Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Giải pháp góp phần sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.45 KB, 37 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A. LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỉ 21 cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra mạnh
mẽ trên thế giới, cùng với nó thì khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất nòng
cốt trực tiếp, các yếu tố thông tin tri thức có vai trò hàng đầu. Điều này tạo ra
nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia như duy trì tốc độ tăng trưởng cao, sử
dụng hiệu quả mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực con người, giải quyết tốt vấn
đề xã hội, tạo nhiều công ăn việc làm cải thiện đời sống lao động. Nhưng để tận
dụng tối đa cơ hội đó thì các quốc gia phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cư cấu đầu
tư, phải dựa vào nguồn lực con người nhanh chóng tri thức hoá người lao động
để tăng độ thích nghi và tăng khả năng cạnh tranh quốc gia trong khu vực và
trên thế giới. Trong điều kiện mới, sự phát triển của một quốc gia còn phụ thuộc
vào nguồn lực con người ( trí tuệ và tay nghề ) là chủ yếu thay vì dựa vào nguồn
tài nguyên vốn có như trước đây .
Là một trong những nghành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, nông
nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhất là khi nước
ta đi lên từ công nghiệp lạc hậu. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dưới tác động
của cách mạng khoa học kĩ thuật của kinh tế tri thức nông nghiệp càng có một vị
trí xứng đáng trong cơ cấu nền kinh tế góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá-hiện đại hoá đât nước .
Việc làm là một trong những vấn đề mà toàn xã hội đang quan tâm. Đặc
biệt trong điều kiện nông thôn Việt Nam nơi có nguồn lao động dồi dào về số
lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế so với yêu cầu công việc và càng
thấp hơn so với các nước trong khu vực .Với quy mô dân số là 82,38 triệu người
(01/07/2004) trong đó có 61,27 triệu dân sống ở nông thôn chiếm 14% dân số cả
nước. Việt Nam không chỉ là một quốc gia có quy mô lớn đứng thứ 13 trên thế
giới mà còn là một quốc gia có nhiều thế mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp do
đó việc sử dụng đầy đủ và ngày càng hợp lí nguồn lực trong nông nghiệp nông
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thôn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước nói chung và


phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Với sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Trần Quốc Khánh. Em đã chọn
và hoàn thành đề tài này. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.
TS Trần Quốc Khánh. Đề tài này gồm 3 phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Phần II: Thực trạng sử dụng lao động nông nghiệp trong nông thôn.
Phần III: Giải pháp góp phần sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động
nông nghiệp, nông thôn.
Do trình độ và phương pháp tiếp cận còn nhiều hạn chế nên bài viết này
không tránh khỏi những thiếu sót em mong nhận được sự đóng góp của thấy, cô
để đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B. NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGUỒN LAO ĐỘNG TRONG NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN
1.Khái niệm nguồn lao động trong nông nghiệp nông thôn.
Ở Việt Nam hiện nay đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn lao động là
bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những người trên
độ tuổi lao động theo quy định của bộ luật lao động, nhưng thực tế vẫn tham gia
lao động) và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng
chưa làm việc do đang trong tình trạng thất ngiệp, đang đi học, đang đảm đương
nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu việc làm trong thời điểm hiện
tại, người trong tình trạng khác.
Nguồn lao động trong nông nghiệp nông thôn là tổng thể sức lao động
tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp thuộc khu vực nông thôn bao gồm
số lượng và chất lượng người lao động.
Số lượng lao động là toàn bộ những người có khả năng lao động, bao gồm

