Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Đà Nẵng trong hai năm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.39 KB, 50 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý cua Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chủ trương trên, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 - 1990)
đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hàng một số chủ trương, chính sách nhằm
khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, các
loại hình doanh nghiệp như doanh nghiêp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ
phần đã phát triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Song nhìn chung quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đến nay ở
nước ta có tới 70% doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hầu hết các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thuộc loại vừa và nhỏ. Hiện nay, DNNN ở nước ta
tuy có tốc độ phát triển tương đối khá nhưng đang gặp khó khăn: thiết bị,
công nghệ lác hậu, trình độ tổ chức và quản lý yếu kém, giá thành sản phẩm
cao, thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập lậu và hàng hoá của các
doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt.
Nhưng khó khăn lớn nhất hiện nay là vốn hiện có của các DNNN rất ít
trong khi đó nhu cầu vốn để các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất, đổi mới
thiết bị, công nghệ lại đòi hỏi rất lớn. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng tín
dụng ngân hàng nhằm tìm ra các biện pháp chủ yếu mở rộng một vấn đề đặt
ra hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng nói trên, em xin chọn
đề tài: "Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Đà Nẵng trong hai năm
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG
VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.


1. Khái niệm:
Điều 20 Luật Tổ chức Tín dụng Việt Nam có nêu rõ: Ngân hàng
thương mại là tổ chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt đông ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và
thường xuyên lànhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
Tuỳ theo tính chất và mục tiêu hoạt động,các loại hình ngân hàng gồm
Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Chính sách, Ngân
hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
2. Đặc điểm:
- Vốn bằng tiền vừa là phương tiện vừa là đối tượng của quá trình kinh
doanh.
- Ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác chứ không
phải bằng vốn chủ sở hửu
- Một trong những sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là tín dụng.
- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến nhiều đối tượng
khách hàng mà những khách hàng này hoạt động trên những lĩnh vực khác
nhau. Do đo ngân hàng có thể phân tán rủi ro trong đầu tư và chịu nhiều rủi ro
về sự đa dạng cũng như mức độ.
- Hoạt động ngân hàng chịu nhiều sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của
nhà nước và pháp luật.
- Hoạt động ngân hàng diễn ra một cách liên tục, các hoạt động có liên
hệ bổ sung lẫn nhau. Vì vậy, việc xác định kết quả của một hoạt động nào đó
thì khó chính xác.
3. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại:
3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ:
Huy động các nguồn vốn trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan
trọng nhất của các ngânhàng thương mại. Bằng những công cụ cần thiết mà
pháp luật cho phép NHTM đã huy động vốn từ các nguồn tiền trong xã hội

làm nguồn vốn để cho vay đối với các thành phần kinh tế. Kết quả của nghiệp
vụ này là tạo ra nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của NHTM gồm:
- Vốn điều lệ: là số vốn ban đầu khi thành lập ngân hàng được ghi vào
điều lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ it nhất phải bằng vốn pháp định do Chính
phu íqui định.
- Các quỹ dự trữ: đây là quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn
tại và phát triển của ngan hàng. Gồm có các quỹ sau:
+ Quỹ dự trữ
+ Quỹ dự phòng rủi ro
+ Quỹ khen thưởng phúc lợi
+ Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ
- Vốn huy động: đây là nguồn vốn chủ yếu của NHTM, gồm có:
+ Tiền gửi không kỳ hạn của đơn vị, cá nhân
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
+ Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
+ Các khoản tiền gửi khác
+ Vốn đi vay: vay từ thị trường tiền tệ, vay từ Ngân hàng Trung
ương
- Vốn tiếp nhận: vốn do Nhà nước cấp hay các tổ chức tài chính uỷ thác
cho ngân hàng cho vay theo mục đích chỉ định.
- Vốn khác: đó là nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của
ngân hàng( đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ...)
3.2 Nghiệp vụ tài sản có:
Nghiệp vụ tài sản có: là nghiệp vụ phản ảnh khả năng sử dụng nguồn
vốn đó với mục đích sinh lời của NHTM. Bao gồm: Nghiệp vụ ngân quỹ (Dự
trữ), cho vay, đầu tư, tài sản Có khác... Trong nghiệp vụ tài sản Có thì nghiệp
vụ tín dụng và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất. Đây là các
nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của

NHTM.
- Tài sản ngân quỹ (dự trữ): Hoạt động của NHTM nhằm mục đích
sinh lời. Song, cần phải đảm bảo an toàn trong thanh toán để giữ vững được
lòng tin của khách hàng. Muốn vậy, các NHTM luôn dành một phần nguồn
vốn, không sử dụng nó để đáp ứng, đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả...
Phần vốn để dành này gọi là dự trữ, và tỷ lệ phần dự trữ này trên tổng số dư
tiền gửi gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, do NHNN quy định trong từng thời kỳ.
Có hai cấp dự trữ là: sơ cấp và thứ cấp.
- Tài sản tín dụng: Là các khoản ngân hàng cấp tín dụng cho các đơn vị
tổ chức kinh tế dưới mọi hình thức. Đây được xem là hoạt động tạo ra nguồn
thu nhập lớn nhất cho mọi NHTM. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng là một
trong những hoạt động hàm chứa trong nó xác suất rủi ro rất cao. Do đó, bất
kỳ một NHTM nào cũng đều xây dựng một chính sách Tín dụng cho riêng
mình nhằm đem lại sự an toàn và sinh lợi tốt nhất cho hoạt động kinh doanh.
Tài sản tín dụng thông thường được phân bổ theo nguyên tắc phân tán (rủi ro)
và nguyên tắc lựa chọn (khách hàng).
- Tài sản đầu tư: Nghiệp vụ Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau
khoản mục cho vay; nghiệp vụ này mang lại khoản thu nhập đáng kể cho
NHTM. Nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ
được phân tán, đồng thời ngân hàng có thể đa dạng hóa hoạt động kinh doanh
của mình... Trong nghiệp vụ này NHTM sẽ dùng nguồn vốn của mình và
nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như: Góp vốn, mua cổ
phần, cổ phiếu của các công ty; Mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền địa
phương; mua trái phiếu công ty...
- Tài sản có khác: Là khoản mục còn lại của tài sản Có, trong đó chủ
yếu là tài sản lưu động và cơ sở vật chất để tiến hành các hoạt động ngân
hàng, Bao gồm:
+ Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa làm trụ sở, văn phòng, hệ
thống kho quỹ.
+ Mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc.

