Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tổng phụ trách Đội trong trường THCS trên địa bàn Quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
_____________

______________
MAI VĂN ĐẠI

QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TỔNG PHỤ TRÁCH ĐỘI TRONG TRƯỜNG THCS TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN NGÔ QUYỀN - TP HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60.14.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN THANH
Hà Nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin được gửi lời cảm
ơn đến:
Các thầy, cô giáo Học viện Quản lý giáo dục đã tận tình giảng dạy, chỉ
dẫn tôi trong suốt quá trình tham gia học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Xuân Thanh đã
giúp đỡ và chỉ dẫn tận tình cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Hội đồng Đội, Phòng Giáo dục
quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; Ban Giám hiệu các trường THCS trên
địa bàn quận Ngô Quyền; Hội đồng Đội thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo
thành phố Hải Phòng, Viện Nghiên cứu Thanh niên đã tận tình giúp đỡ, cung
cấp nhiều thông tin và tư liệu quý giá để tôi hoàn thành nhiệm vụ của luận văn.
Xin được gửi đến những người thân yêu trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp những tình cảm biết ơn sâu sắc, đã luôn ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi
về mọi mặt.


Trong quá trình học tập và nghiên cứu, mặc dù bản thân có nhiều cố gắng
để hoàn thành luận văn, nhưng do điều kiện công tác, chắc chắn sẽ còn nhiều
thiếu sót, hạn chế. Kính mong các thầy cô, các chuyên gia, bạn bè, đồng nghiệp
và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề nghiên cứu, tiếp tục đóng góp ý kiến để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
2
Mai Văn Đại
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
- Nội dung, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực
và không trùng lặp với các đề tài khác.
- Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu sai sự thật tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Mai Văn Đại
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
GV Giáo viên
GV TPT Giáo viên Tổng phụ trách
CBQL Cán bộ quản lý
HS Học sinh
CBPT Cán bộ phụ trách
GD - ĐT Giáo dục – Đào tạo
GDMN Giáo dục mầm non
GDPT Giáo dục phổ thông

GDTH Giáo dục tiểu học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
GDTX Giáo dục thường xuyên
GDNN Giáo dục nghề nghiệp
GD ĐH Giáo dục đại học
TNTP Thiếu niên tiền phong
TNCS Thanh niên cộng sản
XHCN Xã hội chủ nghĩa
GP Giải pháp
UBND Ủy ban nhân dân
TP Thành phố
MỤC LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới bước vào thế kỷ XXI đang đứng trước xu thế của thời đại: Hội
nhập, hợp tác, toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực để cùng phát triển. Tri thức,
tài năng và nguồn lực con người là con đường để đổi mới và phát triển. Vấn đề
đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới những thời cơ và thách thức lớn đối
với bản lĩnh và trình độ của mỗi dân tộc. Cả thế giới đang chuyển từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa
vào tri thức con người.
Việt Nam đang đứng trước một xã hội tương lai: xã hội thông tin, xã hội
học tập, ở đó mỗi người phải nỗ lực học tập, học tập suốt đời trong một nền giáo
dục tốt nhất để có được những phẩm chất, năng lực mới xứng đáng ở vị trí trung
tâm của sự phát triển.
5
Giáo dục và đào tạo là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng

của Đảng, Nhà nước và của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đề ra và Đại hội X kế thừa là: Để đạt được các yêu cầu về con người và nguồn nhân
lực - nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa - Hiện
đại hóa đất nước - cần phải tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X trong báo cáo chính trị đã khẳng định một lần nữa: “Đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao” và
“Đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học,
bậc học”. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của
dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho sự
phát triển bền vững”.
Trong Chỉ thị số 40/CT - TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu
rõ: “Mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục là xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua việc quản lý, phát
triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong điều 15 của Luật Giáo Dục cũng đã ghi rõ: “Nhà giáo giữ vai trò
quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”. Vì vậy, xây dựng, phát
triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ cấp thiết của Ngành
giáo dục và tất cả các nhà trường.
Để chất lượng giáo dục trong trường học đạt yêu cầu và đảm bảo chất
lượng, không thể không kể đến vai trò của công tác Đội và phong trào thiếu nhi,
trong đó, người GV TPT Đội là người chịu trách nhiệm chính, là linh hồn trong
tất cả mọi hoạt động Đội, hoạt động ngoại khóa của nhà trường.
6

