CHỦ ĐỀ 1: VẤN ĐỀ CHUẨN BỊ CHO CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Cách đây hơn 68 năm, mùa thu năm 1945, lần đầu tiên trong lịch sử, toàn thể nhân dân
Việt Nam thực sự được nắm trong tay quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cấu hạnh
phúc. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới, một bước
ngoặt ngoan mục cho lịch sử dân tộc.Tố Hữu, trong những lời thơ của mình, đã không thể
giấu được niềm sung sướng ấy:
“Mặt trời đỏ huyền kỳ mọc lên ôi náo nức
Nhạc dân gian cuồn cuộn bốc hồng trần
Ta đi đây, là trăm vạn thiên thần
Chiều chiến thắng phá tan quân quỷ sứ
Ta đi dưới bốn nghìn năm lịch sử
Đêm nay tràn hoa đỏ nghị vàng tươi
Ta đi đây với thế kỉ hai mươi
Mạch suối trẻ trong dòng người vô định”
(Vui bất tuyệt – Tố hữu)
Đây được xem là móc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, một sự kiên mà toàn thể nhân
dân Việt Nam và những người nước ngoài quan tâm đến Việt Nam đều tường tận. Dưới
gốc nhìn của sinh viên ngành Quốc tế học, chúng em xin phép được tìm hiểu và trình bày
chủ đề này dựa trên những vấn đề nổi bật như sau:
• Vài nét về quá trình chuẩn bị Cách mạng
• Vấn đề thời cơ
• Diễn biến chính
• Vai trò của Đảng và Hồ Chí Minh
• Nguyên nhân thắng lợi và gía trị trường tồn của Cách Mạng
I. Vài nét về quá trình chuẩn bị Cách mạng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, từ khởi
nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa và đã giành được thắng lợi bằng cuộc tổng khởi
nghĩa trong 15 ngày (từ ngày 14 đến 18/8/1945). Để có được thắng lợi trong 15 ngày,
thắng lợi phải giành được một cách nhanh chóng, ít đổ máu, Cách mạng tháng Tám được
chuẩn bị trong 15 năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (đầu năm 1930) đến
năm 1945. Trong 15 năm đó, sự chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng của Đảng Cộng
sản thể hiện ở các mặt sau :
1. Sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) và thông qua Cương lĩnh
chính trị do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
của cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kì khủng hoảng lãnh đạo cách mạng.
Đảng trở thành người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với đường lối
cách mạng đúng đắn. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị nhân tố tất yếu đầu tiên
cho thời kì vùng dậy oanh liệt nhất và bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử tiến
hoá của dân tộc Việt Nam.
2. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 :
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 dưới sự lãnh đạo của Đảng đã diễn ra mạnh mẽ
trong toàn quốc mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Cao trào này đã khẳng định
đường lối lãnh đạo của Đảng đã được thực hiện trong thực tiễn, Đảng ta ngày
càng trưởng thành, được Quốc tế Cộng sản công nhận là một bộ phận độc lập
trực thuộc Quốc tế cộng sản, hình thành trong thực tiễn khối liên minh công
nông. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 là cuộc tổng diễn tập lần nhất, chuẩn bị
cho Cách mạng tháng Tám thắng lợi.
3. Thoái trào cách mạng 1932 - 1935 :
Đây là thời kì địch đã tiến hành khủng bố và đàn áp dã man.Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân tiếp tục đấu tranh chống khủng bố, phục hồi trong phong trào
cách mạng, chuẩn bị cho phong trào cách mạng mới.Qua phong trào, Đảng và
nhân dân đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm thành công cũng như thất bại, khắc
phục khó khăn và sai lầm để Đảng chuẩn bị cho một cao trào cách mạng mới.
4. Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 :
Trước sự thay đổi tình hình quốc tế và trong nước, Đảng phát động một cao trào
đấu tranh cách mạng của quần chúng đòi hỏi các quyền tự do dân chủ cơm áo và
hoà bình, chống chiến tranh, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai. Cao trào
đấu tranh dân chủ diễn ra sâu rộng với nhiều hình thức đấu tranh phong phú.Cao
trào đó đã giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ trương cách
mạng của Đảng trong nhân dân, nâng cao uy tín và ảnh hưởng của Đảng Cộng
sản, hướng quần chúng đi theo ngọn cờ cách mạng của Đảng, hình thành một đạo
quân chính trị hùng hậu cho các mạng, tiếp tục rèn luyện Đảng và quần chúng
trong thực tiễn cách mạng, tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm mới. Phong trào dân
chủ 1936 - 1939 là cuộc diễn tập lần thứ hai, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám
thắng lợi.
5. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 :
6.
Cuộc tập dượt cuối cùng, toàn diện và trực tiếp đưa đến thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám 1945.
a Sự chuyển hướng về chiến lược và sách lược của Đảng qua các
Hội nghị lần 6 (11/1939) và Hội nghị lần 8 (5/1941) của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nội dung:
• Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
• Mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
• Nêu khẩu hiệu lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
• Tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đó là nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân, đi từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.
b Chuẩn bị lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và xây dựng căn
cứ địa cách mạng; phát triển lực lượng chính trị quần chúng, mở rộng các
tổ chức cứu quốc và Việt Minh; đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần
chúng ở cả nông thôn và đô thị.
c Duy trì đội du kích Bắc Sơn, thành lập các đội cứu quốc quân,
lập ra Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, xây dựng căn cứ địa cách
mạng ở Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng; thực hiện chủ trương “sửa soạn
khởi nghĩa”, và “sắm vũ khí đuổi thù chung”
d Phát động cao trào Kháng Nhật, cứu nước rộng rãi, khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền bộ phận, tiến hành chiến tranh du kích cục
bộ, chuẩn bị thực lực để chuyển sang tổng khởi nghĩa (từ tháng 3 đến đầu
tháng 8 năm 1945).
Kết luận : Qua 15 năm chuẩn bị và tích luỹ lực lượng, trực tiếp là thời kì 1939 - 1945 đã
tạo nên một lực lượng cách mạng hùng hậu bao gồm cả lực lượng quần chúng và lực
lượng vũ trang, tạo lực và thế cách mạng ở cả vùng nông thôn và đô thị, chờ đợi một thời
cơ ngàn năm có một.
II. Vấn đề thời cơ cách mạng
1. Thời cơ là gì?
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, là tình thế xuất
hiện trong thời điểm nhất định nhất, có lợi nhất cho việc phát huy mọi sức mạnh,
đảm bảo cho một việc có thể tiến hành để giành thắng lợi. Chủ nghĩa Mác -
Lênin xem việc nắm vững thời cơ và kiên quyết hành động khi có thời cơ là
“nghệ thuật lãnh đạo cách mạng” của Đảng và của giai cấp vô sản; nó thể hiện rõ
tính chất, phẩm chất, lòng trung thành, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trình độ,
tài nghệ của người cộng sản. Thời cơ là nhân tố khách quan, xuất hiện khi tình
thế cách mạng được hình thành, song nhận thức đúng thời cơ là yếu tố chủ quan.
Trong mọi hành động của con người, khi nào thống nhất được điều kiện khánh
quan với nhận thức chủ quan thì sẽ đạt được thành công. Một cuộc cách mạng
muốn thành công nhanh chóng và ít phải đổ máu thì ngoài việc chuẩn bị chu đáo
cần phải biết chớp thời cơ cách mạng.
Thời cơ cách mạng là là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa điều kiện thuận lợi về
khách quan và chủ quan; trong đó, điều kiện chủ quan giữ vai trò quan trọng
nhất.
Cũng theo Chủ Nghĩa Mác-Lênin, thời cơ bùng nổ và thắng lợi của một cuộc
cách mạng thì phải hội đủ 3 điều kiện sau đây:
• Kẻ thù đã suy yếu đến mức không thể thống trị như cũ được nữa
• Quần chúng bị thống trị họ không thể sống như cũ được nữa
• Đội tiên phong của cách mạng – tức Đảng đã sẵn sàng lãnh đạo cách
mạng.
2. Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám
• Về kẻ thù:
Phát xít Nhật ngày càng bại trận.Ngày 6 và ngày 9/8/1945, Mĩ dội hai quả bom
nguyên tử hủy diệt hai thành phố Hirosima và Nagaxaki. Ngày 9/8/1945, Hồng
quân Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật ở
vùng Đông Bắc – Trung Quốc.
Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện khiến
quân Nhật ở Đông Dương như “rắn mất đầu”, suy yếu rệu rã, chính quyền bù
nhìn Trần Trọng Kim hoang mang đến cực độ.
Quân pháp: vốn đã bị quân Nhật đảo chính vào đêm ngày 9/3/1945. Mặc dù,
chúng có âm mưu muốn tái chiếm nước ta nhưng trước sự chuyển biến mau lẹ
của tình hình, Pháp không kịp trở tay.
Quân Đồng minh: 16 nghìn quân Anh chưa vào miền Nam và 200 nghìn quân
Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật
• Về phía ta:
Dưới chinh sách thống trị hà khắc của đế quốc phát xít, Pháp, Nhật đã đẩy nhân
dân ta đến cảnh cùng cực, nạn đói 1944-1945 làm 2 triệu đồng bào ta bị chết đói
và hàng triệu người khác ngắc ngoải.Quần chúng nhân dân không thể sống như
cũ được nữa, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với phát xít Nhật trở nên gay gắt.
Tầng lớp, bộ phận trung gian, những người trí thức yêu nước, có tư tưởng dân
chủ, tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong giai cấp
hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngả về phía
cách mạng. Tương quan lực lượng có lợi cho phía cách mạng.
Thông qua quá trình chuẩn bị lâu dài vềlực lượng chính trị, lực lượng vũ trang;
đặc biệt thông qua khởi nghĩa từng phần,các cao trào kháng Nhật cứu nước, quần
chúng cách mạng lúc này đã sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền.
Đảng CSĐD đã chuẩn bị đầy đủ.Thông qua các Hội nghị BCHTW 11/1939,
11/1940, 5/1941, Đảng giương cao ngọn cờ GPDT lên hàng đầu. Đảng có quyết
tâm cao, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng, chủ động chuẩn bị lực lượng cách mạng
chu đáo, xây dựng và mở rộng Mặt trận Việt Minh, tận dụng tốt sự đoàn kết tin
tưởng của nhân dân, góp phần thúc đẩy thời cơ chin muồi .
• Thời cơ ngàn năm có một là vì:
Thời cơ cho cách mạng tháng Tám chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian
rất ngắn (từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh (15/8) đến trước khi quân đồng minh
kéo vào nước ta (đầu tháng 09/1945)) => Tổng khởi nghĩa diễn ra một cách
nhanh chóng và ít phải đổ máu.Khi thời cơ cách mạng đến, ta phải nhận thức
đúng thời cơ và kiên quyết hành động cách mạng.Nếu chúng ta không tiến hành
khẩn trương thì thời cơ sẽ đi qua.
Mặt khác, nếu tổng khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, cách mạng sẽ gặp khó
khăn vì phát xít Nhật tuy yếu và đang trong cơn giãy chết, nhưng nếu chúng tập
hợp quân để phản kháng thì cách mạng sẽ gặp nhiều tổn thất nặng nề, cách mạng
sẽ đổ nhiều xương máu. Nếu Tổng khởi nghĩa nổ ra muộn hơn thì quân đồng
minh Anh, Pháp, Trung Hoa dân quốc kéo vào nước ta thì cách mạng sẽ mất đi
thế chủ động, chính phủ Trần Trọng Kim bắt tay với đế quốc, thời cơ cách mạng
sẽ trôi qua.
Nhận thức đúng thời cơ cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Lúc này,
thời cơ đã đến, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc
lập!”, “Đây là thời cơ ngàn năm có một, rất hiếm và rất quý, nếu bỏ qua thì sẽ
không bao giờ có lại nữa”.
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945 là một thời điểm có một không
hai, thể hiện nghệ thuật dự đoán và tận dụng thời cơ trong nước và quốc tế của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc tổng khởi nghĩa được tiến hành trong một
bối cảnh đặc biệt và vô cùng thuận lợi.Tuy nhiên, xét về mặt khách quan, lúc bấy
giờ, thời cơ thuận lợi nó đến với nhiều nước trong khu vực.Song, chỉ có cuộc
Tổng khởi nghĩa của Việt Nam là giành được thắng lợi nhanh chóng và triệt để.
Điểm mấu chốt đó chính là do thực lực của chúng ta, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn,
sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc để chờ đợi thời cơ
thuận lợi phát động khởi nghĩa. Nếu chúng ta không xây dựng, chuẩn bị tốt lực
lượng; không tiến hành các đợt tập dượt từ thấp lên cao, thì dù thời cơ tới cũng
khó có thể tiến hành khởi nghĩa thắng lợi.Mới thấy rằng, trong cách mạng, nhân
tố chủ quan là vô cùng quan trọng và đóng vai trò tiên quyết.
Cách mạng tháng Tám 1945 là “sự lặp lại” lịch sử ở đỉnh cao với việc kế thừa và phát
triển về nghệ thuật nắm thời cơ và kiên quyết hành động tận dụng thời cơ của ông cha ta.
Câu hỏi:
1. Qua thời kỳ thoái trào và cao trào, hãy cho biết vai trò của Đảng trong giai đoạn đó?
2. Nội dung Luận cương tháng 10 và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
3. Phong trào 1936-1939 đã đóng góp gì vào cuộc diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho thắng lợi của CMT8
sau này?
4. Hãy nêu nôi dung, mục tiêu, lực lượng tham gia trong Luận cương tháng 10?
5. Vì sao nói cao trào 1930-1931 là cuộc diễn tập thứ nhất?
6. Việt Nam có cơ hội và thách thức trong giai đoạn 1929-1933 là gì? Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
nắm cơ hội như thế nào? Làm gì?
7. Luận cương tháng 10 có tiến bộ và hạn chế gì so với cách mạng Việt Nam bấy giờ?
8. So sánh Luận cương tháng 10 của Trần Phú và Cương lĩnh chính trị của Nguyễn Ái Quốc?
Trả lời:
1. Qua các thời kỳ cao trào và thoái trào, Đảng đã thể hiện vai trò như sau:
a. Cao trào:
- Mở đầu cao trào ở Nghệ Tĩnh là cuộc biểu tình ngày 01/05/1930 do Đảng bộ Nghệ An lãnh đạo.
- Tháng 10/1930, bộ máy chính quyền của đế quốc, phong kiến đã tan rã ở nhiều nơi, tổ chức Đảng
ở địa phương đã lãnh đạo nhân dân đứng ra quản lý mọi mặt đời sống, chính trị - xã hội ở nông
thôn.
- Các cuộc đấu tranh diễn ra liên tục vào ngày 1/8/1930, tháng 9 và 10 năm 1930 ở Nghệ Tĩnh.
b. Thoái trào:
- Các chi bộ Đảng trong nhà tù lãnh đạo phong trào đấu tranh, biến nhà tù thành trường học cách
mạng và tìm cách liên lạc với cơ sở bên ngoài.
- Các Đảng viên còn lại bên ngoài âm thầm xây dựng lại tổ chức Đảng và quần chúng.
- Ở Hà Nội, Sài Gòn, Đảng Cộng Sản Đông Dương đấu tranh hợp pháp, tranh cử vào Hội đồng
thành phố để tuyên truyền, cổ động quần chúng theo khẩu hiệu của Đảng.
- Cuối năm 1934 đầu 1935 hệ thống Đảng dần được hồi phục.
Tuy Đảng Cộng Sản Đông Dương chịu tổn thất nặng nề nhưng vẫn giữ được gốc rễ trong quần
chúng, dần dần khôi phục thế lực và đứng vững trên cương vị lãnh đạo.