những người nằm trong độ tuổi nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi và
những người trên và dưới độ tuổi lao động nói trên tham gia hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Xét trên góc độ xã hội, đó là những người có khả năng lao động
đang tham gia làm việc (có công ăn việc làm) và những người có khả năng làm
việc nhưng chưa tham làm việc. Trong khu vực kinh tế trang trại, hộ nông dân
nguồn lao động là bao gồm lao động thuê ngoài và lao động gia đình. Trong khu
vực nhà nước (Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước) nguồn lao động bao gồm
những người trong biên chế những người tuyển theo chế độ hợp đồng dài hạn
hoặc ngắn hạn . Trong khu vực tư nhân (xí nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn) nguồn lao động là những người được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng
dài hạn hoặc ngắn hạn. Như vậy về mặt lượng thì nguồn lao động trong nông
nghiệp khác ở chỗ nó không phải chỉ bao gồm những người trong độ tuổi mà
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bao gồm cả những người trên và dưới độ tuổi có khả năng và thực tế tham gia
lao động.
Về chất lượng của nguồn lao động bao gồm cả thể lực và trí lực của người
lao động. Điều này được biểu hiện ở trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình
độ khéo léo, lành nghề, trình độ chính trị, trình độ quản lý và kỹ thuật của người
lao động.
Số lượng và chất lượng nguồn lao động trong nông nghiệp có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Ở các nước đang phát triển thì số lượng nguồn lao động nông
nghiệp rất lớn nhưng chất lượng nguồn lao động lại rất thấp. Trong khi đó ở các
nước đang phát triển số lượng nguồn lao động rất ít nhưng chất lượng nguồn lao
động lại rất cao. Vì vậy xu hướng biến đổi của nguồn lao động trong nông
nghiệp là giảm dần về số lượng đồng thời nâng cao dần chất lượng nguồn lao
động nông nghiệp, nông thôn.
2. Vai trò của nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Từ xa xưa lao động đã được coi là hoạt động có mục đích của con người,
thông qua công cụ lao động con người tác động đến đối tượng lao động nhằm

biến đổi chúng thành của cải vật chất cần thiết cho nhu cầu của con người. Lao
động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở cho sự
tiến bộ kinh tế, văn hoá, xã hội. Suy cho cùng thì mọi hoạt động lao động của
con người cũng đều nhằm một mục đích cuối cùng là phục vụ cho lợi ích của
chính bản thân người lao động. Như vậy con người là mục tiêu của sự phát triển
và đồng thời lao động là động lực cho sự phát triển đó.
Nguồn nhân lực nông thôn với tư cách là lực lượng quan trọng bậc nhất
của lực lượng sản xuất xã hội nông thôn, nó có vai trò quyết định đối với mọi
quá trình phát triển kinh tế xã hội của nông thôn trong mối quan hệ phát triển
chung của đất nước. Trong bất kỳ một quá trình sản xuất nào từ công nghiệp,
nông nghiệp, đến dịch vụ thương mại đều cần phải có lao động, đối tượng lao
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động và tư liệu lao động. Quá trình sản xuất không thể được tiến hành nếu thiếu
một trong những yếu tố là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tuy nhiên nếu
không có hoạt động lao động của con người thì tư liệu sản xuất cũng không thể
phát huy được tác dụng. Và như vậy lao động của con người là nhân tố quyết
định của một quá trình sản xuất trong đó bao gồm cả nông nghiệp ở nông thôn.
3. Đặc điểm nguồn lao động nông nghiệp nông thôn.
3.1. Lao động trong nông nghiệp nông thôn mang tính thời vụ.
Tính thời vụ của lao động nông nghiệp do tính thời vụ của sản xuất nông
nghiệp quyết định. Quá trình sản xuất nông nghiệp bao gồm cả quá trình sản
xuất tự nhiên và quá trình tái sản xuất kinh tế, thời gian lao động và thời gian
sản xuất đan xen vào nhau xong lại không hoàn toàn trùng khớp với nhau. Tính
thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được nên trong quá
trình sản xuất chúng ta chỉ tìm cách hạn chế nó. Bên cạnh đó do sự thay đổi về
điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi loại cây trồng lại xó sự thích ứng nhất định với
điều kiện đó dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Sản phẩm của ngành nông
nghiệp là nguồn thức ăn cơ bản cho con người và vật nuôi. Như vậy tính thời vụ
trong sản xuất nông nghiệp có tác động lớn đối với nông dân, nó chi phối thời