Giáo viên Tổng phụ trách Đội trong nhà trường là người có vị trí, vai trò,
nhiệm vụ vô cùng quan trọng, quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt
động Đội trong nhà trường. Giáo viên Tổng phụ trách Đội là một mắt xích quan
trọng kết nối ngành giáo dục với hoạt động Đội. Do đó hoạt động Đội trong nhà
trường có sôi nổi hay không, có hiệu quả và thiết thực hay không còn phụ thuộc
vào năng lực và phẩm chất của người giáo viên làm Tổng phụ trách Đội. Vì thế,
để có được những hoạt động Đội thu hút, hiệu quả và hấp dẫn các em học sinh,
đòi hỏi người giáo viên Tổng phụ trách Đội phải có năng lực, và quan trọng
nhất đó là năng lực tổ chức các hoạt động thực tiễn cho các em và phải biết thiết
kế và thực thi các hoạt động đó. Thực tiễn trong những năm gần đây, nhiều giáo
viên TPT Đội được đề cử thường là những giáo viên còn rất trẻ cả tuổi đời và
tuổi nghề, chưa có những kinh nghiệm về công tác Đội, còn phải làm kiêm
nhiệm, không được đào tạo một cách chính quy. Do đó khả năng thiết kế và chỉ
đạo thực hiện các hoạt động của Đội trong nhà trường còn nhiều hạn chế.
Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của tổ chức
Đội và chất lượng đội viên. Để có thể tự mình thiết kế được một hoạt động nhân
các ngày lễ lớn hay theo các chương trình hoạt động hoặc những hoạt động
thường ngày của Đội đòi hỏi người giáo viên TPT Đội phải luôn luôn học hỏi,
tích lũy kinh nghiệm, cần cù, chịu khó và tiếp cận thực tế. Để công tác Đội ngày
càng có hiệu quả và có chiều sâu, đáp ứng được những nhu cầu của sự phát triển
đa dạng, phong phú của thiếu nhi. Qua hơn 06 năm làm việc trong lĩnh vực công
tác Đội và phong trào thiếu nhi; bằng những kinh nghiệm được rút ra trong quá
trình hoạt động thực tiễn thông qua các đợt tập huấn, tiếp thu ý kiến và học hỏi
kinh nghiệm từ các giáo viên Tổng phụ trách Đội, và được các đồng nghiệp
đóng góp, tôi đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Và với mong muốn
góp phần cùng các giáo viên Tổng phụ trách Đội thực hiện tốt hơn công tác bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng của thành phố Hải Phòng nói chung
và của quận Ngô Quyền nói riêng, tôi chọn đề tài: “ Quản lý phát triển đội ngũ giáo
viên tổng phụ trách Đội trong trường THCS trên địa bàn Quận Ngô Quyền,
Thành phố Hải Phòng ” làm đề tài nghiên cứu của mình.

7
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng quản lý phát triển đội
ngũ giáo viên Tổng phụ trách Đội trong trường THCS Quận Ngô Quyền, Thành
phố Hải Phòng để đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất
lượng quản lý phát triển đội ngũ giáo viên làm tổng phụ trách đội trên địa bàn.
3. Nhiêm vụ nhiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý phát triển đội ngũ giáo viên
Tổng phụ trách Đội trong trường THCS.
3.2. Đánh giá thực trạng quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tổng phụ
trách Đội các trường THCS Quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng
3.3. Đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường phát triển đội ngũ giáo viên
tổng phụ trách Đội trong trường THCS trên địa bàn quận Ngô Quyền, Thành
phố Hải Phòng
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
- Công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên Tổng phụ trách Đội.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên Tổng phụ trách đội trong
trường THCS trên địa bàn quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng.
5. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ giáo viên làm Tổng phụ trách đội trong trường THCS đã làm tốt
được vai trò trách nhiệm của mình. Tuy nhiên trước yêu cầu của việc nâng cao
chất lượng hoạt động của Đoàn, Đội thì đội ngũ giáo viên làm tổng phụ trách
đội còn nhiều hạn chế. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý phát triển đội
ngũ giáo viên làm tổng phụ trách Đội trong trường THCS trên địa bàn Quận
Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng một cách khoa học, khách quan, công bằng
và dân chủ thì sẽ tác động tích cực đến chất lượng giáo viên làm tổng phụ trách.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

8
Phân tích, tổng hợp và khái quát hóa những vấn đề lý luận liên quan đến
nội dung nghiên cứu của đề tài dựa trên các tài liệu lý luận khoa học, tạp chí,
sách báo, các báo cáo của Hội đồng Đội các cấp, hoạt động Đội của các trường
THCS trên địa bàn triển khai…
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp tọa đàm.
6.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tình hình
giáo viên tổng phụ trách Đội từ năm 2010 đến 2014, từ đó đưa ra các biện pháp
nhằm nhằm góp phần trong công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên làm
tổng phụ trách Đội các trường THCS trên địa bàn quận Ngô Quyền, Thành phố
Hải Phòng.
8. Cấu trúc luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý phát triển đội ngũ giáo viên làm
Tổng phụ trách Đội trong trường THCS.
Chương 2: Thực trạng quản lý phát triển đội ngũ giáo viên làm Tổng phụ
trách Đội trong trường THCS trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng.
Chương 3: Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên làm Tổng phụ
trách Đội trong trường THCS trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TỔNG PHỤ TRÁCH ĐỘI TRONG TRƯỜNG THCS


1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò của người thầy
giáo như: “Không thầy đố mày làm nên”, không có thầy giáo thì sẽ không có
giáo dục. Điều đó nhắc nhở mọi người phải quan tâm mọi mặt và toàn diện đến
giáo dục mà chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất đó chính là đội ngũ giáo viên.
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong thư gửi các cán bộ, các thầy giáo, cô
giáo, công nhân viên, HS, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới ngày 16 tháng
10 năm 1968 rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách
10
mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành các cấp Đảng, chính quyền
địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường
về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta những bước phát triển mới” [24],
“Cán bộ và giáo dục phải tiến bộ cho kịp thời đại mới làm được nhiệm vụ, chớ
tự túc tự mãn cho là giỏi rồi thì dừng lại” [Bài nói của Bác tại lớp học chính trị
của giáo viên – Nguồn: Báo điện tử Đảng cộng sản, ngày 21/9/2011].
Kể từ sau cách mạng tháng Tám thành công và các cuộc cải cách giáo
dục năm 1950, 1956, 1979 và trong những năm “Đổi mới”, nhiều công trình
nghiên cứu đã để lại những bài học quý giá về xây dựng và phát triển đội ngũ
GV như: Nguyễn Thị Phương Hoa (2002, Con đường nâng cao chất lượng cải
cách các cơ sở đào tạo giáo viên); Đinh Quang Báo (2005, Giải pháp đổi mới
phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên); Đặng Quốc
Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa (2007, Cẩm nang nâng cao năng lực
và phẩm chất đội ngũ giáo viên); Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần
Bá Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm Quang Thiệp (Đổi mới nội dung đào tạo giáo
viên THCS theo chương trình cao đẳng sư phạm mới); Bùi Văn Quân, Nguyễn
Ngọc Cầu (Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ giảng
viên) v.v…Các công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3 hướng: a)
Nghiên cứu phát triển đội ngũ GV dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực; b)