+ Mua sắm các phương tiện vận chuyển.
+ Các khoản phải thu, các khoản khác...
3.3 Nghiệp vụ trung gian: NHTM thực hiện các nghiệp vụ trung gian
nhằm đem lại sự tiện ích cho khách hàng để thu phí dịch vụ và hoa hồng dịch
vụ. Có những loại dịch vụ sau:
- Các dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng.
- Bảo quản các tài sản quý giá, giấy tờ, chứng thư quan trọng của công
chúng.
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của khách hàng.
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quý ...
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các Công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu ...
II. TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng được hiểu là sự chuyển nhượng việc sử dụng một lượng giá
trị dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản phi tiền tệ từ người cho vay sang người đi
vay với những điều kiện nhất định để sau một khoảng thời gian nhất định theo
thỏa thuận vốn sẽ được hoàn trả với một lượng giá trị danh nghĩa lớn hơn ban
đầu.(Theo quan điểm Mác).
2. Khái niệm Tín dụng Ngân hàng:
TDNH là một giao dịch về tài sản(tiền) giữa bên cho vay( ngân hàng )
và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện với gốc và
lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở hoàn trả và có những đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ TDNH là hình thức cho vay bằng tiền.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quan hệ tín dụng.

- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác người đi vay phải trả them phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tin dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiên
3. Các nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng
Khách hàng vay vốn cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn
- Vay phải có mục đích và đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã
thỏa thuận.
- Vay phải có bảo đảm theo qui định
4. Phân loại tín dụng:
4.1 Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: thời hạn cho vay đến 12 tháng, sử dụng để bù đắp
thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của cá nhân...
- Tín dụng trung hạn: thời hạn vay từ trên 12 tháng đến 5 năm, vốn vay
thường được dùng để đầu tư vào TSCĐ; cải tiến, đổi mới thiết bị công nghệ,
mở rộng sản xuất, xây dựng các dự án mới quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi
vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, đây là loại
tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng cơ bản,
các công trình cơ sở hạ tầng, các thiết bị, phương tiện vận tải, mở rộng sản
xuất với quy mô lớn...
4.2 Phân loại theo hình thức đảm bảo:
- Tín dụng có đảm bảo bằng : là việc thiết lập cơ sở pháp lý để các
NHTM có được một nguồn thu hợp pháp thứ hai từ một tài sản cụ thể ngoài
nguồn thu nợ chính thức. Loại này thực hiện dưới các hình thức: cầm cố, thế
chấp, đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc sự bảo lãnh bằng tài
sản của bên thứ ba.
- Tín dụng không có đảm bảo : là hình thức cho vay mà cơ sở để hình

thành tín dụng chủ yếu dựa vào uy tín của của bản thân khách hàng... Từng
ngân hàng có cách xác định và lựa chọn, tuy nhiên các ngân hàng thường dựa
vào: uy tín, năng lực tài chính, tính khả thi và hiệu quả mục đích sử dụng
vốn...
4.3 Phân loại theo mục đích sử dụng vốn:
- Tín dụng tiêu dùng: cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, sinh
hoạt của các cá nhân, gia đình trong xã hội: cán bộ công chức, viên chức,
công nhân, hưu trí..
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá : cho vay đối với các
doanh nghiệp và cá thể khác để tiến hành đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh...
4.4 Phân loại theo hình thái giá trị tín dụng;
- Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được
cung cấp bằng tiền.
- Tín dụng bằng tài sản: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng
được cung cấp bằng một loại tài sản nhất dịnh nào đó.
4.5 Phân loại theo thành phần kinh tế:
- Tín dụng thành phàn kinh tê úquốc doanh: là loại tín dụng được cấp
cho các thành phần kinh tế thuộc sở hửu nhà nước để bổ sung vốn lưu động
và vốn cố định đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, cải tạo đổi mới cơ sở
vật chất kỹ thuật của đất nước nhằm phục vụ cho nhu cầu của xã hội.
- Tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:là loại tín dụngđược
cấp phátcho các thành phần kinh te úkhông thuộc sở hửu nhà nước để bổ sung
vốn lưu động và cố định phục vụ cho nhu càu sản xuất kinh doanh của họ.
5. Vai trò của tín dụng ngân hàng:
- Tín dụng Ngân hàng là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ
quốc gia nào, nó có vai tro ìrất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, là đòn
bẩy được sử dụng một cách linh hoạt đối với mọi thành phần kinh tế .Điều
này thể hiện rõ qua vai trò của Tín dụng Ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng giúp thúc đẩy sản xuất phát triển : Tín dụng Ngân

hàng là công cụ tích tụ tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, nó cung
ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn của Doanh nghiệp để tăng quy mô sản
xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị ...từ đó góp phần thúc đẩy quá
trình sản xuất liên tục và phát triển
- Tín dụng Ngân hàng góp phần đầu tư phát triển kinh tế: Tín dụng Ngân
hàng giúp cho các Doanh nghiệp đầu tư vao những ngành có tỉ suất lợi nhuận
cao, kích thích cạnh tranh lành mạnh giữa các Doanh nghiệp, tạo điều kiện để
các Doanh nghiệp chuyển hướng phát triển kinh doanh cho phù hợp với tình
hình .Qua đó các Doanh nghiệp có được chính sách sản xuất kinh doanh mềm
dẻo và linh hoạt hơn.
- Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định đời sống, ổn định xã hội ,tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động.
III. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ.
1. Khái niệm về DNVVN
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp ngày càng phổ biến ở hầu hết
các nước. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh
giới quy mô doanh nghiệp giữa các nước. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta
dựa vào hai tiêu thức chủ yếu là quy mô về vốn và lao động để phân loại
doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy
nhiên, việc lượng hóa quy mô vừa và nhỏ theo tiêu thức vốn và lao động chỉ
mang tính tương đối, bởi hai tiêu thức này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
trình độ phát triển của mỗi nước, tính chất từng ngành nghề, tính chất vùng,
lãnh thổ, tính chất lịch sử...
Ở Việt Nam, sự ra đời và phát triển của lực lượng DNVVN trong những
năm gần đây được coi như là một sản phẩm mang đậm dấu ấn đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước ta và cũng theo đó mà những phân định về
DNVVN cũng có sự thay đổi phù hợp. Ngày 20/06/1998, Chính phủ đã có
văn bản số 681/CP-KTN về việc định hướng chiến lược và chính sách phát