2. So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương tháng 10:
a. Nội dung:
•Cương lĩnh chính trị đầu tiên:
-Chiến lược cách mạng: tiến hành “ tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”.
-Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho
Việt Nam độc lập tự do, tịch thu sản nghiệp của đế quốc và phản cách mạng chia cho dân cày
nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất.
-Lực lượng cách mạng: công nông, tiểu tư sản, trí thức, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung
tiểu địa chủ, tư sản yêu nước.
-Lãnh đạo cách mạng: Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản.
-Quan hệ với thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng khít của cách mạng thế giới.
Tuy còn vắn tắt nhưng đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc đầu tiên của Đảng, thể hiện sự đúng
đắn, sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp. Độc lập tự do là tư tưởng cốt lõi của
cương lĩnh.
•Luận cương tháng 10/1930:
-Tính chất: Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiến thẳng lên
xã hội chủ nghĩa, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
-Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ phong kiến và đế quốc là hai nhiệm vụ có quan hệ khắng khít.
-Lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản và nông dân.
-Lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản và đội tiên phong là Đảng cộng sản.
-Nêu rõ hình thức, biện pháp đấu tranh, quan hệ giữa cách mạng Đông dương và cách mạng thế
giới.
Hạn chế: chưa nêu rõ được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương, không đưa ngọn cờ giải
phóng dân tộc lên hang đầu, nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất, đánh giá không
đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo bộ phận trung tiểu địa
chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất.
3. Sỡ dĩ nói phong trào 1936-1939 là cuộc diễn tập thứ 2 cho thành công của CMT8 sau này là vì:
a. Về phía Đảng: Có sự trưởng thành trong chỉ đạo sách lược cách mạng.
b. Về phía Quần chúng: được tập hợp trong nhiều tổ chức, tiêu biểu nhất là “mặt trận dân chủ Đông
Dương”, hiểu rõ hơn về chủ nghĩa Mác- Lenin, được rèn luyện trong những hình thức đấu tranh
mới ( đấu tranh chính trị công khai hợp pháp, bán công khai, nửa hợp pháp, bí mật và nửa bí
mật). Nhiều cán bộ cách mạng mới được đào tạo cùng với hơn 3000 chiến sĩ cách mạng cũ tạo
thành đội ngũ đông đảo.
Phong trào 1936-1939 đã để lại nhiều bài học quý, nhất là về công tác vận động tổ chức quần chúng,
hình thức đấu tranh và khẩu hiệu đấu tranh.
4. Nội dung, mục tiêu, lực lượng tham gia được nêu trong Luận cương tháng 10/1930 (Trần Phú):
•Luận cương tháng 10/1930:
-Tính chất: Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiến thẳng lên
xã hội chủ nghĩa, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
-Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ phong kiến và đế quốc là hai nhiệm vụ có quan hệ khắng khít.
-Lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản và nông dân.
-Lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản và đội tiên phong là Đảng cộng sản.
-Nêu rõ hình thức, biện pháp đấu tranh, quan hệ giữa cách mạng Đông dương và cách mạng thế
giới.
5. Phong trào 1930-1931 là cuộc diễn tập đầu tiên của cách mạng tháng 8 là vì:
a. Về phía Đảng được tập dượt về lãnh đạo: Qua lãnh đạo, Đảng đã đưa ra Luận cương chính trị của mình.
Luận cương đề ra hai khẩu hiệu chiến lược là “Độc lập dân tộc” và “ruộng đất cho dân cày”. Hai khẩu
hiệu này đáp ứng được nguyện vọng của đa số người dân, nhất là nông dân, lôi cuốn được đông đảo nông
dân theo cách mạng, xây dựng khối liên minh công nông, tạo nên một nhân tố cơ bản nữa đảm bảo cho
cách mạng việt nam thắng lợi: Có Đảng lãnh đạo, có liên minh công nông thì có tất cả.
b. Về phía quần chúng: lần đầu tiên được tập dượt đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đấu tranh,
quần chúng đã được tập hợp, giáo dục, giác ngộ và tổ chức tạo nên sức mạnh. Quần chúng thấy rõ hơn bộ
mặt dã man của kẻ thù, giác ngộ hơn về chủ nghĩa Mác- Lenin, hiểu hơn về Đảng, về những người cộng
sản và được rèn luyện một phương pháp cách mạng mới, đó là phương pháp cách mạng bạo lực của quần
chúng theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lenin.
Cao trào đào tạo them được nhiều cán bộ cách mạng mới, để lại nhiều bài học kinh nghiệm, kể cả bài học
thành công và thất bại.
6. Trong giai đoạn 1929-1933, Việt Nam đương đầu với rất nhiều thách thức và cơ hội.
a. Thách thức:
Kinh tế: 1929-1933, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam suy thoái
(công nghiệp suy giảm; nông nghiệp: ruộng đất bỏ hoang, lúa gạo sụt giá; thương nghiệp xuất
nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ…) Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam
rất nặng nề so với các thuộc địa của Pháp cũng như các nước khác trong khu vực.
Xã hội: Mâu thuẩn nảy sinh giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp do Công nhân thất
nghiệp, nông dân bần cùng không lối thoát, tiểu thương tiểu chủ làm ăn khó khăn, phá sản, tư sản
dân tộc làm ăn khó khăn, sinh viên ra trường không việc làm,… Chính những biến động trong xã
hội đã dẫn đến Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp, nông dân và địa chủ phong kiến
ngày càng gay gắt.
Chính trị: Đầu 1930, khởi nghĩa Yên bái thất bại, Pháp tiến hành khủng bố dã man những người
yêu nước, làm căng thẳng những mâu thuẩn và tình hình bất ổn trong xã hội dân cao.
b. Thời cơ: 02/1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của
công nông cả nước.
Dựa vào tình hình thời cơ và thách thức trên, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã kịp thời lãnh đạo phong
trào đấu tranh của công nông trong cả nước. Phong trào trên toàn quốc: 02-04/1930, nhiều cuộc đấu
tranh của công nông diễn ra đòi tăng lương giảm giờ làm, giảm sưu thuế (công nhân đồn điền Phú
Riềng, Dầu Tiếng,…), nhân ngày quốc tế lao động 01/05 cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh, lần
đầu tiên công nhân Việt Nam biểu tình kỷ niệm ngày quốc tế lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho
nhân dân lao động trong cả nước, thể hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế giới, từ
tháng 06-08/1930 nhiều cuộc đấu tranh diễn ra trên toàn quốc. Phong trào ở Nghệ Tĩnh: ngày
9/12/1930 cuộc biểu tình của 8000 nông dân Hưng nguyên đòi giảm sưu thuế, quần chúng kéo đến
phá nhà lao, đốt huyện đường, vây đồn lính khố xanh. Nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã lãnh đạo nhân
dân làm chủ vận mệnh, tự quản lý đời sống kinh tế chính trị văn hóa xã hội ở địa phương, làm chức
năng của chính quyền Xô Viết.
Đảng đã xây dựng mô hình Xô Viết tại Nghệ An và Hà Tĩnh.
-Chính trị: thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân, quần chúng tự do hoạt động trong các
đoàn thể cách mạng. Các đội tự vệ đỏ và tòa án nhân dân được thành lập.
-Kinh tế: chia ruộng đất công cho dân cày nghèo, bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối,
….cho người nghèo.
-Văn hóa xã hội: mở lớp dạy chữ quốc ngữ, xóa bỏ tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, trật tự trị an được
giữ vững.
7. Luận cương tháng 10 có những tiến bộ và hạn chế so với cách mạng Việt Nam bấy giờ:
Tiến bộ: xây dựng Liên minh công nông vững mạnh.
Hạn chế: Chưa thấy được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không đưa vấn đề giải phóng
dân tộc lên hàng đầu nên nặng về đấu tranh giai cấp. Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của giai
cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc và trung tiểu địa chủ yêu nước. Những nhược điểm này dần dần được Đảng
ta khắc phục qua quá trình đấu tranh thực tiễn của cách mạng.