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và c)
Nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ giáo
viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên các công
trình kể trên hầu hết vẫn còn để lại khoảng trống nghiên cứu về quản lý đội ngũ
giáo viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về chính
sách tuyển dụng, sử dụng và về vai trò, vị trí mới của đội ngũ giáo viên trong
tiến trình phát triển nhà trường Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế và xu
thế toàn cầu hóa.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu quản lý phát triển giáo viên Tổng phụ trách
Đội, đây là nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản của Hội đồng Đội và ngành Giáo dục
11
các cấp. Từ lâu, đã có rất nhiều các tổ chức, các cá nhân quan tâm tới các đề tài
nghiên cứu về đội ngũ này. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Sổ tay Người phụ trách Đội - Ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, Nhà
xuất bản Thanh niên 1960.
- Giáo trình công tác Đội TNTP Hồ Chí Minh - Trường Đoàn Trung ương
và Trung tâm Khăn quàng đỏ, xuất bản năm 1985.
- Sổ tay người phụ trách chi đội - Hoàng Giai, Nhà xuất bản Thanh niên
1988.
- Lao động của người phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh - Nguyễn Hữu
Thiện. Nhà xuất bản Trẻ 1987.
Những công trình nói trên có đặc điểm đều là tài liệu có tính giáo trình,
giới thiệu về hệ thống nguyên lý giáo dục, trình bày những yêu cầu về vai trò,
về phương pháp và nội dung công tác của đội ngũ phụ trách Đội.
Trong những giai đoạn trước, công tác nghiên cứu khoa học về Đội
TNTP Hồ Chí Minh chưa hình thành, chưa xác định rõ tính chất hệ thống của
lực lượng GV TPT Đội, nhưng trong thực tiễn công tác Đội và ngành Giáo dục
vẫn xây dựng đội ngũ GV TPT Đội mang tính hệ thống và đã nhiều lần thay đổi
cấu trúc đội ngũ này.
Những nghiên cứu cơ bản, nghiêm túc về thực trạng đội ngũ GV TPT

Đội, tổng kết, lý giải nguyên nhân các vấn đề trong công tác GV TPT Đội
không có nhiều, đặc biệt đối với ngành giáo dục, chưa thực sự có nhiều tác giả
dành công sức để nghiên cứu về linh vực này. Đối với lĩnh vực Đoàn - Đội,
trong các văn bản chính thức, bao gồm các báo cáo hằng năm và báo cáo tại các
Đại hội Đoàn toàn quốc đều có điểm qua tình hình đội ngũ GV TPT Đội, trong
đó có hai công trình tiêu biểu:
Một là: Báo cáo “Góp phần kiến giải nguyên nhân gây nên sự sa sút chất
lượng tổ chức Đội” của Nguyễn Hữu Thiện tại Hội nghị chính sách Thế hệ trẻ
do Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 1989. Đây là công trình đầu
tiên nhấn mạnh tính hệ thống của đội ngũ GV TPT Đội, phê phán sự ép buộc
phải làm GV TPT Đội, đồng thời phân tích khá sâu về sự khác biệt vai trò
12
GVCN và GV TPT Đội. Quan điểm của Nguyễn Hữu Thiện là sự khủng hoảng
Đội ngũ của GV TPT Đội bắt nguồn từ sự khủng hoảng về mục tiêu quá trình
giáo dục của tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh. Sai lầm bắt đầu từ lúc tổ chức
Đội được đưa vào nhà trường. Mọi vấn đề của tổ chức Đội, trong đó có vấn đề
giải pháp ổn định và phát triển đội ngũ GV TPT Đội chỉ có thể được giải quyết
tận gốc nhờ một cuộc giải phẫu lớn, để thay đổi mối quan hệ giữa Đội với nhà
trường.
Hai là: Báo cáo kết quả đợt khảo sát tình hình đội ngũ GV TPT Đội tại 6
tỉnh thành, do tổ công tác Liên ngành Bộ Giáo dục và Đào tạo và Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiến hành trong tháng 11 năm 1994. Trên cơ sở kết
quả của đợt khảo sát, Thông tư liên ngành số 23 ngày 15/1/1996 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn, Ban Tổ chức Chính phủ và Bộ Tài chính đã
được ban hành. Thông tư đã khẳng định tiếp tục cải tiến, tăng cường chế độ
chính sách cho đội ngũ GV TPT Đội.
Tuy nhiên hai công trình này cũng chỉ mới đề cập chủ yếu tới bộ phận
nhỏ GV TPT Đội. Về thực chất hai công trình đã đưa ra các biện pháp hoàn
toàn phủ định nhau.
Trong phạm vi một đề tài nghiên cứu thạc sĩ quản lý giáo dục, tác giả