triển các DNVVN, theo đó, tiêu chí xác định DNVVN là những doanh nghiệp
có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới
200 người...
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì quy mô hoạt động
của các doanh nghiệp cũng có những bước phát triển vượt bậc. Để hoàn thiện
các văn bản pháp luật về DNVVN, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 23/11/2001 quy định về việc trợ giúp phát triển DNVVN
đã có định nghĩa: “DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Với tiêu chí xác
định như trên thì tỷ trọng DNVVN hiện nay đã tăng lên đáng kể với số lượng
trên 100.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp trong cả
nước. Đa phần các DNVVN hoạt động trong các lĩnh vực Thương mại dịch
vụ, công nghiệp chế biến, xây dựng và vận tải...với mức đóng góp đáng kể
trong cơ cấu GDP hằng năm.
2. Ưu thế của DNVVN
2.1. DNVVN năng động, nhạy bén và dể thích ứng với sự thay đổi của
thị trường.
Đây là một ưu thế nổi trội của DNVVN. Với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy
quản lý gọn nhẹ, DNVVN dể dàng tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu có
hạn trong những thị trường chuyên môn hóa. Mặt khác, DNVVN thường có
mối liện hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu thụ nên có phản ứng nhanh
nhạy với sự biến động của thị trường. Với cơ sở vật chất kỷ thuật không lớn,
DNVVN đổi mới linh hoạt hơn, dể dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp
quy mô mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội.
2.2. DNVVN tạo lập dể dàng, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định
thấp.
Để thành lập một DNVVN chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối
ít, mặt bằng sản suất nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn. Với ưu thế nhỏ gọn,
năng động, dể quản lý, không cần nhiều vốn như vậy, các DNVVN vừa rất

linh hoạt trong việc học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi
trường khách quan tác động lên. Mặt khác, do một số Doanh nghiệp vừa và
nhỏ được thành lập mang tính gia đình, bè bạn nên mối khi gặp khó khăn,
công nhân và chủ DN dể dàng tự hạ thấp tiền lương, có tinh thần nỗ lực vượt
bậc để vượt qua khó khăn. Điều đó làm cho DNVVN giảm được chi phí cố
định, tận dụng lao động để thay thế vốn bằng tiền
2.3. DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh, hạn chế độc quyền.
Khác với các DN lớn, cần thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo hộ của
Chính phủ, sự độc quyền,... các DNVVN nhỏ với số lượng đông đảo, thường
không có tình trạng độc quyền. Các DNVVN dể dàng và sẵn sàng chấp nhận
tự do cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN có tình tự chủ
cao hơn. Các DNVVN không ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và vì mưu
lợi, DNVVN sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro.
Chính điều đó làm cho nền kinh tế thật sự sống động và thúc đẩy việc sử dụng
tối đa các tiềm năng của đất nước. Đây là một ưu thế quan trọng đối với các
DNVVN hiện nay.
2.4. DNVVN có thể phát huy được tiềm lực của từng địa phương.
Thành công của DNVVN là nắm bắt được những điều kiện cụ thể của
đất nước về tài nguyên, lao động. Trong các DN lớn, việc sử dụng nguyên
liệu sẵn có tại đia phương thường gặp khó khăn do trữ lượng thấp, không đảm
bảo cho sản xuất lớn. Ngược lại, các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển
dụng lao động tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn
có tại địa phương, phát huy hết tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
2.5. DNVVN góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng
lãnh thổ trên một quốc gia.
Với sự tạo lập dể dàng, các DNVVN có thể phát triển rộng rãi ở mọi
vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú và đa dạng, đồng thời tạo
ra sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong nước. Đặc biệt các DNVVN có
thể hiện diện ở khắp mọi miền đất nước, kể cả vùng nông thôn và miền núi,
những nơi thưa dân, có cơ cấu kinh tế chưa phát triển và nhờ đó, chúng cung

cấp hàng hóa và dịch vụ cho dân cư địa phương và những vùng phụ cận.
Thông thường, DNVVN cung ứng sản phẩm tại chỗ với 95% sản phẩm
tiêu thụ nội địa mà chủ yếu là tiêu thụ trong vùng, khoảng 5% sản phẩm dành
cho xuất khẩu. Như vậy, các DNVVN vừa thực sự góp phần đắc lực cho sự
tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
3. Hạn chế của DNVVN
Bên cạnh những ưu thế kể trên, các DNVVN hiện nay cũng còn tồn tại
những hạn chế vốn có của nó. Những hạn chế chủ yếu của DNVVN bao gồm:
3.1. Khả năng tài chính của DNVVN hạn chế.
Với ưu thế tạo lập dể dàng do chỉ cần một lượng vốn ít, các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ gặp phải hạn chế là năng lực tài chính thấp, từ đó dẫn đến
một loạt bất lợi cho DNVVN trong sản xuất kinh doanh.
Trước hết, vốn chủ sở hữu ít nên khả năng vay vốn vủa DNVVN rất
hạn chế. Các DNVVN thường thiếu tài sản thế chấp cho khoản tiền dự định
vay. Tiếp đến, do khả năng tài chính hạn chế, quy mô kinh doanh không lớn,
cũng rất khó khăn và ít có khả năng huy động được vốn trên thị trường. Chính
vì thế, các DNVVN luôn ở trong tình trạng thiếu vốn. Điều đó khiến cho khả
năng thu lợi nhuận của DNVVN bị giới hạn ngay cả khi có cơ hội kinh doanh
và có yêu cầu mở rộng sản xuất. Với tình trạng đó, khả năng tự tích lũy của
các DNVVN cũng bị hạn chế.
3.2. DNVVN thiếu thông tin, trình độ quản lý, điều hành thường bị hạn
chế.
Trong thời đại ngày nay, thông tin cũng là yếu tố một đầu vào vô cùng
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do khả năng tài chính hạn chế mà
DNVVN thường khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận
công nghệ sản xuất cũng như công nghệ quản lý tiên tiến... Do đó, trình độ
quản lý của đội ngũ điều hành trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng bị hạn
chế.
3.3. DNVVN bị bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, trang bị

