ giả
Tống, Nguyên, Lào, Chiêm Thành, Gia va, các tăng ni bậc thầy cả ở Trung

Á, Ấn độ và có cả những quần tụ người Chiêm Thành ở miền ven nội; một
Thăng Long vừa diễn chèo Việt, tuồng Tầu, và múa điệu người Hồ...
Kinh tế công thương nghiệp thành thị sinh ra tầng lớp thị dân và lối sống thị
dân. Sử chép: vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) thường “lén đi chơi, cứ đến
đêm đi kiệu cùng hơn mười người thị vệ, đi khắp kinh thành, đến gà sáng
mới về” chứng tỏ Thăng Long ngày ấy đã tương đối sầm uất và ắt hẳn có
nhiều hình thức buôn bán cũng như vui chơi về ban đêm.
Thăng Long đời Trần không chỉ xây dựng và sáng tạo nghệ thuật mà còn
đánh giặc và đánh giỏi. Trong vòng 30 năm, ba lần Thăng Long trở thành
toà thành vườn không nhà trống, để rồi là mồ chôn quân xâm lược mà dấu
vết oai hùng vẫn in dấu vàng son mỗi tên người tên đất: Đông Bộ Đầu - dốc
Hàng Than; Giang Khẩu - Hàng Buồm... và cuối cùng, “Đằng giang tự cổ
huyết do hồng” lại nối tiếp chiến công xưa nhấn chìm quân xâm lược cùng
tham vọng bành trướng của chúng. Thăng Long qua ba lần thử lửa vẫn vững
vàng xứng đáng là một đô thành anh hùng.
Nhà Trần tồn tại 175 năm với 12 đời vua nối nhau trị vì trên đất Thăng Long
- Kẻ Chợ.
- 13 -
Thăng Long thời tiền sử
Chương III: Thăng Long thời Mạc – Lê Mạt

(1527-1786)
Cuối triều Lê, chính trường Thăng Long đã diễn ra khá phức tạp kể từ Lê Uy
Mục. Vua kém tài thiếu đức, bề tôi mưu thoán đoạt vương quyền, lòng
người ly tán, chính trị, xã hội khủng hoảng sâu sắc.
Tham gia vào sự biến loạn chủ yếu là các gương mặt thuộc tầng lớp vương
công, văn võ bá quan, trong đó nổi lên nhân vật Mạc Đăng Dung. Đến thời
Lê Cung Hoàng thì uy thế của Mạc Đăng Dung đã bao trùm hết thảy và thu
phục được lòng người. Sử chép về ông như sau: “Từng bình được nhiều giặc
lớn, uy quyền ngày càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt lòng người ai