nhận thấy cần phải tiếp tục đi tìm những luận điểm, luận cứ để khẳng định quan
điểm cần quản lý phát triển đội ngũ GV TPT Đội trong nhà trường, đặc biệt đối
với luận văn này, tác giả đi sâu tìm hiểu và đề xuất các biện pháp quản lý phát
triển đội ngũ GV TPT Đội trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
1.2 Một số khái niệm.
1.2.1. Quản lý
Quản lý: Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm. Con người
trong hoạt động của mình, để đạt được mục tiêu cá nhân phải dự kiến kế hoạch,
sắp xếp trình tự tiến hành và tác động đến đối tượng bằng cách nào đó theo khả
năng của mình. Trong quá trình lao động tập thể càng không thể thiếu được kế
hoạch, sự phân công và điều hành chung, sự hợp tác và quản lý lao động… Như
vậy quản lý tất yếu nảy sinh và nó chính là một phạm trù tồn tại khách quan
13
được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia, trong mọi
thời đại. Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý.
Theo các tác giả nước ngoài
Ở góc độ quản lý với tư cách là một chức năng xã hội dưới dạng chung
nhất thì quản lý được xác định là cơ chế để thực hiện sự tác động có mục đích
nhằm đạt được những kết quả nhất định. Đề cập đến hoạt động quản lý, người ta
thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của K.Marx: “Một nghệ sĩ vỹ cầm thì tự điều
khiển mình còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng”.
K.Marx coi việc xuất hiện của quản lý như một dạng hoạt động đặc thù của
con người được gắn liền với sự phân công và hợp tác lao động; quản lý là kết quả
tất yếu của sự chuyển những quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau
thành một quá trình lao động xã hội được tổ chức lại: “Trong tất cả những công
việc mà có nhiều người hợp tác với nhau thì mối liên hệ chung và sự thống nhất
của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong một ý chí điều khiển và trong những
chức năng không có quan hệ với những công việc bộ phận, mà quan hệ với toàn
bộ hoạt động của công xưởng, cũng giống như trường hợp nhạc trưởng của một
dàn nhạc vậy. Đó là một thứ lao động sản xuất cần phải được tiến hành trong một

phương thức sản xuất có tính chất kết hợp” .
Theo F.W.Taylo (1856 - 1915) người Mỹ được coi là “Cha đẻ của Thuyết
quản lý khoa học”, là một trong những người mở ra “Kỷ nguyên vàng” trong
quản lý đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lý là “Mỗi loại công
việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và đều phải quản lý chặt chẽ”. Ông
cho rằng “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và
sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất”
[18].
Theo quan điểm của lí thuyết hệ thống, quản lý là “Phương thức tác động
có chủ đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên hệ thống, bao gồm hệ thống
các quy tắc, các ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ
thống nhằm duy trì tính trội hợp lí của cơ cấu và đưa hệ thống sớm đạt được
những mục tiêu dự kiến” [18].
14
Theo các nhà nghiên cứu quản lý XHCN thì quản lý là: “Đảm bảo tối đa
sự phù hợp của nhân tố chủ quan hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân
với những yêu cầu của các quy luật khách quan, của sự phát triển xã hội”, đây là
quan niệm quản lý theo nghĩa rộng. Quan niệm này đã nhấn mạnh cả yếu tố con
người và yếu tố khoa học (tức là nắm vững và hành động phù hợp với quy luật
khách quan) của quản lý.
Theo Omarốp: “Quản lý là tính toán sử dụng hợp lý các nguồn lực (nhân
lực, vật lực, tài lực) nhằm thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ với hiệu
quả kinh tế tối ưu”.
Theo P. Baranger thì: “Quản lý là cai trị (Gouverner) một tổ chức bằng
cách đặt ra các mục tiêu và hoàn chỉnh các mục tiêu cần phải đạt là lựa chọn, sử
dụng các phương tiện nhằm đạt các mục tiêu đã định” [18].
Theo Aunapu (Nhật Bản): “Quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa học
và nghệ thuật tác động vào hệ thống mà chủ yếu là vào những con người nhằm
đạt các mục tiêu kinh tế, xã hội xác định” [18].
Theo Henry Fayol: “Quản lý - nghĩa là dự kiến, tổ chức, lãnh đạo, phối

hợp và kiểm tra” [18].
Theo các tác giả trong nước
Theo Từ điển Tiếng Việt do nhà xuất bản Đà Nẵng. Trung tâm từ điển
học Hà Nội - Đà Nẵng xuất bản 1995, Quản lý có nghĩa là:
“Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định,
Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.
Theo tác giả Trần Kiểm thì: “Quản lý là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức một cách tối
ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [16, tr.6 ].
Trong giáo trình Khoa học tổ chức và quản lý - một số vấn đề lí luận và
thực tiễn, các tác giả cho rằng: Quản lý là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức
hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong một tổ chức và sử
dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu cụ thể.
15
Đề cập đến vấn đề quản lý, tác giả Đặng Vũ Hoạt và tác giả Hà Thế Ngữ
cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý
một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định” [17, tr.29].
Những quan niệm về quản lý trên đây tuy có cách tiếp cận khác nhau,
nhưng có thể nhận thấy chúng đều bao hàm một nghĩa chung, đó là:
Quản lý là các hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá
nhân, đảm bảo hoàn thành các công việc và là phương thức tốt nhất để đạt được
mục tiêu chung của tập thể.
Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản
lý lên đối tượng quản lý thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu
quả cao nhất các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến động để hệ thống
ổn định phát triển, đạt được những mục tiêu đã định.
Tóm lại: Quản lý là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn
các quá trình xã hội, những hành vi hoạt động của con người, huy động tối đa
các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục đích theo ý chí của nhà quản lý và phù

