Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Gia đình muôn thuở vẫn là nơi sinh thành, tổ ấm thân thương nhất của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.74 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình mn thuở vẫn là nơi sinh thành, tổ ấm thân thương nhất của con
người. Đó là lĩnh vực mà ai cũng có thể tham gia với tư cách là người trong
cuộc. Mặt khác, đó cũng là lĩnh vực tinh tế, phong phú, phức tạp, đầy mâu
thuẫn và biến động. Gia đình là một xã hội thu nhỏ, trong đó hiện diện đầy đủ
các quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ văn hóa,
quan hệ tổ chức, v.v… Những biến chuyển xã hội đã và đang dội vào gia đình
trên mọi phương diện và đưa đến những hệ quả đa chiều. Thiết chế có tính bền
vững này cũng đang vận động, đổi mới và thích ứng với nhu cầu của thời đại.
Như chúng ta cũng đã biết để có một xã hội tốt thì pháp luật cần phải hồn
chỉnh và phù hợp để toàn xã hội hướng tới. Mà ngành Luật Hơn nhân và gia
đình là một ngành luật gắn liền với quyền nhân thân của mỗi công dân, điều
chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình - một nhóm quan hệ phổ biến, kèm theo đó
là nhiều vấn đề phức tạp như: Tài sản chung vợ chồng, quyền thừa kế, nghĩa vụ
đối với con cái, ... Với tính chất thiết thực và phức tạp của quan hệ hôn nhân và
gia đình thì Luật Hơn nhân và gia đình ra đời và luôn được nhà nước quan tâm
và sửa đổi, hoàn thiện sao cho ngày một tiến bộ và phù hợp hơn với thời đại.
Năm 1959, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình với
những quy định dựa trên nguyên tắc tiến bộ, tự do, bình đẳng, một vợ một
chồng. Đây là một mốc son lịch sử, một phát súng đầu tiên tiến công vào những
quan niệm lạc hậu của chế độ trọng nam khinh nữ, hôn nhân lạc hậu và đặt
những viên gạch đầu tiên xây dựng một chế độ hôn nhân mới tự nguyện bình
đẳng.
Tiếp theo đó là sự ra đời của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 và 2000
giúp cho Luật Hơn nhân và gia đình hồn thiện hơn phù hợp với sự phát triển
của đất nước, của con người, của thời đại. Nhìn chung Luật Hơn nhân và gia
đình đã khá hồn chỉnh quy định một cách hệ thống đầy đủ, rất gần gũi thiết
thực cho cuộc sống xã hội. Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì
việc đổi mới và hồn thiện pháp luật hơn nhân và gia đình là một nhu cầu tất
u và khách quan. Tồn cầu hóa là một xu thế khách quan, có tác động mạnh
mẽ đến mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi cá nhân con người. Trong bối cảnh tồn


cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề hôn nhân và xây dựng
văn hố gia đình càng cần phải được quan tâm hơn bao giờ hết, tạo nền tảng
vững chắc cho xây dựng đất nước bền vững. Để có một xã hội ln tươi đẹp và
phồn thịnh thì xã hội ấy phải phát triển theo định hướng của pháp luật.

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trước tồn cầu hố, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cũng đã diễn ra
nhưng chủ yếu cịn mang tính cá biệt và tự phát. Giờ đây, tình hình đã thay đổi
khi tồn cầu hố xuất hiện, đặc biệt là tồn cầu hố đang phát triển mạnh mẽ
như trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công
nghệ thông tin, đặc biệt là với sự xuất hiện của mạng thơng tin tồn cầu
(Internet), thế giới dường như được thu nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia
cũng trở nên mỏng manh và chỉ mang tính tương đối. Tồn cầu hố đã tạo cơ
hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết nhau hơn. Qua đó, mọi dân tộc đều
có thể "cho" và "nhận", nghĩa là họ có thể học tập, tiếp thu những giá trị, tinh
hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hoá của chính dân tộc mình. Bên
cạnh đó đu rất khơng vui là nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia
đình Việt Nam như hiếu thảo, thủy chung, kính trên nhường dưới...đang có
biểu hiện xuống cấp. Những xung đột giữa các thế hệ về lối sống, việc chăm
sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tệ nạn xã
hội như ma túy, mại dâm, tai họa HIV/AIDS v.v... đang tấn cơng vào các gia
đình. Bạo hành trong gia đình, tình trạng bn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị
xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều
hướng gia tăng. Thành quả kinh tế đạt được là rất quan trọng và to lớn, đời
sống nhân dân được cải thiện, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thay đổi lớn trong
10 năm qua, nhưng về mặt xã hội thì đáng lo ngại, tệ nạn xã hội gia tăng,
truyền thống gia đình, nếp sống văn hóa trong gia đình, làng xóm, dịng họ