gian lao động và sản xuất của lao động nông thôn. Việc thực hiện kịp thời vụ
cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động nhưng cũng có những lúc lao
động lại nhàn rỗi không có việc làm dẫn đến tình hình phức tạp trong quá trình
sử dụng yếu tố nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn.
3.2. Lao động trong nông nghiệp nông thôn phụ thuộc nhiều vào điều kiện
tự nhiên.
Khác với lao động trong các ngành sản xuất khác, lao động trong nông
nghiệp nhất là lao động trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản thì chủ
yếu hoạt động ngoài trời, chịu tác động trực tiếp của điều kiện tự nhiên như:
mưa, nắng, gió, bão, lũ lụt…Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi thì cây trồng và
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vật nuôi phát triển tốt , người lao động cũng vì thế mà bớt đi phần gánh nặng lo
âu. Song nếu điều kiện tư nhiên không thuận lợi thì sẽ gây khó khăn trong sản
xuất, thậm chí người nông dân có thể mất trắng. Vì vậy cần phải có những giải
pháp nhằm hạn chế rủi ro, tăng thời gian làm việc và năng suất lao động trong
công tác tổ chức và sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn.
3.3. Lao đông nông nghiệp nông thôn thường xuyên tiếp xúc với cơ thể
sống.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, cây trồng và
vật nuôi, chúng phát sinh phát triển theo quy luật sinh học. Do là những cơ thể
sống nên chúng rất nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều
kiện thời tiết khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật
nuôi, đến kết quả thu hoạch của sản phẩm cuối cùng. Là cơ thể sống nên ở
chúng cũng hội tụ đầy đủ những yếu tố sinh học, chúng mang trong mình những
vácxin phòng bệnh mà con người có thể khai thác được đồng thời cũng chứa
đựng cả những mầm bệnh gây hại có thể lây truyền trực tiếp từ vật nuôi sang
người. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản
xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được
ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Chúng

là đối tượng của sản xuất nông nghiệp, của lao động nông nghiệp. Vì vậy trong
quá trình sản xuất nông nghiệp con người phải có sự hiểu biết về quy luật phát
triển của sinh vật, phải gắn bó chăm sóc tìm hiểu về cây trồng vật nuôi để một
mặt tạo điều kiện cho cây trồng vật nuôi phát triển tốt mặt khác con người cũng
hạn chế được dịch bệnh lây lan.
3.4. Lao dông trong nông nghiệp nông thôn có kết cấu phức tạp không
đồng nhất.
Bản thân nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Hiểu
theo nghĩa hẹp thì nông nghiệp chỉ bao hàm ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi,
và ngành dịch vụ. Còn hiểu theo nghĩa rộng thì nông nghiệp còn bao gồm cả
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản. Tính chất phức tạp trong ngành nông
nghiệp đã tạo nên tính chất phức tạp của lao động nông nghiệp, nông thôn. Lao
động trong nông nghiệp có rất nhiều loại khác nhau, có lao động thường xuyên,
lao động thời vụ, có lao động trong độ tuổi quy định (lao động chính) và lao
động ngoài độ tuổi lao động (lao động phụ), có lao động giản đơn và lao động
phức tạp.v.v.. đối với các trang trại và hộ nông dân còn có lao động gia đình và
lao động thuê ngoài. Một lao động nông nghiệp có thể làm nhiều công việc khác
nhau nên đóng vai trò của nhiều loại lao động khác nhau. Ở mỗi một đơn vị sản
xuất nông nghiệp khác nhau thì kết cấu lao động cũng khac nhau. Tính phức tạp
của lao động dòi hỏi phải tìm ra các hình thức tổ chức, quản lý để sử dụng lao
động một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhât.
3.5. Lao đông nông nghiệp nông thôn thuộc loại lao động tất yếu của xã
hội.
Lao động trong nông nghiệp thuộc loại lao động tất yếu của xã hội nên
diễn ra một xu hướng có tính quy luật là không ngừng thu hẹp về số lượng và
nâng cao dần về chất lượng. Trong thời đại khoa hoc- công nghệ phát triển làm
cho năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động
nông nghiệp trong xã hôi nhất là lao đông nông nghiệp khu vực nông thôn được