máy móc thiết bị và tiêu thụ sản phẩm.
Với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, DNVVN
cũng thường không được hưởng các khoản chiết khấu hay giảm giá do mua
với số lượng ít. Trong trường hợp cần phải nhập máy móc, thiết bị của nước
ngoài, DNVVN thường thiếu ngoại tệ và không mua được trực tiếp mà
thường qua đại lý trong nước nên giá cả bị đắt hơn. Bên cạnh đó, cũng do khả
năng tài chính hạn hẹp nên DNVVN khó có thể dành ra một khoản tiền đủ lớn
để thực hiện chiến lược marketing, và do đó khïo có khả năng vươn ra thị
trường thế giới.
3.4. DNVVN ít có khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động
giỏi.
Với quy mô sản xuất kinh doanh không lớn, sản phẩm tiêu thụ không
nhiều, Doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể trả lương cao cho người lao động.
Và cùng với sự thiếu vững chắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
DNVVN vừa khó có khả năng thu hút được những lao động có trình độ cao
trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý, điều hành.
3.5. Hoạt động của DNVVN thiếu vững chắc.
Mặc dù có ưu thế linh hoạt nhưng do khả năng tài chính hạn chế nên
khi có biến động lớn trên thị trường, các DNVVN dể rơi vào tình trạng phá
sản. Hơn nữa, trong quá trình phát triển của mình, không ít các DNVVN còn
nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế xã hội như
hiện tượng trốn thuế, hiện tượng chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú
ý đến hậu quả xã hội phải gánh chịu, kể cả một các hành vi phạm pháp như
làm dối, làm ẩu không đảm bảo chất lượng, làm hàng giả, gây ô nhiễm môi
trường...
4. Vai trò và sự cần thiết tăng cường hoạt động cho vay đối với
DNVVN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, tuy mỗi nước khác nhau có những đặc điểm, mức độ phát
triển khác nhau; các DNVVN ở các nước cũng có những hạn chế nhất định,...
song một điều không thể phủ nhận là các DNVVN trong giai đoạn hiện nay

luôn có một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo ra
nhiều việc làm, tăng thu nhập, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, mở rộng
ngành nghề, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần đáng kể vào tăng thu ngân
sách hằng năm... Chính vì vậy, sự tồn tại và phát triển của các DNVVN trong
nền kinh tế các nước nói chung hay Việt Nam nói riêng là một tất yếu khách
quan và thật sự cần thiết trong quá trình phát triển của quốc gia.
Ở nước ta, các DNVVN trong quá trình hoạt động, phát triển đã và
đang chiếm giữ vị trí đặc biệt trong một số ngành. Theo thống kê, tỷ trọng
DNVVN trong lĩnh vực khoa học cộng nghệ chiếm 94,1 %; sửa chửa ô tô, xe
máy: 93%; giáo dục đào tạo: 87,5%; công nghiệp chế biến: 86%; xây dựng:
85,7%... và nhiều ngành khác chiếm tỷ trọng cao. Hàng năm, DNVVN đóng
góp khoảng 30% GDP, 30% giá trị sản lượng (GTSL) công nghiệp, 78% tổng
mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa, 100% tổng GTSL hàng
hóa ở một số ngành như: giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ... Về xã hội, với số
lượng trên 100.000 DNVVN (trong tổng số 120.000 của cả nước); đặc biệt
với trên 40.000 DNVVN ra đời sau khi có Luật Doanh nghiệp thì trung bình
mỗi DNVVN tạo việc làm cho khoảng 20 lao động, chiếm 49% lực lượng lao
động cả nước. Từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp còn 5,8% năm 2002 so với tỷ lệ
7,4% năm 1999. (Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, ngày 1/3/2004)
Như vậy, vai trò trong công cuộc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội
quốc gia của các DNVVN là không thể phủ nhận. Song, hiện nay các doanh
nghiệp này đang gặp phải không ít trở ngại, khó khăn làm hạn chế sự phát
triển của mình.
Đầu tiên và cũng là lớn nhất là khó khăn về vốn. Mặc dù số lượng
DNVVN chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song
tổng số vốn cho sản xuất, kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng số vốn
của các doanh nghiệp. Số vốn bình quân của một DNVVN không quá 1 tỷ
đồng (Tạp chí Tài Chính Doanh nghiệp, số 8/2003). Điều này một mặt phản
ánh mức độ thu hút, tập trung vốn vào sản xuất, kinh doanh của các DNVVN
còn thấp; mặt khác phản ánh các DNVVN nhìn chung đều gặp khó khăn,