8. So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương tháng 10/1930:
Nội dung so sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng
Luận cương tháng 10-1930
Tính chất xã hội Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, gồm 2 mâu thuẫn:
-Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
VN với đế quốc (cơ bản nhất)
-Mâu thuẫn giữa nông dân với địa
chủ phong kiến.
Xã hội Đông Dương gồm 2 mâu
thuẫn:
-Mâu thuẫn dân tộc
-Mâu thuẫn giai cấp (cơbản)
Tính chất cách
mạng
-Làm cách mạng tư sản dân quyền
+ cách mạng thổ địa, tiến lên chủ
nghĩa cộng sản
-Hai giai đoạn kế tiếp không có bức
tường ngăn cách
-Cách mạng Đông Dương là cách
mạng tư sản dân quyền qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
-Hoàn thành giai đoạn này mới làm
tiếp giai đoạn khác
Kẻ thù của cách
mạng
Xác định: đế quốc Pháp, vua quan
phong kiến, tư sản phản cách
mạngkẻ thù không phải toàn bộ
phong kiến, tư sản
Xác định: đế quốc, phong
kiếnkhông phân biệt giai cấp
phong kiến có bộ phận tiến bộ,
không đề cập đến tư sản mại bản
Vai trò lãnh đạo Giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam
Đảng Cộng sản Đông Dương
Lực lượng cách -Giai cấp công nhân, nông dân là -Chỉ gồm công nhân,nông dân
mạng động lực, gốc của cách mạng
-Cần phải liên minh với tiểu tư sản,
tư sản dân tộc, trung tiểu địa chủ
-Không đề cập đến giai cấp khác: tư
sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu
địa chủ
Ý nghĩa Là cương lĩnh cách mạng giải
phóng dân tộc sang tạo, kết hợp
đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, xác định đúng lực lượng
cách mạng.
-Tích cực: Nêu rõ hình thức,
phương pháp đấu tranh, mối quan
hệ giữa cách mạng Đông dương và
cách mạng thế giới
-Hạn chế:
+Chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu
của xã hội Đông Dương
+Chưa xác định được kẻ thù chủ
yếu
+Nặng nề đấu tranh giai cấp, cách
mạng ruộng đất.
+Đánh giá không đúng khả năng
cách mạng của tiểu tư sản, khả năng
chống đế quốc, phong kiến của tư
sản dân tộc, khả năng lôi kéo trung
tiểu địa chủ tham gia CM
Phương pháp
cách mạng
Bạo lực cách mạng
Quan hệ giữa
cách mạng VN
với thế giới
Liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới
CHỦ ĐỀ 2: PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
1. Bối cảnh ra đời ( Giải thích thêm về tên gọi)
2. Những người sáng lập và mục đích thành lập trường ĐKNT
3. Bốn ban công tác của ĐKNT:
- Ban giáo dục
- Ban cổ động
- Ban trước tác
- Ban tài chính
4. Nội dung hoạt động
- Về văn hóa – giáo dục
- Về tư tưởng xã hội
- Về kinh tế
5. Phạm vi hoạt động
6. Nhận định chung
- Vai trò thực chất
- Thành tích nổi bật trong các lĩnh vực (văn hóa tư tưởng, các sáng tác văn học…)
- Thời gian hoạt động và tác dụng của ĐKNT.
7. Trả lời câu hỏi
1. Bối cảnh ra đời
Đầu thế kỷ 20, Pháp hầu như đã hoàn thành quá trình bình định, dẹp yên các cuộc khởi nghĩa yêu
nước bên trong Việt Nam (chỉ còn phong trào Khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám còn đang hoạt động).
Cùng với việc mở rộng quá trình thực dân hoá, tư bản hóa nhằm khai thác thuộc địa một cách hiệu
quả nhất, những cơ sở đầu tiên của kinh tế tư sản bắt đầu phát triển trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt
là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.
Song song với sự phát triển kinh tế, những tư tưởng tư bản cũng du nhập và phát triển bên trong Việt
Nam. Các nhà nho có tư tưởng tiến bộ nhận thức được sự yếu kém của Khổng giáo, chứng kiến
nước Nhật Bản duy tân mà thắng đế quốc Nga đã quyết định phải thay đổi tư tưởng, cách thức học tập
trong nước nhằm mục đích tự cường hy vọng một cuộc đổi mới. Nhật Bản lúc bấy giờ đối với các sĩ phu
yêu nước tiến bộ của Việt Nam là một thế giới mới lạ, đầy sức hấp dẫn.
Đồng thời học tập từ thất bại của cuộc cải cách của nhóm Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi khởi xướng
ở Trung Quốc.
Năm 1906, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh tham quan Khánh Ứng nghĩa thục tại Đông Kinh
(Tokyo). Cuối năm 1906, qua cuộc họp “trù bị” tại làng Nội Duệ (Bắc Ninh) đã quyết định thành lập
Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội.
Tháng 3 năm 1907, Đông Kinh Nghĩa Thục bắt đầu được khai giảng ở phố Hàng Đào, Hà Nội.
*Bối cảnh trong nước:
Phong trào này vừa có tính cách chánh trị vừa có tính cách văn hóa, quy tụ được đông đảo sĩ phu và quần
chúng. Đông Kinh Nghĩa Thục có nguồn gốc trong sạch hơn là nguồn gốc của Đông Dương tạp
chí và Nam Phong, cả hai đều do Tây sáng lập và được tiền trợ cấp của thực dân.
Đông Kinh Nghĩa Thục bắt chước theo Khanh Ứng Nghĩa Thục của Nhật Bản nhằm mục đích cổ động
duy tân và xây dựng Tân văn hóa.
Đây là một trường tư thục đầu tiên ở nước ta không thâu học phí mà lại còn phát không sách, tập và bút
giấy cho học trò. Nhà trường chánh ở Hà Nội thành lập chưa được một năm mà đã đặt được chi nhánh ở
hầu khắp các tỉnh miền Bắc và có đà tiến triển vào Trung, Nam.
Đông Kinh nghĩa thục, đúng như tên gọi của nó, trước hết là một trường học, một trường học tư và hoàn
toàn bất vụ lợi, được lập ra vì một nghĩa lớn. Nghĩa lớn ấy nằm chính trong tôn chỉ sáng láng của phong
trào Duy Tân: “Khai dân trí”, mở mang và nâng cao dân trí, để từ đó đi đến “Chấn dân khí”, tạo nên sinh
khí mới cho dân tộc, và “Hậu dân sinh”, đưa đất nước đến phát triển phồn vinh cùng năm châu bốn biển.
Nói theo một cách nào đó và về thực chất, Đông Kinh nghĩa thục (và cả một loạt nghĩa thục bắt đầu từ
Quảng Nam và lan ra nhiều nơi khác trước đó, mà Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội là điểm hội tụ tinh hoa
cuối cùng) chính là một cuộc vận động và thực hành cải cách giáo dục rộng lớn, sâu sắc, cơ bản và sớm
một cách đáng kinh ngạc. Có thể tìm thấy ở phong trào này những vấn đề cơ bản và thậm chí còn nóng
hổi nhất cho cả sự nghiệp giáo dục của chúng ta ngay ngày hôm nay: từ triết lý giáo dục, mục tiêu đào tạo
con người (và từ đó là mục tiêu xây dựng xã hội mới), nội dung giáo dục, chương trình giáo dục, phương
pháp giáo dục, các mối quan hệ nội tại và với xã hội của giáo dục…, cả đến cách thức tổ chức nền giáo
dục kiểu mới.
Đặc biệt chủ trương cải cách giáo dục đó được đặt trong một “hệ thống mẹ” rộng lớn, bao quát hơn, gắn
liền và là động lực quan trọng để chuyển động hệ thống mẹ ấy: cải tạo có tính cách mạng toàn bộ xã hội.