giải phòng ngày càng nhiều. Số lao động này được bổ xung dịch chuyển cho các
ngành kinh tế khác trước hết là ngành công nghiệp với lao động trẻ, khoẻ, có
trình độ văn hoá kỹ thuật. Tuy nhiên tỷ trọng nguồn lao động của ngành nông
nghiệp trong toàn bộ lực lượng lao động của xã hôi vẫn chiếm tới gần 70% toàn
bộ lực lượng lao động xã hội.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng lao động nông nghiệp nông
thôn.
4.1. Nhân tố về thị trường.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự phát triển của nền kinh tế kéo theo sự phát triển sôi động của thị
trường lao động. Trình độ của nền kinh tế là cơ sở để xác định mức tiền lương
tiền công cho người lao động, đó là khoản thu nhập mà người lao động nhận
được sau khi đã hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phần
tiền lương đó góp phần cải thiện mức sống và nâng cao dân trí của các tầng lớp
dân cư cũng như người lao động. Trả công cho người lao động là một biện pháp
rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình
họ nhưng nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần làm việc của người lao
động, đến tái sản xuất mở rộng nói chung. Khi thu nhập của người lao động
được nâng cao họ có điều kiện cải thiện chế độ dinh dưỡng, cải thiện tình hình
tài chính để trả cho các dịch vụ giáo dục và đào tạo, chăm sóc, y tế. Do đó mà
sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, các mối quan hệ của
dân cư và nguồn nhân lực được nâng cao và suy cho cùng là nguồn nhân lực
được cải thiện về mặt chất lượng. Điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng lao động trong sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Cung cầu về lao động nông nghiệp ở khu vực nông thôn là rất phực tạp.
Thời kì chính vụ thì nhu cầu lao động là rất lớn, mức cung lao động thường
ngày không đủ đáp ứng cho nhu cầu lao động lúc mùa vụ khẩn trương. Thậm chí
có những thời điểm khu vực nông thôn phải thuê thêm những lao động ở khu
vực khác để sản xuất cho kịp thời vụ hoặc không lại bỏ trống không sản xuất

.Trong khi đó vào thời kỳ nông nhàn lại nảy sinh tình trạng dư thừa lao động,
người nông dân không có việc làm lại đổ xô đi tìm công việc ở các khu vực
khác gây ra sự xáo trộn về cung cầu trên thị trường lao động nông thôn. Sự mất
cân bằng về cung cầu lao động nông nghiệp gây ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng
lao động nông nghiệp ở nông thôn, khi cần có người lao động thì thị trường lao
động không đáp ứng đủ và kịp thời. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng lao
động nông nghiệp nông thôn cần phải chú ý đến thời gian làm việc của người
lao động, cần tạo ra những công việc mới trong những lúc nông nhàn tránh tình
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trạng quá nhiều lao động nông nghiệp chuyển sang làm ở khu vực khác gây
thiếu hụt lao động trong lúc thời vụ.
4.2 Nhận tổ thuộc về bản thân người lao động.
Đó chính là tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, trình độ chuyên môn
kỹ thuật của người lao động. Trong những năm gần đây yêu cầu về lao động
nông nghiệp nông thôn không đơn thuần chỉ là có sức khỏe, dẻo dai mà cần phải
có trình độ, không chỉ đòi hỏi về mặt số lượng mà còn yêu cầu cả về mặt chất
lượng. Thực tế cho thấy dinh dưỡng là rất cần thiết cho con người, gồm rất
nhiều yếu tố từ lương thực, thực phẩm mà cơ thể cần hấp thụ để duy trì một sức
khỏe tốt cho các lứa tuổi khác nhau. Thiếu dinh dưỡng dẫn đến thể lực ốm yếu,
khả năng miễn dịch kém, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng
khả năng làm việc gây ảnh hưởng xấu đến quá trình sử dụng lao động nông
nghiệp, nông thôn.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng thì vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân
cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn lao động. Thông qua chăm
sóc sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ trẻ em, tư vấn về dinh dưỡng, phòng
bệnh tật…tạo ra khả năng đảm bảo cho nguồn nhân lực tương lai có thể lực và
tinh thần khoẻ mạnh. Áp dụng những tiến bộ khoa học y tế vào dự phòng chữa
bệnh cho người dân sẽ góp phần nâng cao tuổi thọ sức khoẻ dân cư và nguồn lao
động. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.