cũng hướng về Đăng Dung” (Lê Quý Đôn - Đại Việt thông sử). Qua hoạt
động thực tiễn Mạc Đăng Dung đã tỏ ra vượt trội hơn người khác về uy tín
và tài năng. Việc phải đến đã đến, Thăng Long một lần nữa chứng kiến
chính biến vương triều nhà Lê chuyển qua nhà Mạc (1527).
Tuy nhiên họ Mạc lập ra một triều đại mới trong bối cảnh đã hình thành
nhiều thế lực quan liêu có quyền lực quân sự lớn nhỏ cho nên lâm ngay vào
tình trạng chiến tranh phân liệt chứ không phải thống nhất xã hội. Với việc
phế bỏ nhà Lê, họ Mạc đã mở đầu cục diện phân tranh. Cuộc Phân này trước
tiên diễn ra giữa Tây Đô và Thăng Long, hình thành nên cái gọi là Bắc triều
(thế lực nhà Mạc) và Nam triều (thế lực nhà Trịnh) để rồi sau đó chuyển
sang cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài, tiền đề cho một cuộc Hợp lớn vào
hơn 200 năm sau.
Tình hình Thăng Long thời Mạc khá phức tạp, cung điện, kho tàng và các
phường phố ở Kinh thành đã nhiều lần bị thiêu đốt, tàn phá. Hoàng thành
nhiều năm bị bỏ trống càng trở nên hoang phế điêu tàn. Cuối năm 1585 Mạc
Mậu Hợp trở lại Thăng Long cho tu sửa lại Hoàng thành để chống lại cuộc
tấn công của họ Trịnh. Lần tu sửa này Hoàng thành đã thu hẹp lại về hai
phía Đông và phía Tây, một số cung điện bị bỏ ra ngoài hoàng thành trở nên
hoang phế. Tuy vậy Hoàng Thành thời gian này vẫn rộng hơn Hoàng thành
thời Lý - Trần và rộng hơn tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn.
Năm 1592, Trịnh Tùng, con trai của Trịnh Kiểm, đã kéo quân vây đánh
Đông Đô, Mạc Mậu Hợp bị giết. Vua Lê Thế Tông được họ Trịnh phò tá trở
- 14 -
Thăng Long thời tiền sử
lại Thăng Long mở đầu một thời kỳ mới và duy nhất trong lịch sử Việt Nam
vừa có Vua vừa có Chúa, được gọi là thời Lê Trung Hưng. Sau khi đuổi
được họ Mạc ra khỏi Thăng Long, năm 1593 chúa Trịnh cho sửa sang qua
loa lại Hoàng thành để vua Lê ở còn lại tập trung dựng phủ chúa bên ngoài
Hoàng thành. Đây mới là cơ quan đầu não đích thực của trung ương thời bấy
giờ với nhiều công trình kiến trúc xa hoa lộng lẫy: lầu Ngũ Long (phía bờ

Đông hồ Gươm), đình Tả Vọng (nay là gò Rùa), cung Thuỵ Khánh (chỗ đảo
Ngọc Sơn), Năm 1728 Trịnh Giang còn cho đào hầm ở phía Nam hồ Gươm
để dựng cung điện ngầm dưới đất gọi là Thưởng Trì cung. Khu Văn miếu
được mở rộng thêm thành một khu học xá lớn nhất trong thời phong kiến
bao gồm các điện Đại Thành thờ tiên thánh, nhà Giải vũ thờ tiên nho, nhà
Thái học trong đó có trường Quốc Tử Giám. Hai phía Đông và Tây nhà Thái
học dựng nhà bia ghi danh tiến sĩ và dựng cả khu nhà 150 gian cho học sinh
ở tạo thành một nhà học quy mô chưa từng có trong các thời đại trước.
Ngoài ra, hàng loạt các đền chùa có quy mô lớn cũng được dựng lên trong
thời gian này như: chùa Trấn Quốc, chùa Tiên Tích, đền bà Kiệu....
Mặc dù có nhiều biến động về chính trị, xã hội song đây cũng chính là thời
kỳ kinh tế và văn hoá đặc biệt phát triển, hình thành nên những vùng buôn
bán khá hưng thịnh. Chợ phát triển nhiều, buôn bán sầm uất ở kinh kỳ, Kiến
An... Tầng lớp thị dân ngày một gia tăng, có một số trở thành chủ xưởng,
chủ hiệu giàu có, nhưng đông đảo vẫn là người sản xuất và buôn bán nhỏ. Vì
thế Thăng Long không vượt qua được mô hình cấu trúc của thành thị trung
đại phương Đông để trở thành “thành thị tự do” như ở phương Tây. Tuy thế
trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, đây cũng là thời gian thành Thăng Long
chứng kiến sự nở rộ của mặt bằng trí thức. Hàng loạt các tiến sĩ đã thi đỗ,
trong đó có một tiến sĩ nữ (Trần Thị Duệ), có người đã trở thành đại trí thức
như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan... Cùng với những tên tuổi
người Thăng Long gốc: Đặng Trần Côn, Bùi Huy Bích, các vị lập nghiệp ở
đây như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm đã làm cho văn
hoá Thăng Long thêm sáng giá. Đây chính là bước đệm cho sự phục hưng
văn hoá ở các thế kỷ sau.
Đặc biệt đến đầu thế kỷ XVII ở Thăng Long ngày xuất hiện nhiều thương
điếm của người châu Âu như Hà Lan, Anh, đặc biệt là các thuyền nhân
người Hoa sang cư trú và buôn bán. Tất cả những hoạt động đó đều diễn ra
trong một bầu không khí chính trị vần vũ của những cuộc chiến tranh kéo
dài giữa hai thế lực: Chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và Chúa Nguyễn (Đàng

- 15 -
Thăng Long thời tiền sử
Trong). Cuộc chiến chỉ chấm dứt khi người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ nổi
lên tiêu diệt cả hai thế lực, lập lại trật tự vào năm 1786.

Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức (1490)
- 16 -
Thăng Long thời tiền sử
Chương IV: Thăng Long tứ trấn
Thăng Long tứ trấn chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng
Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long đó là:
• Trấn Đông: đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành
hoàng Hà Nội.
• Trấn Tây: đền Voi Phục (hiện nằm trong khuôn viên Công viên Thủ
Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý.
• Trấn Nam: đền Kim Liên, trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau
thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là
phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ thần Cao Sơn.
• Trấn Bắc: đền Quán Thánh (cuối đường Thanh Niên) thờ Huyền
Thiên Trấn Vũ.
Đền Bạch Mã, Thăng Long Đông
trấn
Đền Quán Thánh, Thăng Long Bắc
trấn
Đền Voi Phục,
Thăng Long tứ trấn gồm bốn ngôi đền ở bốn phía trên vòng thành xác định
địa giới Thăng Long, mỗi ngôi đền thờ một vị thần có nguồn gốc riêng và ý
nghĩa khác nhau nhưng cùng chức năng bảo vệ kinh thành và hợp lại cho
thấy ý thức của nhà Lý về việc xây dựng một nền văn hoá Đại Việt tiên tiến
trên cơ sở Phát huy vốn cổ truyền thống kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa

nhân loại. Đó là các đền Voi Phục, đền Kim Liên, đền Bạch Mã và đền Quán
Thánh.
Đền Voi Phục ở công viên Thủ Lệ cạnh cửa Ô Cầu Giấy phía tây kinh thành,
xây trên bờ hồ. Nơi đây ngay trước khi được mở rộng thành vườn bách thú,
vốn đã là một vườn hoa tự nhiên, cây cối um tùm cũng soi bóng mặt hồ,
cảnh vật có phần hoang sơ hàm chứa một vẻ huyền bí, như kết tụ linh khí đất
trời, là thắng cảnh truyền đời.
Đền Kim Liên thuộc làng Kim Liên phường Phương Liên ở phía Nam thành
phố. Đền xưa đã bị phá chỉ còn toà miếu nhỏ với tấm bia rất lớn được khắc
- 17 -
Thăng Long thời tiền sử
và dựng từ năm Hồng Thuận 3 (1510) ghi lại bài văn dài Cao Sơn đại vương
thần bi minh trích tự. Mặt sau ghi thêm ít dòng nữa vào năm Cảnh Hưng 33
(1772) cho biết bia này vốn ở Phụng Hoá, sau trôi nổi về bến Bồ Đề, vào đời
Hoằng Định dân bản phường vớt lên đưa về chùa, sau thấy thiêng lại rước ra
đặt ở bên trái đình, đúng như ngày nay còn thấy, có cây đa cổ thụ trùm lên
càng tạo vẻ cổ kính và thiêng liêng, đúng là nơi cư trú của thần linh.
Đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm, xưa thuộc phường Hà Khẩu trên bờ sông
Hồng cạnh cửa sông Tô Lịch, thuộc phía đông kinh thành là nơi thờ thần
Long Đỗ với hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương.
Đền Quán Thánh ở góc đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, bên sườn
hồ Trúc Bạch nhìn ra Hồ Tây, ở phía bắc kinh thành. Đền thờ thần Huyền
Thiên Chấn Vũ có nguồn gốc phương bắc đã hiển linh ở nước nam từng giúp
các vua Hùng đánh giặc, lại theo sát lịch sử buổi đầu độc lập giúp dân trừ tà
ma và chống hạn.
Thăng Long tứ trấn
Theo sử sách và các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng: Trong tín ngưỡng
người Việt, ngay từ khi dựng đô, các vị vua đã tìm thấy niềm tin vào kinh
thành bền vững một cách ngẫu nhiên, thấy các hướng đều có các vị Phúc
Thần che chở, bảo vệ, tiêu biểu là các vị thần trấn giữ 4 phía Đông - Tây -