hợp với quy luật khách quan.
1.2.2. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là một trong những hoạt động quan trọng của các cơ
sở đào tào, đây là việc các cơ sở đào tạo tiến hành đề ra các chương trình, mục
tiêu kế hoạch cho từng giai đoạn cụ thể của nhà trường nói chung và mục tiêu
kế hoạch cho từng năm học. Đây không chỉ là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, mà nó còn có tính chất quyết định đến sự thành công của đơn vị đào tạo,
bởi vì nếu công tác quản lý nhà trường được làm tốt thì chắc chắn nó sẽ mang
lại hiệu quả cao. Quản lý nhà trường là một khái niệm rộng trong đó bao gồm :
quản lý cơ sở vật chất ( trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy và học, các hệ
thống công trình của nhà trường), quản lý hoạt động dạy của giảng viên, và
quản lý hoạt động học của học sinh, sinh viên. Để hoạt động quản lý nhà trường
phát huy tính hiệu quả và mang lại lợi ích cao thì đơn vị đào tạo phải có chiến
lược và chương trình quản lý đúng đắn, phù hợp với đặc điểm tình hình của đơn
vị mình. Dựa vào đặc điểm của đơn vị đào tạo cũng như mục đích đào tạo riêng
16
có mà đề ra chiến lược, chương trình quản lý nhà trường phát huy hết thế mạnh
của mình. Bên cạnh đó không ngừng bổ sung những thiếu sót, những hạn chế để
từ đó hoàn thiện hơn.
1.2.3. Phát triển.
Theo từ điển tiếng Việt, phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít
đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp.
Theo quan điểm triết học, phát triển là quá trình vận động từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chỗ chưa hoàn thiện đến chỗ hoàn thiện hơn
và kết quả là cái mới tích cực tiến bộ ra đời thay thế cho cái cũ tiêu cực, phản
tiến bộ. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối
lập, là việc giải quyết các mâu thuẫn. Cơ chế, cách thức của sự phát triển là sự
tích lũy về lượng đủ độ sẽ dẫn đến biến đổi về chất. Con đường của sự phát
triển là quanh co, phức tạp, dích dắc theo đường xoáy trôn ốc đi lên.
Theo quan điểm xã hội học, phát triển là sự tiến bộ xã hội, là sự chuyển

biến trong mọi lĩnh vực đời sống, từ nhận thức, từ cơ cấu tổ chức vi mô đến vĩ
mô, đến chuẩn mực hành vi cá nhân… theo chiều hướng tích cực, tốt hơn, hoàn
thiện hơn.
Ổn định không mâu thuẫn với phát triển, mà là tiền đề của sự phát triển.
Phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật: hướng đi
lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn Nhưng nếu hiểu sự
vận động phát triển một cách biện chứng toàn diện, sâu sắc thì trong tự bản thân
sự vận động phát triển đã bao hàm sự vận động thụt lùi, đi xuống với nghĩa là
tiền đề, điều kiện cho sự vận động đi lên, hoàn thiện.Ý nghĩa của nguyên lí này
đòi hỏi: trong khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải tôn trọng nguyên
tắc phát triển của chúng, không được thành kiến định kiến Luôn lạc quan tin
tưởng vào khuynh hướng vận động của sự vật, tạo mọi điều kiện để sự vật phát
triển ( 19. Tr 11. Báo cáo khoa học, nghiên cứu gpháp ổn định và phát triển
đội ngũ cán bộ phụ trách đội TNTP Hồ Chí Minh- Hà nội 1999).
1.2.4. Phát triển đội ngũ giáo viên
17
Phát triển đội ngũ GV là phát triển con người. Theo Edouard Awattez:
phát triển con người là mở rộng cơ hội lựa chọn để con người có thể nâng cao
chất lượng cuộc sống toàn diện của chính mình một cách bền vững. Theo nghĩa
hẹp, phát triển đội ngũ GV là phát triển nguồn lực con người trong ngành
GD. Đào tạo đội ngũ GV có năng lực lao động, làm cho mỗi GV tự tạo và phát
triển bản thân. Phát triển đội ngũ GV là làm cho đội ngũ GV biến đổi theo chiều
hướng đi lên. Phát triển đội ngũ GV đủ về số lượng, từng bước nâng cao chất
lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đó là quá trình phát triển đội ngũ GV có trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cao và có phẩm chất đạo đức tốt. Phát triển
đội ngũ GV phải được bắt đầu từ việc tuyển lựa những GV có năng lực, đào
tạo bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc của họ, kích
thích sự sáng tạo, đổi mới, định hướng, tạo cơ hội để họ phát triển chuyên môn.
1.2.5. Đội TNTP Hồ Chí Minh.
Đội TNTP Hồ Chí Minh là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam do Đảng

Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh trực tiếp phụ trách và chỉ đạo.
- Là lực lượng giáo dục trong và ngoài trường, lực lượng hậu bị của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh và là lực lượng nòng cốt trong các phong trào thiếu nhi.
- Được tổ chức và hoạt động trong trường học và trên địa bàn dân cư.
- Lấy 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng là mục tiêu phấn đấu, rèn
luyện cho đội viên, giúp đỡ thiếu nhi trong học tập, hoạt động vui chơi, thực
hiện quyền và bổn phận theo luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em.
- Đội TNTP HCM đoàn kết, hợp tác với các tổ chức, phong trào thiếu nhi
khu vực và thế giới vì quyền lợi của trẻ em, vì hòa bình, hạnh phúc các dân tộc.
1.2.6. Giáo viên Tổng phụ trách Đội.
Để hiểu một cách sâu sắc và đầy đủ về khái niệm Giáo viên tổng phụ
trách Đội, trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm Cán bộ phụ trách Đội.
Thuật ngữ CBPT Đội được những người Nga - Xô Viết đưa ra đầu tiên
khi xây dựng mô hình tổ chức Đội TNTP Lê Nin. Trong tiếng Nga, từ CBPT-
vazatưi có gốc vozđ có nghĩa là người lãnh đạo, người tù trưởng; còn vazak lại
18
có nghĩa là người dẫn đường, người hướng đạo hoặc đầu đàn. Từ này có dụng ý
gọi người lãnh đạo của các em một cách ngộ nghĩnh, hợp với tâm lý trẻ em.
Thời kỳ đầu ở Việt Nam thường hay dùng thuật ngữ cán bộ phụ trách
thiếu nhi. Cách gọi này có từ thời kỳ trước cách mạng, trước cả khi thành lập tổ
chức Đội TNTP. Sau này, nhiều người vẫn quen gọi như vậy, với suy nghĩ làm
phụ trách là làm việc với cả Đội thiếu niên và cả với Đội nhi đồng. Khi không
còn Đội nghi Đồng, cách hiểu như vậy không còn đúng, nhưng người ta vẫn
quen dùng vì quan niệm phụ trách thiếu nhi là phải làm việc với cả thiếu nhi
chứ không phải chỉ với đội viên. Từ khi Ủy ban thiếu niên nhi đồng đã tách khỏi
cơ quan Đoàn thanh niên, trở thành một cơ quan nhà nước có tính độc lập với
tên là Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, khái niệm phụ trách công tác thiếu nhi
đã có những nội hàm mới. Bởi vậy, phải gọi là phụ trách Đội, vì như thế sẽ nói
rõ đối tượng này thuộc về tổ chức Đội TNTP.