Một vấn đề nữa mà bản thân người lao động phải có đó là trình độ chuyên
môn kỹ thuật. Và giáo dục- đào tạo là một trong những nhân tố quyết định đến
trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Mức độ phát
triển của giáo dục đào tạo càng cao thì quy mô nguồn nhân lực chuyên môn kỹ
thuật càng mở rộng bởi vì giáo dục- đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ
lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của nền kinh tế. Sự phát của hệ
thống giáo dục- đào tạo cũng làm tăng khả năng nâng cao chất lượng theo chiều
sâu của nguồn nhân lực. Điều này được thể hiện ở chỗ một trong những tiêu chí
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của phát triển giáo dục đào tạo là nâng cao chất lượng đầu ra cho học sinh, sinh
viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phải nắm
vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Và trong một nền giáo dục đào tạo có
trình độ phát triển cao thì chất lượng đầu ra được đảm bảo sẽ đáp ứng yêu cầu
của thị trường lao động và của xã hội. Đây chính là một yêu cầu bức xúc đang
đặt ra cho nguồn nhân lực nước ta. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, trong
điều kiện nền kinh tế mở thì kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Sức
canh tranh sẽ quay quanh tâm điểm là hàm lượng khoa học và công nghệ, chất
xám quyết định giá trị sản phẩm. Người lao động càng có trình độ chuyên môn
cao bao nhiêu thì cơ hội việc làm càng lớn bấy nhiêu. Đội ngũ nhân lực có trình
độ là nền tảng để đảm bảo cho thực hiện sản phẩm có hàm lượng khoa học công
nghệ cao, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động. Nói chung bản thân người
lao động có tác động mạnh đến việc bố trí và sử dụng lao động trong nông
nghiệp, nông thôn.
4.3. Nhân tố thuộc về chính sách.
Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng nguồn
lao động. Thông qua việc ban hành chính sách Nhà nước sẽ tiến hành điều tiết
nguồn lao động nông thôn như một số chính sách khuyến khích tạo động lực đối
với người sử dụng lao động. Chính sách phát triển nguồn nhân lực, quản lý kinh
doanh, hỗ trợ đào tạo người sử dụng lao động về chuyên môn và trình độ quản