Nam - Bắc dân gian quen gọi là “Thăng Long tứ trấn”, đó là thần Long Đỗ
thờ ở đền Bạch Mã, thần Cao Sơn thờ ở đình Kim Liên, thần Linh Lang thờ
ở đền Voi Phục và thần Trấn Vũ thờ ở đền Quán Thánh.
Thăng Long tứ trấn - Văn hóa và lịch sử
Đền Kim Liên là một trấn ở phía nam thành Thăng Long, cùng với đền Quán
Thánh trấn phía bắc (còn gọi là Trấn Vũ), đền Bạch Mã ở phía đông, đền
- 18 -
Thăng Long thời tiền sử
Voi Phục phía tây (còn gọi là Thủ Lệ, Linh Lang) họp thành Thăng Long tứ
trấn tạo nên ý nghĩa và tầm vóc của mảnh đất kinh kỳ.
Thăng Long có bốn vị thần
Để có được một Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn vật và đậm nét văn
hiến hôm nay người dân Hà Nội không bao giờ quên những truyền thuyết về
các vị thần trấn giữ 4 hướng Thăng Long.
Đền Quán Thánh
Nằm bên góc đường Cổ Ngư xưa, nay là đường Thanh Niên, đền Quán
Thánh ở một vị thế có phong cảnh hữu tình, cảnh quan thoáng đãng, gần sát
hồ Tây và hồ Trúc Bạch góp phần tô điểm cho cảnh đẹp cổ kính và thơ
mộng.
Đền Quán Thánh - Trấn Bắc của kinh thành Thăng Long xưa
Đền Quán Thánh còn gọi là Trấn Vũ Quán là nơi thờ thánh Trấn Vũ tại Hà
Nội. Tên đền có khi bị gọi nhầm là Quan Thánh.
- 19 -
Thăng Long thời tiền sử
Đền Quan Thánh - Hà Nội
Đền đợc lập từ khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (1010). Vua cho rớc
bài vị của thần về ở phía Tây Bắc thành, gọi là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế
quán. Quán là nơi thờ tự của đạo Giáo, dân chúng quen gọi là đền Trấn Vũ
hoặc đền Quán Thánh. Đền hiện ở ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán
Thánh, đời Lê thuộc đất phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía

Nam Hồ Tây.
Đền Quan Thánh thờ thần trấn cửa Bắc Thăng Long
Nằm trên góc đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) và phố Quán
Thánh (trông ra Hồ Tây), đền Quan Thánh là nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ -
thần trấn cửa Bắc thành Thăng Long. Sách xưa kể lại, đền có từ thời Cao
Biền (thế kỷ thứ IX) ở phía nam sông Tô. Sau Lý Thái Tổ dời đô (1010), mở
rộng thành cũ đã dời đền về Tây Bắc thành (tức vị trí hiện nay).
Đền Quán Thánh - Di tích lịch sử, văn hóa
Đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, một trong 4 vị thần được tôn
sùng là "tứ linh" của kinh đô.
Đình Kim Liên
- 20 -
Thăng Long thời tiền sử
Đình Kim Liên thuộc phường Kim Liên, phố Kim Hoa quận Đống Đa, Hà
Nội. Đình là một trong "Thăng Long tứ trấn" được xây dựng từ thời vua Lý
Thái Tổ (Lý Công Uẩn) khi vua mới dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các
thư liệu, thư tịch, văn bia câu đối sắc phong về di tích đều khẳng định đình
Kim Liên là nơi thờ thần Cao Sơn, một nhân vật quan trọng trong điện thần
Việt Cổ.
Đền Kim Liên - Trấn phía nam của kinh thành Thăng Long xưa
Trấn giữ phía nam kinh thành Thăng Long là thần Cao Sơn. Đình thờ ngài -
cũng gọi là đền nằm ở làng Kim Liên. Theo văn bản cổ nhất về di tích này
(niên hiệu Hồng Thuận 3 - 1510), đình có tên là "Cao Sơn Đại vương thần
từ".
Đền Kim Liên - Hà Nội
Đình Kim Liên, còn gọi là đền Kim Liên hoặc đền Cao Sơn (Cao Sơn Đại
vương thần từ), ở làng Kim Liên, phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội.
Đền Bạch Mã - Đông trấn chính từ
Được xây dựng trước khi có kinh thành Thăng Long, đền Bạch Mã nằm ở