Đối với ngành Giáo dục, mà cụ thể là đối với các trường Tiểu học và
Trung học cơ sở ở nước ta hiện nay, tổ chức Đội đóng vai trò rất quan trọng
trong việc phối hợp với nhà trường giáo dục đạo đức, nhân cách cho các em. Để
tổ chức và quản lý hoạt động Đội trong trường học, lực lượng GV TPT Đội xuất
hiện, vừa thay mặt cho tổ chức Đội, tổ chức Đoàn, vừa thay mặt cho nhà trường
đứng ra quản lý, tổ chức hoạt động cho các em. Và cho đến hiện nay, vai trò của
người GV TPT Đội đã trở nên rất quan trọng, là một thành viên không thể thiếu
trong bộ tứ quản lý ở trường học.
1.3. Lý luận về công tác Đội TNTP Hồ Chí Minh.
1.3.1. Vị trí, vai trò của công tác Đội.
Thiếu nhi là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Khi các em được tổ chức thành đội ngũ,
trong tổ chức Đội của mình, thì Đội trở thành một lực lượng cách mạng theo
tình thần “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, đồng thời Đội là một lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường. Thực tiễn đã cho thấy dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
phụ trách của Đoàn, trong Cách mạng Dân tộc, dân chủ nhân dân, Đội là một
thành viên trong Mặt trận Việt Minh. Đội TNTP Hồ Chí Minh và các đội viên
19
cùng cha anh tham gia các phong trào cách mạng, như làm giao liên, vào các
đội du kích, tiếp tế lương thực thực phẩm, bảo vệ cán bộ và trực tiếp giết giặc
lập công. Sự đóng góp của các tập thể Đội và đội viên đã góp phần làm nên
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến oanh liệt của
dân tộc, bảo vệ toàn vẹn Tổ quốc.
Trong cách mạng XHCN, Đội thực sự là lực lượng giáo dục thiếu nhi, vừa là
lực lượng cách mạng quan trọng, đã có những đóng góp không nhỏ của mình vào sự
ổn định chính trị xã hội, phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân.
Đặc biệt vai trò của Đội tiếp tục được khẳng định trong quá trình đổi mới
của đất nước, bằng những hoạt động thiết thực của mình trong các trường phổ
thông, trên địa bàn dân cư như: Phong trào “Áo lụa tặng bà”, phong trào “Đền
ơn đáp nghĩa”, phong trào “Thiếu nhi nghèo vượt khó”, “Tấm áo tặng bạn”,

cuộc vận động “Vòng tay bè bạn”…
1.3.1.1. Đối với thiếu nhi
Đội TNTP Hồ Chí Minh là trường học giáo dục cộng sản chủ nghĩa của
thiếu nhi và là nơi các em được giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện phấn đấu và
trưởng thành. Đội là người đại diện quyền lợi cho trẻ em nói chung và cho thiếu
niên nhi đồng nói riêng.
Để thực hiện tốt vai trò này, Đội phải là tổ chức tin cậy, là chỗ dựa giúp
các em thực hiện nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của mình. Đồng thời, mỗi
phụ trách Đội phải xứng đáng là người phụ trách, người anh, người chị gương
mẫu cho các em thiếu niên và nhi đồng noi theo, rèn luyện phấn đấu xứng đáng
là lực lượng dự bị trực tiếp và chiến lược cho Đảng, cho Đoàn. Kế tục và
nguyện suốt đời đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn.
1.3.1.2. Đối với nhà trường
Đội là người hỗ trợ tích cực, là cầu nối giữa nhà trường và xã hội và là
chỗ dựa đáng tin cậy của giáo viên nhà trường, được sự hỗ trợ tích cực cùng nhà
trường thực hiện các nội dung và mục đích giáo dục. Đội tổ chức triển khai mọi
chủ trương của nhà trương động viên cổ vũ tất cả học sinh tham gia.
20
Hoạt động Đội còn là cầu nối giữa nhà trường và xã hội góp phần vào
thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng là “Học đi đôi với hành”. Để thực hiện
vao trò này, tập thể Đội phải vững mạnh, ý thức đội viên phải được giáo dục
thường xuyên thông qua những hoạt động phong phú giáo dục của Đội.
1.3.1.3. Đối với xã hội
Đội là một lực lượng đông đảo của xã hội, một lực lượng cách mạng tham
gia tuyên truyền, cổ động các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
tham gia xây dựng và quản lý xã hội với những việc làm vừa sức. Để thực hiện
vai trò này, Đội không chỉ hoạt động trong trường học, ngoài giờ lên lớp, mà
còn phải tăng cường hoạt động Đội ở địa bàn dân cư.
1.3.1.4. Đối với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Đội là lực lượng dự bị, là nguồn bổ sung chủ yếu về số lượng và chất