đang xuống cấp đến mức báo động
1. KẾT HÔN
Ở mỗi một thời đại, con người quan niệm về tình u ở nhiều góc cạnh khác
nhau. Hôn nhân hạnh phúc là điều mà ai trong tình yêu cũng đều muốn vươn
tới. Nhưng trong xu thế tồn cầu hóa do phong cách, lối sống ồn ào, gấp gáp
chạy đua với xu thế phát triển của xã hội đã tác động lên cả quan niệm "yêu
nhanh, sống thống",… Hơn nhân giờ đây có lẽ khơng phải là thước đo giá trị
của tình yêu. Những hiện tượng như sống thử, ngoại tình, yêu qua mạng, độc
thân sau hôn nhân và "tự do" trong hôn nhân,… giờ đây khơng cịn xa lạ nữa
với cuộc sống hiện nay. Nhiều nam nữ gặp nhau, chỉ qua vài ba câu chuyện,
thấy thích nhau là có thể dọn về ở cùng phịng với nhau như vợ chồng.

2


Hiện tượng này xuất hiện nhiều tại các khu nhà trọ sinh viên, đặc biệt tại các
khu công nghiệp, nơi nhiều công nhân sinh sống. Tại đây, thật dễ dàng bắt gặp
những "đôi uyên ương" ăn chung, ngủ chung... dưới một mái nhà. Tất tần tật
mọi sinh hoạt của họ hệt như những cặp vợ chồng thực sự, có điều chưa cơng
nhận kết hơn. Những người thích phiêu lưu này đang ngày đêm thực hiện một
hợp đồng "miệng": Sống thử (mà như thật), nếu thấy "khơng hợp" thì "đường
anh, anh đi; đường em, em đi"! Thật vơ tư, sịng phẳng(!).
Bên cạnh đó xu thế tồn cầu hóa ngày nay cũng tác động một cách tích cực đến
tình u và hơn nhân. Xu thế tồn cầu hóa đã góp phần rất lớn giải phóng tình
u con người khỏi lễ giáo phong kiến và những hủ tục lạc hậu. Nhờ sự phát
triển, phổ biến rộng rãi của các phương tiện truyền thông,… ngày nay thanh
niên nam nữ, các cặp uyên ương thương u nhau khơng cịn rơi vào tình cảnh
“chia un rẽ thúy” bởi lễ giáo, bởi quan niệm lạc hậu môn đăng hộ đối, xính
lễ,… hay tình trạng “bán mình chuộc cha” như trước. Đồng thời quan niệm về
tình yêu và hơn nhân trong xã hội cũng dần dần có những bước phát triển

thống hơn. Người ta thường nói tình u không kể tuổi tác, không phân sang
hèn, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Thế nhưng ngày nay trong thời
kỳ đổi mới quan niệm đó đang dần trở thành sự thật, tuy điều này đã được quy
định rõ trong Điều 63 và Điều 64 hiến pháp năm 1992 và luật hơn nhân và gia
đình năm 2000 (Điều 9. Điều kiện kết hôn:Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân
theo các điều kiện sau đây:1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi
trở lên;2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào
được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở; 3. Việc
kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều
10 của Luật này.) nhưng trên thực tế nó vẫn chưa có tính khả thi cho đến những
năm gần đây khi đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng thì những điều này mới
dần dần đi vào cuộc sống và thay thế những quan niệm lạc hậu trước kia. Tình
u, và hơn nhân, người ta đến với nhau dựa trên cơ sở pháp luật khơng cịn có
sự ngăn cản từ tuổi tác, sang hèn, gia đình,…
*,Trên thế giới tỉ lệ người đồng tính khá cao. Ở nước ta cũng vậy, khơng thể
nói rằng nó khơng có, sự thực nó đang hiện hữu trong xã hội, và chúng ta phải
thừa nhận điều. Những người đồng tính có ai muốn mình như thế, tất cả họ sinh
ra đều là do bẩn sinh mà có, đó là điều hết sức bình thường hết sức tự nhiên, họ
đâu có tội gì. Biết bao năm nay chỉ vì mặt mũi, sĩ diện gia đình, thành kiến xã
hội mà họ khơng giám sống thật với bản thân của mình, với chính mình. Một
người đồng tính nếu để mọi người xung quanh biết được thì anh ta khó có thể