hướng chính đông, là một trong tứ trấn của kinh thành xưa.
Chùa Tiên Tích - di sản kiến trúc Thăng Long
08/12/2006
- 21 -
Thăng Long thời tiền sử
Chùa Tiên Tích tại 110 Lê Duẩn phường Cửa Nam, Q.
Hoàn Kiếm có lịch sử ra đời vào đầu đời vua Lê Cảnh
Hưng (1740-1786). Chùa nằm trong khu vực cửa Nam, một
trong bốn cửa ngõ của tòa thành Thăng Long xưa. Nằm ở
vị trí địa lý thuận lợi, khu vực Cửa Nam nhanh chóng phát
triển sầm uất, các hoạt động văn hóa - xã hội phong phú.
Trong mấy thế kỷ đầu của Thăng Long, triều đình đã cho xây dựng rất nhiều
công trình nổi tiếng, trong đó chùa Tiên Tích là một trong những công trình
kiến trúc được xây dựng từ ngày ấy.

Tương truyền vào đời nhà Lý, có một hoàng tử đi chơi bị lạc được các tiên
đưa về nên nhà vua dựng ngôi chùa này để tạ ơn các tiên. Lại có truyền
thuyết kể lại rằng, nhà vua đi chơi hồ Kim Âu thấy có vết tích của Tiên
giáng trần hiện ra ở gần hồ bèn cho xây dựng ngôi chùa đặt tên là Tiên Tích
(Vết tích của Tiên).

Theo sử sách xưa viết lại, chùa Tiên Tích ngày xưa rất rộng lớn, sân chùa lát
đá, phong cảnh hữu tình, có hồ nước xanh mát, có hương sen thơm ngát.

Chùa được xây theo hình chữ Đinh gồm Tiền Đường, Thiên Hương và
Thượng điện. Kết cấu ở đây chủ yếu là gạch, ngói và gỗ. Trong chùa, hệ
thống 5 bệ thờ Phật được xếp đặt cao dần tại Thượng điện, trên đó bài trí các
pho tượng của Phật giáo. Phần lớn các pho tượng này được làm dưới triều
Nguyễn, thế kỷ thứ XIX.


Chùa Tiên Tích được xây dựng từ rất sớm, được Chúa Trịnh mở rộng vào
đầu đời vua Lê Cảnh Hưng (1740) và là một thắng tích trong vùng. Chùa
được khôi phục vào đời vua Minh Mạng thứ 14 (1835) và liên tục được tu
sửa, hoàn thiện.

Chùa Tiên Tích đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử, với nhiều
biến cố của thời gian, tuy đã làm thay đổi nhiều về diện mạo, nhưng đến nay
vẫn mang đậm giá trị về mặt lịch sử, khoa học và nghệ thuật.

Sự có mặt của di tích đến hôm nay cùng các di vật như chuông đồng, bia đá
là nguồn tư liệu quý phản ánh sự tồn tại không thể thiếu của đạo Phật trong
đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Đây cũng là nguồn tư
liệu quý cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam, về lịch sử
- 22 -
Chùa Tiên Tích
phường Cửa
Nam ngày nay
Thăng Long thời tiền sử
Thăng Long - Hà Nội. Nó giúp chúng ta hình dung được cảnh quan của
mảnh đất kinh kỳ, hiểu thêm phần nào về đời sống cung đình, vua chúa ngày
xưa.