lượng cho Đoàn thanh niên. Về thực chất, công tác Đội giúp các em rèn luyện,
phấn đấu để khi đủ điều kiện thì gia nhập Đoàn. Đó cũng là nhiệm vụ xây dựng
Đoàn bằng con đường ngắn nhất và tốt nhất. Xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh bắt đầu từ xây dựng Đội TNTP Hồ Chí Minh.
Để thực hiện vai trò này, phải tăng cường trách nhiệm của các cán bộ
Đoàn làm công trác phụ trách Đội, đặc biệt là đội ngũ Giáo viên Tổng phụ trách
trong trường học, làm tốt công tác giáo dục đội viên lớn lên Đoàn. Phải tạo môi
trường cho các em đội viên lớn được rèn luyện, thử thách, phấn đấu, phân công
đoàn viên trực tiếp giúp đỡ các em. Xây dựng các tổ tu dưỡng cho đội viên lớn
với các kế hoạch hoạt động cụ thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện, khả năng
của các em. Bồi dưỡng đội viên lớn vào Đoàn là nhiệm vụ, trách nhiệm, là niềm
tự hào của mỗi đoàn viên, cán bộ Đoàn, phụ trách Đội.
1.3.1.5. Đối với Đảng cộng sản Việt Nam
Đội là lực lượng dự trữ chiến lược cho Đảng, là một trong những lực
lượng tạo nên những mắt xích quan trọng trong hệ thống chính trị: Đội, Đoàn,
Đảng. Đội cùng nhà trường thực hiện mục tiêu và nguyên lý giáo dục của Đảng.
Để thực hiện tốt vai trò này, trong công tác xây dựng Đội và giáo dục thiếu nhi
phải đảm bảo sự lãnh đạo của cấp Ủy Đảng.
21
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của công tác Đội.
Điều lệ Đội TNTP Hồ Chí Minh được Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khóa VIII, thông qua ngày 25/7/2003, đã
xác định mục tiêu như sau: “Đội TNTP Hồ Chí Minh lấy 5 điều Bác Hồ dạy
thiếu niên, nhi đồng làm mục tiêu phấn đấu rèn luyện cho Đội TNTP Hồ Chí
Minh, giúp đỡ thiếu nhi trong học tập, hoạt động, vui chơi, thực hiện quyền và
bổn phận theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em.
Mục tiêu hoạt động của Đội luôn bám sát mục tiêu giáo dục và đào tạo
con người mới XHCN của Đảng ta. Mục tiêu hoạt động của Đội thống nhất với
mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông. Điều 27, khoản 1, Luật Giáo dục
năm 2005 nêu rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển

toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên và đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc”.
Do sự thống nhất, phù hợp giữa mục tiêu hoạt động Đội và mục tiêu giáo dục
phổ thông nên tổ chức Đội phải cùng với nhà trường và các lực lượng giáo dục khác
kết hợp với nhau để giáo dục thiếu nhi ở cả trường học, trên địa bàn dân cư, trong giờ
học và ngoài giờ lên lớp. Mục tiêu của Đội vừa mang ý nghĩa giáo dục lý tưởng cách
mạng định hướng chính trị XHCN vừa mang tính thực tiễn.
Mục tiêu của Đội TNTP Hồ Chí Minh còn được cụ thể hóa bằng nhiệm
vụ của Đội TNTP Hồ Chí Minh và các đội viên:
- Nhiệm vụ thứ nhất: Các tập thể Đội và các đội viên đều phải phấn đấu,
rèn luyện thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, để trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn
tốt, công dân tốt, đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ này được cụ thể hóa
bằng việc mỗi đội viên phải nghiêm chỉnh thực hiện ĐIều lệ Đội TNTP Hồ Chí
Minh, Nghi thức Đội và Chương trình rèn luyện đội viên. Điều này thể hiện tính
ký luật và ý thức tổ chức của đội viên đối với tổ chức mình.
- Nhiệm vụ thứ hai: Các tập thể Đội TNTP Hồ Chí Minh phải có trách
nhiệm giúp đỡ đội viên phát triển mọi khả năng trong học tập, hoạt động vui
22
chơi… Đây là nhiệm vụ thể hiện rõ tính quần chúng của Đội TNTP Hồ Chí
Minh, đáp ứng nhu cầu của đội viên, của mỗi thiếu nhi trong quá trình phấn đấu,
học tập và rèn luyện của mình. Do đó yêu cầu tổ chức Đội phải thực sự chú ý
công tác xây dựng và phát triển Đội TNTP Hồ Chí Minh. Ở đâu có thiếu nhi
hoạt động, học tập, vui chơi thì ở đó có tổ chức Đội cho các em.
- Nhiệm vụ thứ ba: Các tập thể Đội TNTP Hồ Chí Minh và đội viên phải
thực hiện các quyền và bổn phận của trẻ em được nêu ở Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em. Nhiệm vụ này thể hiện nghĩa vụ của người công dân nhỏ
tuổi, để từ đó hình thành những phẩm chất của người công dân tốt sau này. Mặt
khác, khi các em thực hiện tốt các quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em có nghĩa là các em đã từng bước trưởng thành trong quá trình
phấn đấu và rèn luyện của mình.
- Nhiệm vụ thứ tư: Các tập thể Đội và đội viên phải thực hiện nhiệm vụ
giúp đỡ nhi đồng thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy, xứng đáng là con ngoan, trò
giỏi, bạn tốt và trở thành đội viên Đội TNTP Hồ Chí Minh. Đây chính là trách
nhiệm của Đội và đội viên với tổ chức của mình trong việc tạo điều kiện để Đội
phát triển về số lượng, chất lượng đồng thời cũng thể hiện tình cảm và trách
nhiệm trong quá trình chăm lo xây dựng lực lượng hậu bị của Đội TNTP Hồ
Chí Minh.
- Nhiệm vụ thứ năm: Các tập thể Đội TNTP Hồ Chí Minh và đội viên
phải thực hiện nhiệm vụ đoan kết, hợp tác với các tổ chức, phong trào thiếu nhi
khu vực và thế giới vì quyền lợi của trẻ em, vì hòa bình hạnh phúc của các dân
tộc. Thực hiện nhiệm vụ này chính là góp phần thực hiện đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ quốc tế hiện nay: “Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”.
Năm nhiệm vụ trên của các tập thể Đội và đội viên có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau trong việc thực hiện mục tiêu của Đội.
1.4. Quản lý phát triển đội ngũ Giáo viên Tổng phụ trách Đội
23
Theo Thông tư số 23/TTLN ngày 15 tháng 01 năm 1996 của Liên ngành
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Tài chính -
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về việc hướng dẫn chế độ công tác phụ
cấp trách nhiệm đối với giáo viên làm Tổng phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh
trong trường phổ thông thì: Giáo viên các trường có độ tuổi từ 18 đến 35, có đủ
các tiêu chuẩn sau đây thì được tuyển chọn đề cử làm Tổng phụ trách Đội trong
các trường phổ thông:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu (nếu còn trong độ tuổi phát triển
đoàn viên thì phải là đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh).
- Có nhiệt tình và năng khiếu về tổ chức hoạt động xã hội, hiểu biết Đoàn,