Đó quả thật là một hiện tượng đặc sắc, một tỉnh ngộ anh minh và dũng cảm khác thường, một nhận thức
mới có tính chất chuyển thời đại, còn mới mẻ và thiết thực cho đến tận ngày nay.
*Ý nghĩa tên gọi:
Đông Kinh là tên trường. Nghĩa thục là trường làm việc nghĩa như việc khai trí cho dân, dạy học không
lấy tiền.
2. Mục đích và những người sáng lập Đông Kinh nghĩa thục
Mục đích
- Nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ cho quần chúng.
- Truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và một nếp sống văn minh tiến bộ.
- Phối hợp hành động với các sĩ phu đã xuất dương và hỗ trợ cho phong trào Đông Du của Phan
Bội Châu và phong trào Duy Tân đang phát triển trong cả nước.
Đặc biệt, để đúng với tên gọi nghĩa thục, các lớp học của trường được mở miễn phí.
Người sáng lập
- Sau khi Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh tham quan Khánh Ứng nghĩa thục (1906) và nhen
nhóm ý định thành lập một nghĩa thục – một trường học kiểu mới, đến tháng 3 năm 1907, các sĩ
phu yêu nước cùng chí hướng với Phan Bội Châu như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại,
Hoàng Tăng Bí, Vũ Hoành, bắt đầu mở trường Đông Kinh nghĩa thục.
- Vai trò chính: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can (Thục trưởng) và Nguyễn
Quyền (Giám học). Ngoài ra, trường còn mời Nguyễn Văn Vĩnh – nhà tân học, nhà báo, nhà văn,
nhà phiên dịch Việt Nam – được Pháp tin cậy để tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp.
Phan Bội Châu (1867- 1940)
Phan Châu Trinh (1872-1926)
Lương Văn Can (1854-1927) tự là Hiếu Ôn và Ôn Như, hiệu Sơn Lão, là một nhà cách
mạng Việt Nam.
+ Quê quán tại làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông
+ Năm 1874, ông đỗ Cử nhân, triều đinh phân là Giáo thụ Phủ Hoài nhưng ông từ chối
+ Chính phủ Pháp cử ông vào Hội đồng thành phố nhưng ông cũng không nhận.
+ Năm 1879, ông mở trường dạy học tại nhà ( số 4 Hàng Đào)
+ Tháng 3.1907, ông liên kết với những người cùng chí hướng lập ra trường Đông Kinh nghĩa thục.
+ Năm 1913, ông bị lưu đày sang Nam Vang.
Nguyễn Quyền ( 1869-1941) hiệu là Đông Đường, quê ở làng Thượng Trì, Thượng Mão,
phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông là một chí sĩ yêu nước Việt Nam thời cận đại.
+ Do ông từng đỗ Tú tài khoa Tân Mão năm 1891, được bổ làm Huấn đạo
tỉnh Lạng Sơn, nên người đương thời thường gọi ông là Huấn Quyền.
+ Năm 1907, ông từ quan rồi cùng với Lương Văn Can lập trường Đông Kinh nghĩa thục.
+ Ông làm Giám học của trường này Sau 9 tháng trường đã bị đóng cửa.
+ Nguyễn Quyền cũng là người đứng ra lập hãng Hồng Tân Hưng bán hàng công nghệ nội hoá với
mục đích tự cường kinh tế và cạnh tranh với các hãng buôn ngoại quốc
+ Năm 1908, ông bị bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), kết án khổ sai chung thân rồi đem đày ra Côn
Đảo.
+ Năm 1910 ông được tha về tại Bến Tre.
+ Năm 1920 ông đến Rạch Giá, Sa Đéc rồi về sống tại Bến Tre với gia đình. Ông làm nghề bốc
thuốc và mất năm 1941 tại Bến Tre.
3. Bốn ban công tác của Đông Kinh nghĩa thục
Ban giáo dục
- Chức năng: lo việc giảng dạy, học tập và chiêu sinh.
- Trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp và một số người không trực tiếp giảng dạy ở trường,
thỉnh thoảng gửi bài về cộng tác.
- Học sinh của trường chia làm 8 lớp, có lớp ban ngày, lớp ban đêm, chia làm hai cấp tiểu học và
trung học. Những học sinh quá nghèo được nhà trường sắp xếp cho ăn ở ngay trong kí túc xá.
- Các môn khoa học tự nhiên thì trường dùng sách giáo khoa của các trường tiểu học Pháp, các
môn khoa học xã hội thì nhà trường tự soạn để dạy viết bằng chữ Hán như: Nam quốc vĩ dân,
Nam quốc lịch sử.
- Nội dung các sách rất chú trọng đề cao truyền thống dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc.
Các sách chữ Hán in đẹp, rõ ràng, trên giấy tốt, có đóng bìa.
- Trường có một thư viện có nhiều sách Tân thư nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản để học viên, độc
giả mượn về đọc, có hòm thư treo ở cửa “Hội quán” thu nhập ý kiến phê bình xây dựng cho nhà
trường.
Ban cổ động
- Chức năng: tuyên truyền ảnh hưởng của trường ra ngoài quần chúng.
- Hình thức hoạt động: là các buổi diễn thuyết và bình văn được tổ chức nhiều lần vào tối mồng
một và ngày rằm.
- Thành phần tham dự: quan lại, binh lính, viên chức, một số nông dân ngoại Hà thành.
Nguyễn Quyền
- Nội dung: các diễn giả bình luận các bài in hoặc nói chuyên về một số đề tài lịch sử, quá khứ
oanh liệt của dân tộc, ca ngợi các nhân vật lịch sử có công với nước, Cách mạng tư sản Pháp, đấu
tranh giành độc lập Mĩ… rồi liên hệ với tình hình của Việt Nam lúc đó, xây dựng nếp sống văn
minh, bài trừ hủ tục, hàng hàng nội, cắt tóc ngắn…
- Trong các buổi bình văn, thường giới thiệu những bài thơ văn ái quốc, kêu gọi duy tân do nhà
trường sáng tác hoặc của Phan Bội Châu từ Nhật gửi về.
- Những diễn giả nổi tiếng thời đó: Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm, Phan Châu Trinh
Ban Trước tác
- Chức năng: lo việc biên soạn tài liệu học tập cho học sinh, các tài liệu tuyên truyền.
- Thành phần tham gia: Lê Đại, Lương Văn Can, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế…
- Nhà trường đã soạn và in một số sách giáo khoa, tài liệu tuyên truyền viết bằng chữ Hán.
- Cuốn Quốc dân độc bản được in hàng vạn bản vẫn không thỏa mãn nhu cầu người đọc.
- Sách giới thiệu những kiến thức cơ bản về xã hội, quốc gia, quốc dân, định nghĩa về quan chế,
thuế khóa, pháp luật.
- Những sách về Tân thư được mua về làm tài liệu tham khảo biên soạn, nghiên cứu, giảng dạy.
Ban tài chính:
- Lo các khoản thu chi của nhà trường.
- Trường không thu học phí và giáo viên ban đầu cũng không có lương. Ban đầu, nguồn kinh phí
của trường dựa vào các khoản "lạc trợ" (ủng hộ) của các hội viên và những người hảo tâm yêu
nước, cũng như các khoản đóng góp tự nguyện của học sinh.
- Ban Tài chính còn chịu trách nhiệm mở các tiệm buôn bán và kinh doanh nhằm khuếch trương
thực nghiệp, cổ động cải cách kinh doanh, đồng thời tăng thêm nguồn thu cho trường.
- Sau này kinh phí dồi dào, trường cấp miễn phí giấy bút cho học sinh và trả giáo viên một số
lương tượng trưng nhỏ.
4. Nội dung hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục
Về văn hóa – giáo dục
Chương trình hoạt động của nhà trường tập trung chống tư tưởng phong kiến thối nát, thực
hiện cuộc cải cách tư tưởng văn hoá, xã hội.
- Chống cựu học và hủ nho
- Chống chữ Hán và khoa cử
- Đề cao chữ Quốc ngữ và học những kiến thức mới
- Truyền thống lịch sử và lòng yêu nước đặc biệt được chú trọng.