Cho đến nay, về mặt kiến trúc, nghệ thuật, chùa Tiên Tích còn bảo lưu được
khá nguyên vẹn về hình thức, kết cấu, kiến trúc tôn giáo dưới thời Nguyễn.
Hệ thống tượng tròn mang giá trị thẩm mỹ cao, các pho tượng của chùa
được gia công tỷ mỷ, công phu, giàu tính sáng tạo. Các hiện vật này ngoài
giá trị nghệ thuật còn là khối di sản quý giá kho tàng di sản văn hóa nước
nhà.

Bên cạnh những giá trị về mặt lịch sử, nghệ thuật, chùa còn là nơi giáo dục

truyền thống tốt đẹp cho nhân dân địa phương, là nơi điều chỉnh hành vi đạo
đức của mỗi thành viên trong cộng đồng.

Với những giá trị quý báu trên, di tích chùa Tiên Tích đang được UBND
Thành phố Hà Nội phê duyệt cho Sở VHTT và UBND phường Cửa Nam
cùng nhân dân tôn tạo và trùng tu lại. Đây cũng là công trình xây dựng
hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
- 23 -
Thăng Long thời tiền sử
Hồ Hoàn Kiếm được coi là hòn ngọc của Thủ đô, hay như du khách nước
ngoài gọi là "Lẵng hoa giữa lòng thành phố", nằm lọt giữa lòng Hà Nội. Tuy
là một ngôi đền kiến trúc mới xong đền Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc lại là
một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Theo các nhà khoa học hồ
là một đoạn sót lại của sông Hồng sau khi sông đã chuyển dòng như hiện
nay. Sự việc sông nước biến thiên ấy diễn ra cách đây vài nghìn năm. Trước
đây hồ có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh. Thế kỉ 15, hồ Lục
Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện
trả gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ.

Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi), vua Lý Thái Tổ dời đô
ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên là Ngọc Sơn.
Tại đây đã có một ngôi đền dựng lên để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã
hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Về sau lâu ngày đền
ấy sụp đổ, đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã
dựng cung Thuỵ Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía đông đối diện
với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thuỵ
Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân
nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Năm Thiệu Trị
thứ ba (1843), chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam
Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy

phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền
Ngọc Sơn (Văn Xương là nhân vật đời Kiến Vũ, 25 - 55 sau công nguyên
bên Trung Quốc, sau khi chết được phong là thần chủ về văn chương khoa
cử)

Theo sách "Hà Thành linh tích cổ lục" thì ngay
từ đời Lê, trên đảo Ngọc Sơn đã có đền thờ Quan
Công, người nổi tiếng trung nghĩa đời Tam Quốc
(Trung Quốc). Khi vua Lê và chúa Trịnh dùng hồ
là nơi duyệt thuỷ quân thì đền được coi như một
võ miếu. Dân Hà thành đã đem tượng Đức thánh
Trần thờ phối hưởng bên cạnh Quan Công.
Nhưng "Khâm định Việt sử thông giám cương
mục" lại cho đó là tượng Lê Lai, công thần khai
quốc đời Lê đã xả thân cứu chúa.

- 24 -

Thăng Long thời tiền sử
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu
sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình
Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc
Bội cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có
khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó
là tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là đài Nghiên, trên có đặt một cái
nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con
ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên
mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài
Phương Đình bút. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là
bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên

những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.

Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc
dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng)
dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới
nước nhô lên. Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về
phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng Văn Xương đứng, tay
cầm bút được đặt ở hậu cung trên bệ đá cao
khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá.
Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng- ngụ
ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành
mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình
vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống
đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng
gỗ. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn
Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân
Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di
Đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể
kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho
đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên.
Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch
sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước chính đáng, cũng như tâm linh, ý
thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.