Đội, có đủ sức khỏe…, biết vận động học sinh, các lực lượng xã hội và mọi
người tham gia công tác Đội.
- Có bằng tốt nghiệp sư phạm (Trung học sư phạm, Cao đẳng sư phạm).
- Đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác Đoàn - Đội.
Căn cứ vào đối tượng và tiêu chuẩn tuyển chọn, Hiệu trưởng cùng với tổ
chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của trường thống nhất đề nghị lên phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) hoặc Sở Giáo
dục và Đào tạo theo phân cấp quản lý công chức, viên chức xét duyệt.
Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo hoặc Sở Giáo dục và Đào tạo ra
quyết định cử Giáo viên Tổng phụ trách sau khi thống nhất ý kiến với Hội đồng
Đội huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh).
1.4.1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của giáo viên Tổng phụ trách Đội.
1.4.1.1 Vai trò của giáo viên Tổng phụ trách Đội.
Với mục tiêu góp phần cùng nhà trường và lực lượng giáo dục khác trong
xã hội đào tạo, xây dựng những con người mới XHCN, người GV TPT Đội còn
có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nhà trường phổ thông.
- Một là: Vị trí, vai trò của GV TPT Đội gắn chặt với vị trí vài trò của tổ chức
Đội trong nhà trường. Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy Đội TNTP Hồ
Chí Minh ngày càng trở thành một lực lượng giáo dục không thể thiếu được cả 3
khâu: Dạy chữ - dạy nghề - dạy người trong nhà trường phổ thông.
24
- Hai là: GV TPT Đội đóng vai trò một nhà giáo dục. Dân ta thường nói
“Thầy giáo là kỹ sư của tâm hồn”, GV TPT Đội càng phải như vậy. Đó chính là
khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm của trẻ em, yêu trẻ, hiểu trẻ, say mê với
công việc. Đó còn là khả năng cảm hóa thu phục nhân tâm từ chính tấm gương
của bản thân mình trong cuộc sống, trong lao động, trong giao tiếp, trong công
tác Đội, chẳng những là người thầy, người cô mẫu mực, mà còn là người anh,
người chị quý mến thực sự, là chỗ dựa về mặt tinh thần cho các em.
- Ba là: GV TPT Đội có vai trò của một cán bộ chính trị - xã hội thực thụ,
trong đó ý thức chính trị, thái độ chính trị, sự nhạy bén về chính trị đã hòa

quyện với nhau trở thành bản lĩnh chính trị và được thể hiện thành lập trường
chính trị vững vàng. Và lập trường đó thể hiện thực tế, trong hành động, chứ
không phải chỉ trên lời nói. Với GV TPT Đội, văn hóa chính trị đã ngấm sâu trở
thành máu thịt để có thể gắn kết ba khâu nghĩ - nói - làm, đó chính là nghĩ đúng,
nói trúng và tổ chức các hoạt động giáo dục của Đội có hiệu quả. Nếu đạt được
những yêu cầu nói trên thì vị trí của GV TPT Đội càng được khẳng định như
người đứng đầu của tổ chức Đoàn - Đội - tổ chức của những người cộng sản trẻ
tuổi trong nhà trường phổ thông.
- Bốn là: GV TPT Đội đóng vai trò của một nhà tổ chức. Nếu như kỹ
năng là tổng hợp của các thao tác đã được quy trình hóa, thì GV TPT Đội đương
nhiên phải là một người đạt đến trình độ thông thạo về kỹ năng. Khái quát lại có
thể kể đến kỹ năng nói trước công chúng, kỹ năng soạn thảo các văn bản và kỹ
năng tổ chức các hoạt động thiếu nhi.
Hoạt động thiếu nhi, hoạt động Đội rất phong phú, đa dạng như: cắm trại,
du khảo dã ngoại, tham quan, hội thi, hội thảo, hội diễn, diễn truyện, trò chơi,
văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, cũng như các hình thức vui chơi giải trí, học
mà chơi chơi mà học khác. Với vai trò của một nhà tổ chức, đội ngũ GV TPT
Đội được Nhà nước sắp xếp vào bộ máy quản lý của các trường phổ thông theo
quyết định 305/QĐ - BGD&ĐT ngày 26 tháng 3 năm 1986 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
25

×