Thành quả học chữ Quốc ngữ do trường Đông Kinh nghĩa thục tổ chức tuy còn mới mẻ và rất
hạn chế (do nhà trường Đông Kinh nghĩa thục chỉ tồn tại được một thời gian rất ngắn), nhưng thứ
chữ vừa dễ học, dễ đọc, dễ nhớ, vừa tiện lợi, lại chuẩn xác, dần dần trở thành chữ viết chính
thống của quốc gia được các tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX như các nhà học giả Huỳnh Tịnh
Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố… tiếp tục phát động
công cuộc cách mạng chữ viết này.
Về mặt tư tưởng – xã hội:
- Đông Kinh nghĩa thục công khai phê phán tư tưởng phong kiến Nho giáo lỗi thời. Thuyết “thiên
mệnh” của Nho giáo bị đả phá.
- Lên án những phong tục tập quán lạc hậu, những nếp suy nghĩ lạc hậu, những thói cờ bạc, rượu
chè… Đông Kinh nghĩa thục đã phê phán rất sâu cay.
- Trong thời gian này cũng có nhiều sách, báo, văn thơ ra đời đã phê phán những hủ tục, những
thói hư tật xấu trong giai đoạn bấy giờ.
Về mặt kinh tế:
- Đông Kinh nghĩa thục hô hào lập các hội buôn như:
+ Đỗ Chân Thiết có 1 hiệu kim hoàn ở phố hàng Bạc.
+ Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây chuyên buôn bán hàng nội hóa.
+ Hiệu Tụy Phương ở gần ga Hàng Cỏ chuyên buôn bán thuốc Bắc.
+ Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Quyền mở côngty Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai vừa buôn
bán hàng tạp hóa, vừa dệt xuyến hoa đại đóa, ướp chè sen.
- Từ năm 1907 – 1908 trở đi, do ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục nhiều công ty đã ra đời như:
+ Quảng Hưng Long buôn bán nội hóa.
+ Hồng Tân Hưng buôn bán và sản xuất đồ sơn.
+ Nghiêm Xuân Quảng buôn bán the lụa Thái bình.
+ Đồng Ích dệt và xuất khẩu lụa.
- Các hội buôn lan ra các tỉnh: Phúc Yên, Hưng Yên, Việt Trì, Thanh Hóa, Vinh, Phan Thiết, Sài
Gòn.
- Đông Kinh nghĩa thục còn chủ trương đi tìm những vùng mỏ ở vùng núi Tây Bắc để xin Nhà
nước được khai mỏ, nhưng do vốn ít, thiếu kinh nghiệm, bị thực dân Pháp và Hoa kiều chèn ép
nên không thực hiện được.
- Khu vực nông nghiệp cũng được chú ý khuếch trương. Hội chủ trương lập các đồn điền khai
hoang, trồng cây lương thực ở Yên Lập (Hưng Hóa), Mĩ Đức (Hà Đông), nhưng bị thua lỗ nên
chương trình phát triển nông nghiệp cũng không tiến hành được.
Với những hoạt đông tuyên truyền chấn hưng thực nghiệm và hành động kinh doanh cụ thể của
Đông Kinh nghĩa thục cũng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tư sản dân tộc non trẻ phát triển.
5. Phạm vi hoạt động
Tháng 3 năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục được khai giảng ở phố Hàng Đào, Hà Nội. Hoạt động
và ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục nhanh chóng mở rộng ra khắp các vùng lân cận rồi lan sang
các tỉnh miền Bắc, miền Trung. Ngoài 4 phân hiệu của trường được thành lập tại Hà Đông, Sơn Tây, sĩ
phu ở một số tỉnh khác của Bắc Kỳ cũng đua nhau tổ chức các trường lớp mô phỏng Đông Kinh nghĩa
thục.
Ở Bắc Kỳ và vùng phụ cận Hà Nội:
- Ở Hà Đông, Vũ Trác, Hoàng Tăng Bí nhiều lần về diễn thuyết và bình văn ở đây. Trong năm
1907, ở Hà Đông đã thành lập được 3 phân hiệu nghĩa thục.
- Ở Bắc Ninh, tại huyện Gia Lâm cũng có mấy địa điểm mở lớp học kiểu đông kinh nghĩa thục
tương đối quy củ.
- Ở Hưng Yên, song song với việc mở các nghĩa thục ở các huyện Văn Giang, Yên Mĩ,… còn
mở thêm một hiệu buôn hàng nội hóa lấy tên là Hưng Lợi Tế.
- Ở Hải Dương, nhiều nhà nho yêu nước đã tuyên truyền, cổ động cho chủ trương canh tân đất
nước.
- Ở Thái Bình, các huyện Kiến Xương, Đông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ đều có nghĩa thục
hoạt động. Các nhà nho đã vận động nhiều nhóm thân sĩ đứng ra mở trường dạy chữ Quốc
ngữ với nội dung giảng dạy như Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.
- Ở nhiều địa phương khác còn tổ chức ra nhiều hội ái hữu, tương tế như Hội dệt vải, hội hỉ,…
- Ở các tỉnh trung du và miền núi như Vĩnh Phúc, Phúc Yên, Phú Thọ, Yên Bái,… ảnh hưởng
của đông kinh nghĩa thục về chấn hưng công thương nghiệp, khai thác sản xuất hàng nội địa.
Phong trào nghĩa thục lan rộng vào cả các tỉnh ở Trung Kỳ và Nam Kỳ
- Ở Trung Kỳ:
+ Ở huyện Thanh Chương (Nghệ An), trường Võ Liệt thu hút nhiều thanh niên ở các huyện
Nam Đàn, Hưng Nguyên, Hương Sơn, Đức Thọ đến học. Tài liệu giảng dạy, học tập do đông
kinh nghĩa thục Hà Nội cung cấp.
+ Huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh), trường Phong Phú được tổ chức, thu hút con em các huyện
Can Lộc, Cẩm Xuyên đến học. Hoạt đông của trường cũng giống như các nghĩa thục khác.
+ Ở Phan Thiết, trường Dục Thanh là một trung tâm giáo dục theo kiểu đông kinh nghĩa thục.
Nội dung giảng dạy gần giống như các trường tiểu học trong Nam Kỳ.
- Ở Nam Kỳ: Phong trào mở các nghĩa thục không sâu rộng lắm. Những người hưởng ứng
phong trào Duy Tân bằng một số bài báo; hay các khách sạn, hiệu buôn ra đời là những cơ sở
để liên lạc với những người yêu nước trong Nam Kỳ để hưởng ứng phong trào Đông Du và
phong trào Đông kinh nghĩa thục ở ngoài Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
6. Nhận xét chung về Đông Kinh nghĩa thục
Qua gần 9 tháng hoạt động, Đông Kinh nghĩa thục đã nuôi dưỡng được một phong trào cách
mạng công khai, hợp pháp khá sôi nổi, quyết liệt trong lĩnh vực đấu tranh về văn hoá và tư tưởng
theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đó cũng là một cuộc vận động chính trị, chuẩn bị về tinh
thần, về tư tưởng cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ trong thời đại mới.
- Nâng cao được tinh thần yêu nước, cách mạng ở những nơi có phong trào, lôi cuốn họ vào
cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do và giàu mạnh của đất nước.
- Đề cao chữ Quốc ngữ, mạnh dạn sử dụng trong giảng dạy, biên soạn, dịch thuật, sáng tác. Từ
đó, chữ Quốc ngữ nhanh chóng thâm nhập các lĩnh vực xã hội, ngày càng cải tiến trở thành
chữ viết của dân tộc.
- Thúc đẩy nền kinh tế tư sản dân tộc ngày càng phát triển.
- Đi đầu và có những thành tựu lớn trong sáng tác văn học phục vụ các cuộc đấu tranh của
quần chúng; khơi dậy tinh thần đoàn kết yêu nước trong nhân dân.