lý dần đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Chính sách khuyến khích người sử
dụng lao động áp dụng công nghệ mới, chính sách hỗ trợ người sử dụng nhiều
lao động. Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động đầu tư vào vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng khó khăn (cho thuê giá thấp hoặc mượn
đất đai, vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, miễn giảm thuế ba năm đầu mới thành
lập doanh nghiệp…). Chính sách khuyến khích và hỗ trợ trực tiếp phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (trợ giúp đầu tư, vay vốn thông qua hình thức vay vốn
bảo hành tín dụng, cho phép xuất khẩu trực tiếp, giảm thuế đất hoặc mượn đất,
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hình thành các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn…). Những
chính sách này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sử dụng lao động bố trí
hợp lý nhất và phát huy hiệu quả tối ưu trong việc sử dụng lao động nông nghiệp
sẵn có ở khu vực nông thôn.
4.4. Nhóm nhân tố về trình độ tổ chức quản lý của các cơ sở nông nghiệp vùng
nông thôn.
Trong quá trình tổ chức và sử dụng lao động đòi hỏi người sử dụng lao
động phải có trình độ cao trong công tác tổ chức và quản lý lao động. Việc xác
định nhu cầu lao động, tuyển dụng hay thuê mướn lao động, việc lựa chọn hình
thức tổ chức lao động đều cần có quy trình kỹ năng nhất định. Trong sản xuất
nông nghiệp, với những loại công việc khác nhau lại có những yêu cầu về chất
lượng lao động khác nhau, đòi hỏi người sử dụng lao động nông nghiệp phải
biết bố trí lao động sao cho hợp lý. Những công việc áp dụng công nghệ mới sẽ
cần những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Một số công việc như
phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, bón phân thì cần người lao động phải được qua một
lớp huấn luyện. Một số công việc lại đòi hỏi phải có những kỹ năng nhất định
như điều khiển một số loại máy móc, chăm sóc từng loại cây, từng loại gia súc
theo đúng quy định sinh trưởng và phát triển, việc sử dụng máy tính…Nếu cơ sở
nông nghiệp không có đủ các loại lao động trên thì cần phải tuyển thêm lao
động. Việc thuê mướn hay tuyển lao động cũng đòi hỏi người sử dụng lao động

có những hiểu biết nhất định. Trước hết phải có kiến thức để tính toán đến nhu
cầu tuyển dụng. Người sử dụng cần có những hiểu biết về luật lao động như độ
tuổi lao động đặc biệt là độ tuổi lao động của trẻ em, quy định về mức tiền
lương tối thiểu, mức bảo hiểm xã hội, trợ cấp, vấn đề an toàn lao động trong quá
trình sử dụng lao động. Như vậy trình độ tổ chức quản lý của các cơ sở nông
nghiệp có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
TRONG NÔNG THÔN.
1. Quy mô và cơ cấu nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
1.1. Quy mô nguồn lao đông nông nghiệp, nông thôn.
Số lượng nguồn lực con người phản ánh qua quy mô dân số, lực lượng
lao động và tốc độ gia tăng dân số trong một thời kỳ nhất định. Theo số liệu
thống kê thì tốc độ tăng dân số thực tế qua các năm từ 1930-2001 mỗi năm tăng
bình quân 2,13%. Trong 20 năm gần đây, số dân mỗi năm tăng tương đương dân
số của một tỉnh trung bình, lực lượng lao động tăng bình quân 3%/ năm. Trên
thực tế, quy mô nguồn lao động nước ta còn lớn hơn mức gia tăng của dân số
bởi số người ra khỏi độ tuổi lao động trong năm vẫn có nhu cầu việc làm. Theo
dự báo, những năm đầu của thế kỷ XXI tốc độ tăng lao động vẫn ở mức
3%/năm, vì trước năm 1996 tốc độ tăng dân số nước ta là trên 2%/năm, mà quy
mô nguồn lao động phụ thuộc vào quy mô dân số trước đó 18 năm. Với quy mô
và dân số đó thì lao động ở nông thôn vẫn còn chiếm tuyệt đại đa số về mặt số
lượng, trong khi đó tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn lại nhanh hơn so với khu
vực thành thị. Hiện nay có vào khoảng gần 70% lao đông nông thôn làm nông
nghiệp còn 20% làm trong các ngành phi nông nghiệp, hệ số sử dụng quỹ thời
gian lao động bình quân cho một lao động nông thôn là rất thấp, vài năm gần
đây có sự tăng tương đối năm 2001 la 74,37%, năm 2002 là 75,41%, và năm
2003 là 77,66%. Trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đất nước xu
hướng chung có tính quy luật là tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần. Tuy