thiếu vốn để mở rộng quy mô hoạt động của mình.
Khó khăn về công nghệ, kỷ thuật. Bên cạnh thiếu vốn để sản xuất và mở
rộng sản xuất, các DNVVN còn ở trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, trang
thiết bị... do đó sản phẩm sản xuất ra thường là chất lượng thấp, rất khó cạnh
tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới.
Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động. Hiện nay
các DNVVN đa phần thiếu vắng những nhà quản lý có trình độ cao, hội đủ
năng lực để chỉ đạo sản xuất, kinh doanh theo chiến lược mong muốn, do vậy
không đủ sức chèo lái để doanh nghiệp hoạt động khi gặp khó khăn trong sản
xuất như: biến động thị trường, giá cả, tỷ giá, lãi suất, nợ, xuất nhập khẩu và
các mối quan hệ khác.
Trình độ tay nghề của người lao động trong các DNVVN hiện rất thấp.
Số lao động có tay nghề giản đơn, chưa qua đào tạo bình quân chiếm khoảng
60-70%. Đây thực sự là một khó khăn lớn đối với việc phát triển của các
DNVVN. Ngoài ra, các DNVVN hiện nay còn gặp phải một số khó khăn khác
như: thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh ổn định, lâu dài; thiếu thông tin, các
phương tiện xử lý thông tin,... Đó là chưa kể đến một số khó khăn về cơ chế
như: sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh, sự phân biệt đối xử...
Thực trạng thiếu vốn kinh doanh trên buộc các DNVVN phải có được
nguồn tài trợ để vượt qua những khó khăn và phát triển. Tuy nhiên, đối với
các DNVVN, đặc biệt là các DNNQD, việc giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu
dựa vào thị trường phi tài chính hay dựa vào họ hàng, bạn bè... ít tiếp cận
được các nguốn tín dụng chính thức thông qua các TCTD. Tuy nhiên, việc
huy động từ bạn bè mặc dù lãi suất thấp, có thể bằng không nhưng lượng huy
động lại ít, không thường xuyên, liên tục; qua các tổ chức phi tài chính thì lãi
suất rất cao (có thể 3%-6%/tháng), phải có tài sản cầm cố, thế chấp đảm bảo
nhưng cũng chỉ được vay một tỷ lệ nhỏ trên giá trị tài sản đó. Việc huy động
từ kênh Ngân hàng và các TCTD là hình thức tối ưu hơn cả với chính sách lãi
suất thỏa thuận, hợp lý, ổn định cao, khối lượng vay lớn...
Như vậy, với tất cả những thực trạng, khó khăn trên đòi hỏi cần có

nhiều hơn những chính sách, cơ chế tài chính phù hợp của Nhà nước để hỗ trợ
phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ; đặc biệt là những chính sách thật sự
thông thoáng về tài chính - tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, các Tổ chức
tín dụng nói riêng trong việc cấp tín dụng cho các DNVVN... để một mặt các
Tổ chức tín dụng có thể đa dạng hóa lĩnh vực, dịch vụ kinh doanh, tăng doanh
số cho vay, phân tán rủi ro trong kinh doanh, nâng cao kết quả, hiệu quả kinh
doanh... Mặt khác các DNVVN có cơ hội vượt lên những hạn chế, khó khăn,
có điều kiện phát huy tốt nhất những ưu thế vốn có, từ đó khẳng định được
vai trò to lớn của mình trong sự tăng trưởng phát triển chung của nền kinh tế,
góp phần vào sự thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
CHƯƠNG II:
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG.
A. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ
NẴNG.
I. VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ĐT & PT ĐÀ NẴNG.
Chi nhánh NH ĐT&PT ĐN trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng cũ.
Hoạt động chủ yếu trong thời gian này là huy động vốn, cho vay trên
địa bàn dân cư, cho các tổ chức kinh tế theo kế hoạch tín dụng của NHNN
Thành phố Đà Nẵng giao cho việc hạch toán báp sổ.
Dần dần, cùng với sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước và do
tình hình thực tế là khu vực trọng điểm lớn của Nhà nước và thành phố đang
xây dựng, hình thành và phát triển.
Trước tình hình kinh tế chung của đất nước khi đó hoạt động tài chính
tiền tệ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt từ năm 1985 - 1988 do những ảnh hưởng
xấu của việc bội chi ngân sách, với số lượng tiền mặt lưu thông lớn, lạm phát
tăng nhanh. Để thích ứng với tình hình trên, ngày 06/03/1988 Hội đồng Bộ
trưởng nay là Chính phủ ban hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức NHNN

Việt Nam và hệ thống NH Việt Nam chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp.
NH ĐT&PT ĐN dưới sự điều tiết của Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam (NH ĐT&PT VN), mọi kế hoạch cân đối tín dụng của Ngân hàng
đều được NH ĐT&PT VN phê duyệt, thông báo cụ thể, NH ĐT&PT ĐN có
nhiệm vụ điện báo hàng ngày và định kỳ hoạt động kinh doanh về NH
ĐT&PT VN.
Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động thường xuyên, chủ yếu là
nhận tiền gửi của khách hàng và có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng nguồn
vốn đó để cho vay với mục đích kinh doanh có lãi và giúp đỡ về vốn với các
tổ chức kinh tế trên địa bàn quận góp phần mở rộng đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh trên địa bàn quận nói riêng vàThành phố Đà Nẵng nói chung. Với
tổng số trên 100 cán bộ công nhân viên, ngân hàng tổ chức các phòng ban
như:phòng kế toán, phồng nguồn vốn,phòng tín dụng, phồng thanh toán quốc
tế, phòng giao dịch...các bộ phận này được chuyên môn hoá theo nghiệp vụ
ngân hàng nhưng nó luôn có quan hệ với nhau tạo điếu kiện nâng cao hiệu
quả hoạt động ngân hàng.
Nhìn chung với sự cố gắng của mình, Ngân hàng luôn khơi tăng nguồn
vốn tín dụng, phát triển cơ câu nguồn tiền gửi lãi suất thấp tạo điều kiện phát
triển kinh tế và kinh doanh ngân hàng. Tăng cường nguồn thu tiền mặt đáp
ứng kịp thời và thoả mãn nhu cầu cho tiền của doanh nghiệp, tư nhân cá thể.
Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt kịp thời, chính xác góp phần tăng tốc
độ chu chuyển vốn cho nền kinh tế. Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, tạo môi
trường phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
II. MỘT SỐ QUI ĐỊNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DNVVN.
1. Khái niệm: Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp là loại cho vay có
thời hạn dưới 1 năm nhằm bổ sung nhu câù vốn lưu động phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh .
2. Đối tượng cho vay: là những vật tư, hàng hoá, các chi phí cấu thành
nên giá thành sản phẩm hoặc giá mua
3. Mức cho vay:

Do hai bên thoả thuận căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, khả năng đáp
ứng vốn của ngân hàng.
4. Cách thu nợ gốc và lãi: thường thu nợ 1 lần nếu thời hạn vay vốn là
ngắn và thu theo định kỳ tháng nếu thời hạn vay tương đối dài. Thu lãi theo
định kỳ có lợi hơn so với thu lãi một lần và thu lãi kiểu này tạo ra những dòng
luân chuyển có tính chất thường xuyên giúp cho công tác cố định vốn của
ngân hàng dễ dàng hơn và ngân hàng không thể theo dõi thường xuyên tất cả
các khảon vay nên điều này giúp ngân hàng sớm phát hiện được những khoản
cho vay không bình thường
III. QUI TRÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ CHO VAY NGẮN HẠN
ĐỐI VỚI DNVVN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ
NẴNG.
Error: Reference source not foundB. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG.
I KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA NH ĐT&PT
ĐÀ NẴNG.
1. Tình hình huy động vốn qua hai năm 2003, 2004.
Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu của bất cứ một tổ chức kinh tế nào
muốn tồn tại và phát triển. Nguồn vốn là nhân tố vững chắc góp phần quyết
định quy mô hoạt động kinh doanh từ đó quyết định đến hiệu quả kinh doanh
của các tổ chức. Đối với Ngân hàng, nguồn vốn của NHTM chính là nguồn
hình thành nên tài sản Có để đầu tư vào hoạt động kinh doanh của từng ngân
hàng. Tình hình nguồn vốn và huy động vốn của NH ĐT&PT Đà Nẵng trong
hai năm qua được thể hiện trong bảng báo cáo sau: (Bảng 1).
Bảng 1: Tình hình huy động vốn qua hai năm 2003, 2004.
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004
Chênh lệch
ST TL(%)

1. Vốn huy động 1.488 1.789 319 26,28
- Tiền gửi dân cư 1.033 1.299 266 25,57
- Tiền gửi tổ chức KT 455 580 125 27,47
- Ngắn hạn 967 1.127 160 16,55
- Trung hạn 521 752 231 44,34
2. Vốn vay NHTƯ+Uỷ thác 545 845 300 55,05
Tổng 2.033 2.724 691 33,99
( Nguồn:Bảng cân đối kế toán )
Qua bảng số liệu cho thấy, năm 2004 tổng nguồn vốn của chi nhánh đạt
2.724 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn huy động tăng 319 tỷ đồng. Sở dĩ nguồn
vốn huy động tăng trưởng mạnh là do trong bối cảnh cạnh tranh Ngân hàng đã
bám sát tình hình thực tế trên địa bàn, linh hoạt trong chính sách lãi suất,
được khách hàng tín nhiệm.
- Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh cho thấy, nguồn huy
động từ các tổ chức kinh tế năm 2004 tăng 27,47% so với cùng kỳ năm 2003.
Sự tăng lên của nguồn vốn này phần lớn là từ nguồn tiền gửi không kỳ hạn
còn nguồn tiên gửi có kỳ là không đáng kể. Có được điều này là do những
năm vừa qua NH ĐT&PT Đà Nẵng đã thiết lập mối quan hệ đáng tin cậy với
Giải ngân
Cán bộ tín
dụng tiến
hành kiểm
tra
các doanh nghiệp trên địa bàn nên ngày càng có nhièu doanh nghiệp tham gia
giao dịch với Ngân hàng và luôn có số dư lớn. Đây là một lợi thế trong hoạt
động kinh doanh hiện nay của chi nhánh do nguồn tiền gửi không kỳ hạn
được xem là nguồn vốn có chi phí thấp nhất . Tuy nhiên, tính chất nguồn vốn
này mức độ ổn định không cao, thường tuỳ vào nhu cầu sử dụng vốn của các
tổ chức trong nền kinh tế và chi phí cho việc sử lý các giao dịch tiền gửi
không kỳ hạn ngay càng cao.

- Tiền gửi tiết dân cư năm 2004 làü tăng 25,57% so với năm 2003 .Vì
Ngân hàng đã có những biện pháp thích đáng để khơi dậy nguồn vốn tai chỗ
nhằm đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của NH.
- Nguồn huy động ngắn hạn và dài hạn có tăng nhưng chủ yếu là nguồn
dài hạn còn nguồn ngắn hạn tăng không đấng kể :nguồn ngắn hạn năm 2004
đạt 1.1274 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 16,55%.
Nguồn vốn huy động qua 2 năm có tăng không đáp ứng nhu cầu vay
vốn ngày càng tăng của khách hàng nên bên cạnh nguồn vốn huy động được
NH ĐT&PT Đà Nẵng phải vay vốn điều từ NHTƯ vào năm 2003 là 545 tỷ
đồng, năm 2004 là 845 tỷ đồng.
Nhìn chung, năm 2004 đánh dấu một năm khá thành công của NH
ĐT&PT Đà Nẵng trong công tác huy động vốn, tuy nhiên so với quy mô hoạt
động ngày càng mở rộng, nguồn vốn huy động tại chỗù vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu vốn vay của các đơn vị, tổ chức trên đại bàn. Trong năm tới,
Ban lãnh đạo chi nhánh sẽ có những biện pháp tăng cường nguồn huy động,
điều chỉnh cơ cấu huy động để đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh
doanh của chi nhánh trong những năm tới.
2. Tình hình cho vay chung tại NH ĐT&PT Đà Nẵng .
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của Thành phố, nhu cầu vốn của các
tổ chức, cá nhân ngày càng tăng. Hoà nhịp với sự tăng trưởng đó, NH
ĐT&PT Đà Nẵng đã chủ trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự
án phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín
dụng. Chính vì vậy năm 2004, doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ bình quân tại
chi nhánh đã có bước tăng trưởng lớn.
Bảng 2: Tình hình biến động chung về hoạt động cho vay
qua 2 năm 2003, 2004.
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ Tiêu
Năm 2003 Năm 2004 Chênh lệch
ST % ST % ST TL(%)