Đông Kinh nghĩa thục đã trở thành nguy cơ lớn đối với thực dân Pháp. Tháng 12.1907 chính
quyền thực dân Pháp chính thức thu hồi giấy phép đóng cửa Trường.
Đông Kinh nghĩa thục chỉ hoạt động được gần 09 tháng (từ tháng 03.1907 đến tháng 12.1907).
Mặc dù thất bại, Đông Kinh nghĩa thục đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân ta lúc
bấy giờ; bước đầu tấn công hệ tư tưởng phong kiến, mở đường cho tư tưởng mới – tức tư tưởng
tư sản – trên cơ sở đó đã góp phần chuẩn bị về mặt tinh thần cho các phong trào đấu tranh rộng
lớn hơn sau đó. Những kinh nghiệm hoạt động phong phú đa dạng của Đông Kinh nghĩa thục và
của phong trào ở các tỉnh đã được các phong trào yêu nước ở giai đoạn sau kế thừa và phát huy,
làm phong phú thêm nội dung cũng như phương pháp đấu tranh.
7. Trả lời câu hỏi:
• Đánh giá chủ trương của Đông Kinh Nghĩa Thục so với những cải cách giáo dục của Việt Nam
hiện nay:
- Mục tiêu của Đông Kinh Nghĩa Thục là đào tạo ra những người biết độc lập suy nghĩ và tự
hành động " thay vì đào tạo ra các thần dân bù nhìn chỉ biết làm theo mệnh lệnh" – Nhà giáo
Vũ Đình Khôi chia sẻ khi nói về Đông Kinh Nghĩa Thục.
- Đông Kinh Nghĩa Thục có phương hướng nội dung phải thay đổi - nội dung thay đổi thì
phương pháp cũng phải thay đổi. Học trò phải có sáng tạo, tư duy chứ không rập khuôn, ỷ lại
hay chờ chép.
- Đông Kinh Nghĩa Thục phần lớn là làm thay đổi tư duy của con người thời đó. Vì vậy, cải
cách giáo dục hiện nay cũng nên thay đổi tư duy vì tư duy sẽ làm thay đổi mục tiêu.
Tư tưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục cũng tiến bộ hơn rất nhiều so với hiện nay. Như lớp học
mở miễn phí, sách được soạn và phát miễn phí.
CHỦ ĐỀ 3: CHƯƠNG TRÌNH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ NHẤT CỦA TƯ BẢN
PHÁP VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VỚI VIỆT NAM
I. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914)
1. Một bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ
- Sử dụng chính sách “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”.
- Việt Nam bị chia cắt thành 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau.
- Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành động của chúng.
2. Bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án và nhà tù
a. Quân sự:
- triệt để thực hiện chính sách dùng người Việt trị người Việt”, dùng binh lính thuộc địa để bảo vệ thuộc
địa, hoặc lấn chiếm thuộc địa.
- Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là Tổng chỉ huy người Pháp. Dưới quyền của hắn là 3
Thiếu tướng, Tổng cục hậu cần, Giám đốc quân y, Đại tá pháo binh, Đại tá công binh và Đại tá hải quân.
- Ngoài quân đội chính quy, còn có lính khố xanh chuyên đàn áp các cuộc khởi nghĩa, canh giữ nhà tù,
phục vụ các đạo quan binh.
Các phủ, huyện, châu còn có lính lệ và lính cơ. Các làng xã có tuần phu - lực lượng nửa vũ trang dưới
quyền trương tuần và lí trưởng.
b. Cảnh sát:
- 30/6/1915, lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương được thành lập
- ở cả ba xứ, còn tổ chức quân đội thân binh do bọn Việt gian phản đông, chuyên đàn áp các cuộc nổi dậy.
c. Hệ thống tòa án – nhà tù:
* Tòa án:
- Từ năm 1881, ở Nam Kì, xét xử theo hai thứ pháp luật, phân biệt công dân Pháp và không phải công
dân Pháp.
- Ở Trung Kì, bộ luật Gia Long vẫn là luật bảo hộ xứ này.
- Ở Bắc Kì, có 2 loại tòa án, tòa án Tây và tòa án Nam
*Nhà tù:
- Trong 10 năm kết án hơn 24.380 người từ tù giam, khổ sai, chung thân đến tử hình.
- Các nhà tù lúc nào cũng đông tù nhân: Côn Đảo năm 1912 giam tới 1326 người.
- Vụ xét xử của Tòa đề hình “kết án các tên tù phạm việc trái phá Thái Bình và Hà Nội” ngày 5/9/1913,
có 84 người bị kết án
3. Giáo dục
Hủy diệt nền Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị, thay thế
chữ Hán bằng chữ Pháp.
4. Văn hóa
- Báo chí là công cụ tuyên truyền đắc lực
- Các tờ báo đồng loạt được xuất bản với các nội dung về ca ngợi chính sách “khai hóa”, hô hào mở rộng
công thương nghiệp, cổ động bỏ khoa cử…
- Những thói hư tật xấu vẫn được dung dưỡng: cờ bạc, rượu chè, hủ tục ma chay, cưới xin….
- Chiêu quái nhất trong chính sách “ngu dân” của Pháp chính là thuốc phiện
II. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2
- Diễn ra trong vòng 10 năm (1919 – 1929)
- Chính sách “cải lương hành chính” nhằm can thiệp trực tiếp vào các làng xã.
- Tiến hành các cuộc cải cách về chính trị - hành chính để mở rộng cơ sở xã hội của thực dân Pháp nhưng
không làm ảnh hưởng đến nền tảng thống trị ở thuộc địa.
- Nhân dân Việt Nam phải gánh chịu số tiền thuế ngày càng nặng.
- Thực hiện cuộc chia rẽ dân tộc và chủng tộc
- Có những chuyển biến mới trong văn hóa giáo dục.
III. Sự biến chuyển của cơ cấu kinh tế Việt Nam
CUỘC KHAI THÁC LẦN 1 CUỘC KHAI THÁC LẦN II
Giao thông
vận tải
-Được Pháp ưu tiên hàng đầu.
- Năm 1912, tổng số đường sắt đã làm
xong ở Việt Nam là 2.059km.
-Đường bộ được mở rộng đến những khu
vực hầm mỏ, đồn điền, bến cảng và các
vùng biên giới quan trọng.
- Đường thủy được khai thông ở các sông
lớn như sông Hồng, Thái Bình, Hậu
Giang, Đồng Nai.
- Được tăng cường đầu tư vốn và các trang
thiết bị kĩ thuật.
- 1931, Pháp xây dựng được 2389 km đường
sắt trên lãnh thổ Việt Nam.
- 1930, mở được 15000 km đường quốc lộ và
đường liên tỉnh.
Công
nghiệp
- Ngành mỏ được quan tâm nhất.
- Các ngành như xi măng, vải, sợi, gạch,
ngói, điện, nước, chế biến nông lâm sản
được đầu tư phát triển.
- Được tăng cường đầu tư vốn và mở rộng
quy mô sản xuất (đặc biệt là khai thác mỏ).
- Các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp
chế biến cũng khá phát đạt.
Nông
nghiệp
- chiếm đoạt ruộng đất của nông dân trên
quy mô lớn với nhiều hình thức để lập đồn
điền trồng cao su, cà phê , chè.
- Rừng cũng bị chiếm đoạt để lập những
khu lâm khẩn.
Ngành được chú trọng đầu tư khai thác
nhiều hơn cả.
Cướp đoạt ruộng đất của dân ta để lập đồn
điền trồng lúa và các cây công nghiệp.
Tốc độ phát triển vẫn tương đối thấp
IV. Sự biến chuyển của xã hội Việt Nam
Giai cấp
địa chủ
- Ưu thế kinh tế và chính trị của địa chủ VN
tăng lên nhờ sự nâng đỡ của thực dân Pháp
và và trở thành cánh tay đắc lực cho thực
dân Pháp.