vậy trong những năm gần đây tốc độ giảm vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra,
đến năm 2004 dân số nông thôn vẫn còn chiếm 74,2% so với tổng dân số của cả
nước, tốc độ tăng dân số ở nông thôn hàng năm giảm dần, năm 1990 là 1,8%
nhưng đến năm 2002 giảm xuống còn 0,83%. Lao đông trong độ tuổi lao động
khu vực nông thôn vì thế cũng có một tỷ lệ tương tự.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 1: Nguồn nhân lực tính theo dân số ở nông thôn và thành thị
thời kỳ 1990 – 2004
Năm Số lượng (triệu người) Tỷ trọng ( % )
Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
12.9
13.2
13.6
14.0

14.4
14.9
15.4
16.8
17.8
18.1
18.8
19.5
20
20.5
21.1
53.1
54.0
54.9
55.7
56.4
57.1
57.7
57.5
58.0
58.5
58.9
59.2
57.7
60.2
61.27
19.5
19.64
19.85
20.09

20.34
20.69
21.07
22.61
23.18
23.63
24.23
24.78
25.1
25.4
25.63
80.45
80.36
80.15
79.91
79.66
79.31
78.93
77.39
76.82
76.82
76.37
75.77
74.9
77.6
74.37
( Nguồn : Niêm giám thống kê các năm của tổng cục thống kê )
Qua đây có thể thấy lao động nông thôn trong toàn bộ lao động xã hội
trong giai đoạn từ 1990- 2004 có xu hướng giảm dần từ 80,45% xuống còn
74,37%, cho dù tốc độ giảm có chậm chạp. Tỷ trọng lao động nông thôn giảm

nhưng số lượng vẫn có xu hướng gia tăng từ 53,1 triệu người năm 1990 lên đến
61,27 triệu người năm 2004. Điều này cho thấy sự gia tăng dân số trong nông
nghiệp nông thôn đang là yếu tố chính bổ xung lực lượng lao động hàng năm
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cho xã hội. Theo đó tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp giảm từ 69,8% năm
1996 xuống còn 62,61% năm 2000 tức là giảm 7,19%, bình quân mỗi năm giảm
1,44%. Rõ ràng rằng lao động làm nông nghiệp trong khu vực nông thôn đã có
xu hướng giảm trong những năm qua.
1.2. Cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm cho cơ cấu nguồn lao động
nước ta có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-
ngư nghiệp có xu hướng giảm dần, lao động trong các ngành công nghiệp, xây
dựng, và dịch vụ tăng mặc dù tốc độ còn chậm. Nếu như trước đây lao động
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới 73% và lao động hoạt động trong
công nghiệp, dịch vụ mới chỉ chiếm 27% thì hiện nay cơ cấu này có sự chuyển
biến như sau:
Bảng 2: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động. (Đơn vị: %)
Ngành Kế hoạch
2001 – 2005
Thực hiện Ước thực hiện
2001 2002 2003 2004 2005
Ngành nông – lâm -
nghiệp
56 – 57 60.57 60.67 59.04 59.29 57.44
CN& XD 20 – 21 14.41 15.13 16.41 17.69 18.79
Thương mại và Dịch
vụ
22 – 23 25.05 24.2 24.55 24.02 23.78
( Nguồn : Nguyễn Hữu Dũng Về nhiệm vụ phát triển việc làm giai đoạn 2006 –

2010 Tạp trí chính trị số 4 – 2004 )
Tuy nhiên so với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà đại hội Đảng lần
thứ IX đề ra ( nông-lâm-ngư nghiệp là 20-21%, công nghiệp và xây dựng là 38-
39%, ngành dịch vụ là 41-42% ) thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá
chậm dẫn đến khoảng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế.
14

×