1. Doanh số cho vay 2.867 3.633 766 26,71
2. Doanh số thu nợ 2.584 3.248 664 25,70
3. Dư nợ bình quân 1.653 2.006 353 21,36
4. Nợ quá hạn bình 24 31 7 29,17
quân
5. Tỉ lệ NQHbq/DNbq 1,45 1,54 0,09 6,21
(Nguồn: Trích báo cáo dư nợ )
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của Thành phố, nhu cầu vốn của
các tổ chức, cá nhân ngày càng tăng. Hoà nhịp với sự tăng trưởng đó, NH
ĐT&PT Đà Nẵng đã chủ trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự
án phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín
dụng. Chính vì vậy năm 2004, doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ bình quân tại
chi nhánh đã có bước tăng trưởng .
Nhờ vào những biện pháp tích cực trong chính sách lãi suất, mở rộng
tín dụng nên DSCV năm 2004 tại chi nhánh tăng 26,71% so với năm 2003.
Cùng với sự gia tăng DSCV , DSTN năm 2004 tăng 26,71% so với năm 2003
cho thấy công tác thu hồi nợ của CN đang diễn ra thuận .
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ của các ngành nghề, các
thành phần kinh tế trên địa bàn cũng đều có bước tăng trưởng tốt, từ đó công
tác tín dụng tại chi nhánh cũng có bước phát triển đáng kể. Trong năm 2004,
DNBQ đạt mức 2006 tỷ đồng, tăng 21,36% với năm 2003.
Nợ quá hạn năm 2004 tăng mạnh 34,89% so với năm 2003 nguyên
nhân là do hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp không hiệu quả, Ngân
hàng chưa nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên không
phát hiện kịp thời để có biện pháp giải quyết kịp thời NQH có tỉ lệ 1,54% là
không tốt vì vậy cán bộ tín dụng cùng ban lãnh đạo nhanh chóng thu hồi nợ,
hạn chế NQH phát sinh thêm.
3. Kết quả kinh doanh.
Với sự nỗ lực, cố gắng không ngừng của toàn bộ đội ngũ Cán bộ Công
nhân viên trong những năm qua, NH ĐT&PT Đà Nẵng đã đạt được nhiều kết

quả tốt trong hoạt động kinh doanh.
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của NH ĐT&PT Đà Nẵng
năm 2003, 2004.
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm2004
Chênh lệch
ST TL(%)
I. Thu nhập 136.641 152.355 15.714 11,50
1 Thu lãi cho vay 131.116 144.228 13.112 10,00
2.Thu phí dịch vụ 4.723 6.801 2.078 44,00
3. Thu khác 802 1.326 524 65,34
II. Chi phí 121.201 134.533 13.332 11,00
1. Chi trả lãi 110.479 121.527 11.048 10,00
2. Chi khác 10.722 13.006 2.284 21,30
III. Lợi nhuận (3) = (1) - (2) 15.440 17.822 2.382 15,43
(Nguồn: Báo cáo thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh)
Qua bảng trên cho thấy lợi nhuận kinh doanh năm 2004 đã tăng trưởng
khá mạnh, do hoạt động kinh doanh hiệu quả tổng thu nhập tăng11,50% làm
lợi nhuận giảm tăng 15,43% tương ứng 2.382 tỷ đồng, từ đó phần nào ảnh
hưởng tốt đến hoạt động của chi nhánh trong năm vừa qua. Mặc dù chỉ tiêu
lợi nhuận vẫn chưa đánh giá được thực chất tình hình hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng nhưng nó cũng nói lên đựoc đến chất lượng dịch vụ của Ngân
hàng.
Qua tìm hiểu khái quát về tình hình chung của NH ĐT&PT Đà Nẵng
trong năm 2003-2004, với những thuận lợi như vậy trong năm hy vọng trong
năm tới chi nhánh sẽ tiếp tục duy trì, đạt được những thành tích lớn và phát
huy những thế mạnh vốn có để NH ĐT&PT Đà Nẵng ngày càng là chỗ dựa
vững chắc và đáng tin cậy của các doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn.
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNVVN TẠI TP ĐÀ
NẴNG.

Thành phố Đà Nẵng - một trong 4 đô thị lớn nhất cả nước, là trung tâm
kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá, xã hội và là cửa ngõ giao thương quốc
tế của cả khu vực Miền Trung-Tây Nguyên. Trong những năm qua, bộ mặt
thành phố đã có nhiều thay đổi với nhiều thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh
vực.
Trong năm 2003 vừa qua, tốc độ tăng trưởng GDP toàn thành phố đạt
đến 48.325 tỷ đồng, tăng 12,62% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, GTSX
ngành công nghiệp đạt 5.858 tỷ đồng, tăng 21,67%; GTSX ngành Nông-Lâm
Thuỷ sản tăng 5,86%; tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt 5.881 tỷ đồng,
tăng 8,59%; kim ngạch XNK đạt 328,7 triệu USD, tăng 16,56%; vốn đầu tư
phát triển tăng 14,65%; thu nhập bình quân đầu người đạt 980
USD/người/năm... (Báo cáo tình hình KT-XH TP Đà Nẵng Năm 2003, Cục
Thống Kê TP Đà Nẵng). Hàng trăm dự án, công trình trọng điểm phục vụ
công cuộc phát triển chỉnh trang đô thị từ Hầm đường bộ qua Đèo Hải Vân
(quy mô nhất khu vực Đông Nam Á), các tuyến đường Nguyễn Tất Thành,
Phạm Văn Đồng, Bạch Đằng,... dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Dung Quốc,
đến mở rộng sân bay Quốc tế, nâng cấp Cảng Tiên Sa, công trình cầu Tuyên
Sơn, Cầu Thuận Phước... đã đang và sẽ tiếp tục hoàn thành.
Năm 2004 , Thành phố Đà Nẵng đã chứng kiến nhiều sự kiện chính trị
quan trọng trong quá trình đổi mới, phát triển của mình: Được Chính phủ
chính thức công nhận Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại 1 cấp quốc gia, tổ
chức thành công cuộc họp Nội Các giữa Chính phủ và các Bộ ngành hai nước
Việt Nam-Thái Lan, là Thành phố duy nhất nước ta được chọn tham gia
chương trình liên kết 9 Thành phố Châu Á trở thành thành phố kiểu mẫu do
Trung tâm Thông tin Đô thị (AUICK) Nhật Bản khởi xướng... Với tất cả
những thành tựu to lớn trên không thể không kể đến vai trò đóng góp của các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nói chung cũng như vai trò của các
Doanh nghiệp Vừa và nhỏ nói riêng.
Kể từ khi chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành
chính, Thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung

Ương năm 1997 đã tạo điều kiện cho các DNVVN hoạt động và phát triển.
Hoạt động của các DNVVN thành phố chủ yếu trong ngành Thương mại, hoạt
động trên tất cả các lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, đại lý, dịch vụ, tiêu thụ sản
phẩm các mặt hàng đa dạng phong phú, đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn
của người dân trong thành phố. Ngoài ra, một số các DNVVN có thị trường
tiêu thụ vươn tới các địa phương khác hay tham gia xuất khẩu...
Có thể nói, với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp ra đời năm
2000, nguồn vốn đầu tư vào các DNVVN ngày càng tăng mạnh, các DNVVN
ngày càng có điều kiện khẳng định được vai trò to lớn của mình trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
III. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NH ĐT&PT ĐÀ NẴNG TRONG THỜI
GIAN QUA
1. Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với DNVVN nói chung .
Bảng 4:Tình hình cho vay ngắn hạn dối với DNVVN năm 2003, 2004.
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003 Năm 2004 Chênh lệch
ST % ST % ST TL(%)
1. Doanh số cho vay 372.422 100 388.542 100 16.120 4,33
- DNVVN 35.251 9,47 37.528 9,66 2.277 6,46
2. Doanh số thu nợ 366.758 100 321.245 100 -45.513 -12,41
- DNVVN 20.499 5,59 21.624 6,73 1.125 5.49
3. Dư nợ bình quân 191.554 100 247.541 100 55.987 29,23
- DNVVN 16.480 8,60 16.992 6,86 512 3,11
4. Nợ QH bình quân 3.160 4.768 1.608 50,89
- DNVVN 96 70 -26 -8,57
5. Tỉ lệ NQHbq/DNbq 1,65 2,33
- DNVVN 0,56 0,41
(Nguồn: Trích báo cáo dư nợ )

Hiện nay, nhu cầu vay vốn của các DNVVN để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh là rất lớn, tuy nhiên xuất phát từ thực trạng chung của ác
DNVVN hiện nay như: hầu hết các DNVVN mới thành lập, vốn kinh doanh
thấp,... (Số liệu gần đây của Sở Kế hoạch-Đầu tư cho biết: quy mô vốn bình
quân của một DNVVV là rất thấp: DNTN là 388,2 triệu đồng, Công ty TNHH
là 1.261,9 triệu đồng, CTCP là 3.233,3 triệu đồng.). Ngoài ra, việc sử dụng
vốn kém hiệu quả, kinh nghiệm chưa có, tính khả thi của phương án sản xuất
kinh doanh không cao, hầu hết các DNVVN không đủ tài sản đảm bảo khi
vay vốn... dẫn đến không ít các DNVVN làm ăn thua lỗ, phá sản hay giải
thể... Tất cả các nguyên nhân trên có thể giải thích tại sao doanh số cho vay
ngắn hạn đối với loại hình DNVVN chiếm tỷ trọng thấp và tốc độ tăng trưởng
không cao. DSCV năm 2004 đạt mức 37.528 triệu đồng với tốc độ tăng
trưởng là 4,33%.
Về phía các ngân hàng, hầu như đa số các ngân hàng đều đặt mục tiêu
an toàn trong cho vay cao hơn là mục tiêu tăng trưởng hoạt động tín dụng. Do
đó yêu cầu thu hồi vốn nhanh, đúng tiến độ kéo theo yêu cầu chặc chẽ, khắc
khe trong điều kiện vay vốn, bảo đảm tiền vay... cũng làm cho hoạt động tín
dụng đối với loại hình doanh nghiệp này có phần hạn chế. Hơn nữa, cơ cấu
cho vay truyền thống của hầu hết các NHTM chủ yếu tập trung vào các doanh
nghiệp lớn, đặc biệt là các Doanh nghiệp Nhà nước. Ví như các NHTM quốc
doanh, do bản thân là của Nhà nước, lại ra đời từ rất sớm ngay khi đất nước
còn chưa tiến hành đổi mới nên khách hàng truyền thống của các ngân hàng
này các DNNN là điều tất yếu. NH ĐT&PT Đà Nẵng là một NHTM quốc
doanh nên số dư nợ của DNNN chiếm hơn 70% tổng dư nợ cho vay. Điều này
chứng tỏ định hướng đầu tư cúa NH tập trung chủ yếu vào DNNN Tuy nhiên,
hướng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay thực hiện bình
đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế với nhiều chính
sách hỗ trợ các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh... nên đa phần các NHTM
mà điển hình là NH ĐT&PT Đà Nẵng đã có nhiều nỗ lực vượt qua những
khó khăn để chuyển hướng hoạt động sang phục vụ các DNVVN. Mặc dù cho

vay với loại hình DNVVN có xuất hiện tình trạng NQH nhưng bằng khả năng

×