- Phân hóa thành: địa chủ Pháp, địa chủ Nhà
thờ, địa chủ quan lại, địa chủ thường, còn có
địa chủ kiêm công thương.
Được củng cố, phát triển lớn mạnh hơn
trước nhờ sự che chở của thực dân Pháp.
Giai cấp
nông
dân
- Nạn chiếm hữu ruộng đất diễn ra 1 cách
khủng khiếp.
- Pháp áp dụng chế độ bóc lột phong kiến cũ,
phát canh thu đối với tá điền, nạn sưu, thuế
ngày 1 nặng, nạn cho vay lãi và cầm cố duy
trì
- nông thôn nước ta ngày 1 phân hóa.
- Chiếm đại đa số trong xã hội, bị phân hóa
thành 3 tầng lớp: trung nông, bần nông và
cố nông.
- Một trong số đó bị bần cùng hóa, ra các
thành thị, hầm mỏ để làm việc song phải
quay phải do không tìm được việc.
Tầng lớp
tư sản
- tầng lớp tư sản đầu tiên đã xuất hiện, sớm
nhất là tư sản mại bản và có nguồn gốc xuất
thân khác nhau.
- Chưa đông về số lượng, phát triển chậm
về mọi mặt
è Chưa đủ điều kiện để hình thành một
giai cấp.
- Hoạt động kinh doanh được mở rộng và
có quy mô lớn.
- Phân hóa thành 2 bộ phận: tư sản mại bản
và tư sản dân tộc.
- Đã lớn mạnh và trưởng thành rõ rệt tuy
nhiên địa vị kinh tế còn rất nhỏ yếu và thấp
kém so với tư bản nước ngoài.
Tầng lớp
tiểu tư
sản
- Tầng lớp tiểu tư sản có trước và đông hơn
tầng lớp tư sản.
- Đời sống vật chất của họ tuy khá hơn các
tầng lớp khác đôi chút nhưng họ cũng bị chèn
ép rất nhiều về mặt chuyên môn lẫn chính trị.
- Giai cấp tiểu tư sản ngày càng trở nên
đông đảo
- Nó được kết hợp một cách lỏng lẻo bởi
ba bộ phận: trí thứ, tiểu thương và thợ
thủ công.
Giai cấp
công
nhân
- công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ
những nông dân
- Tính tập trung ngày càng mạnh.
Phát triển về số lượng. Sớm có tinh thần đoàn
kết đấu tranh chống áp bức, bóc lột.
è Có các điều kiện cần và đủ để hình thành
một giai cấp. Tuy vậy, giai cấp công nhân tuy
đã ra đời nhưng mới ở giai đoạn “tự phát”.
- Ngày càng đông đảo theo đà phát triển
- Trình độ văn hóa thấp, tính chất vô sản
hiện đại bị hạn chế.
- Điều kiện sống và lao động rất cực
khổ.
- Có tinh thần kỉ luật, ý thức đoàn kết
cao được mài dũa qua quá trình lao động
và đấu tranh.
=> Sớm được giác ngộ và nhanh chóng
vươn lên nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc
TRẢ LỜI CÂU HỎI
1. Quá trình khai thác thuộc địa của Pháp tạo ra những ảnh hưởng về văn hóa. Nó còn kéo dài đến
ngày nay không?
Văn hoá Vn vẫn còn chịu sự ảnh hưởng của văn hoá Pháp sau kế hoạch khai thác thuộc địa Đầu tiên
là về kiến trúc, kiến trúc nước ta chịu sự ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, đặc biệt là Gothic. Nhà thờ
Đức Bà ở SG và Toà Đại Hình ở HN là những ví dụ tiêu biểu Thứ hai là về ngôn ngữ, chữ quốc ngữ
của nước ta cũng một phần là do các nhà truyền đạo ở Pháp nghĩ ra để giúp việc truyền đạo trở nên dễ
hơn, đồng thời, một số từ vay mượn của tiếng Pháp vẫn còn đc sử dụng đến ngày nay Thứ ba là về ẩm
thực, một số món ăn pháp như bò bít tết và đặc biệt là rượu vang là một trong những thứ ko thể thiếu
ở một vài bữa tiệc ở VN
2. Giai cấp tư sản đã có những tiềm năng để thành 1 giai cấp chưa ?
Thời kì Pháp giai cấp Tư sản có thế lực yếu. Bị thực dân Pháp chèn ép.Và chia thành 2 loại là tư sản
dân tộc và tư sản mại bản.
Tư sản dân tộc thế lực yếu tư tưởng chính trị không kiên định. Khi thực dân Pháp cho một số quyền
lợi họ sẽ theo Pháp và ko có quyền lực chính trị.
Tư sản mại bản là người nước ngoài nên ko có tinh thần tinh thần dân tộc.
3. Điểm nổi bật (mấu chốt) của công cuộc khai thác thuộc địa Pháp?
_Lĩnh vực chính trị, quân sự: tạo nên cơ chế thống trị kép nửa phong kiến nửa thực dân nhằm áp bức
bóc lột nhân dân.
Mọi quyền lực tập trung trong Trung ương Pháp.
_Kinh tế tài chính: phá vỡ tình trạng bế quan tỏa cảng.
vẫn là nền kinh tế tiêu cực lạc hậu, mất cân đối, vơ vét tài nguyên tối đa
_VHXH: tạo điều kiện cho 1 số tri thức Việt tiếp xúc với các nền giáo dục tiến bộ
bên cạnh đó chúng còn thi hành chính sách ngu dân, tạo mâu thuẫn xã hội gay gắt.
=> tước đoạt quyền tự do của nhân dân, kinh tế ta phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế Pháp.
4. Tư sản mại bản là gì? Mục đích của khai thác thuộc địa Pháp?
Tư sản mại bản là bộ phận thỏa hiệp của giai cấp tư sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm trung gian
giữa tư bản nước ngoài và thị trường trong nước, gắn chặt lợi ích của mình với lợi ích tư bản nước ngoài,
thực chất là làm tay sai cho các thế lực đế quốc bóc lột nước mình.
Tư sản mại bản một mặt cấu kết chặt chẽ với tư bản nước ngoài, mặt khác cấu kết chặt chẽ với giai cấp
địa chủ phong kiến phản động trong nước để bóc lột nhân dân lao động, duy trì địa vị và lợi ích của mình.
Tư sản mại bản cũng là đối tượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
CHỦ ĐỀ 4: NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG 1911-1930
I. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1. Tình hình xã hội Việt Nam – cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước
2. Xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam
II. Phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
2. Quá trình chuẩn bị thành lập Đảng
a. Thành lập hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
b. Phác thảo đường lối cứu nước
3. Quá trình tìm tòi con đường cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc
a. Tiểu sử
b. Quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1911 – 1919
c. Quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1920 – 1930
III. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1. Ba tổ chức cộng sản
2. Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Đánh giá vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình thành lập Đảng
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
I. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
2. Bối cảnh Việt Nam – Cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước
a, Xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam
- Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
+ Về chính trị, thực dân Pháp tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến
nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai
trị riêng.
+ Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư vốn khai thác tài
nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường bộ, đường thủy, bến cảng phục vụ
cho chính sách khai thác thuộc địa của nước Pháp. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn
đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm.
+ Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân; dung túng, duy trì
các hủ tục lạc hậu…
- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
+ Xã hội Việt Nam xuất hiện 5 giai cấp là: công nhân, nông dân, tư sản, tiểu tư sản và địa chủ.
+ Xã hội Việt Nam xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến.Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân pháp xâm lược.
b, Phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Phong trào yêu nước của nông dân và sĩ phu yêu nước.
Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất chấp chủ
trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã vùng đứng lên chống Pháp.
Chúng vấp phải một phong trào đấu tranh vũ trang quyết liệt và kéo dài, hễ phong trào này tắt thì
phong trào khác bùng lên, đúng như lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực trước giờ xử tử “ Bao
giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896):
Vua Hàm Nghi (1872 – 1943)
+ Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển
mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
+ Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển cho đến