- 25 -

Thăng Long thời tiền sử
Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ
là một nơi hóng gió, một nơi dùng để chơi

thuyền mà còn gắn liền với đời sống về nhiều
phương diện: đêm giao thừa, người người nô nức
du xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của
thiện nam tín nữ đi lễ các đền chùa lân cận. Các
đôi uyên ương trong ngày cưới tìm đến bên hồ
Gươm chụp ảnh lưu niệm. Hè đến, những buổi
chiều oi bức, hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng.
Ai đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt
trước bức tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng tím rạng rỡ
xen giữa những phượng cháy đỏ rực, cơm nguội chín vàng, những tàng cây
ngả xuống, vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc. Mùa thu, hồ
Hoàn Kiếm không những chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ
bên bờ, nắng vàng lấp lánh trên mặt nước mà còn là nơi nhân dân thủ đô lui
tới để xem pháo hoa nhân những ngày hội lớn của dân tộc như 19/8 và 2/9.

Những di tích lịch sử độc đáo: tháp Rùa, tượng vua Lý Thái Tổ, đền Ngọc
Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, đền Bà Kiệu, chùa Bà Đá... và những công trình
kiến trúc hiện đại, mới được xây dựng hoặc tu tạo nhưng luôn đảm bảo kết
hợp hài hoà với cảnh quan vốn có quanh hồ. Hồ Gươm với đền Ngọc Sơn,
cầu Thê Húc và tháp Rùa lung linh bóng nước là hình ảnh của thủ đô Hà Nội
trong mỗi trái tim người Việt Nam.
Chùa Một Cột
Chùa Một Cột hay Chùa Mật còn có tên khác là Diên Hựu hoặc Liên Hoa
Đài , là một ngôi chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đây là ngôi chùa có
kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam.
Lịch sử
Chùa được xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm 1049.
Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có
trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng chùa được xây dựng theo giấc mơ
của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ.

Vào năm 1049, nhà vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen
dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được
- 26 -

Thăng Long thời tiền sử
sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà
sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các
nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa
mang tên Diên Hựu.
Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 Âm lịch, nhà vua lại tới chùa làm lễ tắm
Phật. Các nhà sư và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm
Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con
chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của
một ngày hội.
Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân
hai tháp lợp sứ trắng. Năm 1108, Nguyên phi Ỷ Lan sai đúc một cái chuông
rất to, nặng một vạn hai nghìn cân, đặt tên là "Giác thế chung" (Quả chuông
thức tỉnh người đời). Đây được xem là một trong tứ đại khí - bốn công trình
lớn của Việt Nam thời đó - là: tháp Báo Thiên, chuông Qui Điền, vạc Phổ
Minh và tượng Quỳnh Lâm. "Giác thế chung" đúc xong nặng quá không treo
lên được, để dưới mặt đất thì đánh không kêu. Người ta đành bỏ chuông
xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ, ruộng này có nhiều rùa, do đó
có tên Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa). Đến thế kỷ 15, giặc Minh xâm
lược, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm 1426 Lê Lợi đem nghĩa quân
Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu vũ khí đạn dược,
tướng Minh là Vương Thông bèn đem phá chuông Quy Điền lấy đồng. Quân
Minh thua, nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa.
Văn bia tháp Sùng thiện diên linh (chùa Đọi, Hà Nam), năm 1121 viết: "Do
lòng sùng kính đức Phật và dốc lòng mộ đạo nhân quả (đạo Phật) nên hướng
về vườn Tây Cấm nổi danh (Ngôi vườn ở phía tây cấm thành Thăng Long đời

Lý) mà xây ngôi chùa sáng Diên Hựu theo dấu vết chế độ cũ, cùng với ý mưu
mới của nhà vua (ý nói: theo dấu vết lề lối xây dựng chùa đời Lý Thánh Tông,
có thêm ý mới của Lý Nhân Tông mà chữa lại chùa đẹp hơn trước)".
Đến thời nhà Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa đời nhà Lý nữa vì sách
cũ đã ghi: Năm 1249, "...mùa xuân, tháng giêng, sửa lại chùa Diên Hựu,
xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ...".
Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm
1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được làm lại năm 1955 do kiến-
trúc-sư Nguyễn Bá Lăng đảm-nhiệm.
- 27 -

×