3


sống hịa nhập, ln mặc cảm và khổ tâm. Chính vì vậy mà họ phải ln che
giấu, sống khép mình, lúc nào cũng lo sợ một ngày nào đó mọi người sẽ biết
được điều này. Thử hỏi một người mẹ sinh ra một đứa con chẳng may đứa con
ấy bị tật nguyền thì người mẹ có lỗi hay người con có lỗi, ai buồn hơn ai? Cha
mẹ gia đình khơng thơng cảm thì thơi cịn trách móc, nghiệt ngã với đứa con

ấy, nhục mạ đứa con ấy. Đồng tính luyến ái thì thời nào cũng có nhưng ngày
xưa bởi xã hội quá khắt khe nên người ta không giám bộc lộ ra cũng bao nhiêu
người, cũng lấy vợ đẻ con nhưng có hạnh phúc gì đâu, gia đình ấy có yên ấm
hạnh phúc? Nhưng hiện nay trong xu thế hội nhập tồn cầu hóa, xã hội cũng
dần cởi mở, những người đồng tính có cơ hội để sống thật với chính mình, thiết
nghĩ pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hơn nhân gia đình nói riêng
cần có những sửa đổi phù hợp với su thế này, để những người đồng tính có cơ
hội hịa nhập với xã hội, thực hiện quyền con người của mình.
2. QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
2.1."Cặp bồ" - Ngơn từ khơng cịn xa lạ
Tình u sau hơn nhân đã được nhìn nhận "dễ dàng" hơn, giữa vợ chồng xuất
hiện những mối quan hệ "ngồi luồng". Trên danh nghĩa, họ chỉ cịn là trách
nhiệm, nghĩa vụ với gia đình nhưng thực chất tình cảm của họ lại dành cho
người khác. Hiện tượng "cặp bồ" nảy sinh phổ biến. "bồ", hay "người tình" là
những khái niệm chỉ một phía đối tượng đó. Họ hồn tồn khơng có mối quan
hệ ràng buộc về tuổi tác, hơn nhân, pháp luật, đạo đức mà giữa họ chỉ đơn
thuần là mối quan hệ yêu đương. Mối quan hệ này diễn ra rất nhanh, có thể chỉ
trong một tuần họ có thể làm trọn những việc mà các đơi lứa trước đây phải
thực hiện trong vài ba năm.
Những người căng thẳng hay nhàn rỗi thường tìm đến internet với mục đích
đơn giản là tán gẫu, giải trí. Bên cạnh đó, cũng có một số người qua internet để
kết bạn, giao lưu gặp gỡ tìm những người mà họ cho là đồng cảm với mình để
chia sẻ, giãi bày tâm sự... Các mối quan hệ qua mạng dần trở nên gần gũi, như
có sức hút cuốn họ vào những mối quan hệ ảo đó. Họ họ say mê trị chuyện,
bộc lộ tâm tư, thậm chí cả những suy nghĩ thầm kín mà đến cả người đầu gối
tay ấp của mình cũng chưa từng được nghe. Từ đó, họ trở nên chán ghét người
bạn đời của mình, chán cuộc sống gia đình hiện tại, hạnh phúc dần dần rời xa
họ và cuối cùng là cuộc hôn nhân đổ vỡ.
2.2.Độc thân - Trào lưu sau hôn nhân


4


Họ đã kết hôn, đang sống cùng nhau nhưng vẫn duy trì những mảnh trời riêng,
phong cách và lối sống "độc thân" trước kia.
Có cặp sau khi kết hơn lại không sống cùng nhau dưới một mái nhà dù họ vẫn
yêu nhau và vẫn thường xuyên gặp nhau. Họ cho rằng cuộc sống tách rời một
phần do hạn chế về điều kiện thực tế, một phần là để tăng thêm tình cảm của
mình, càng xa thì càng nhớ, tình cảm càng mặn nồng, và để tạo cảm giác mới
mẻ. Cặp khác thì thường xun xa nhau vì hồn cảnh cơng việc, mỗi người mỗi
nơi, hay vì hồn cảnh kinh tế...họ bắt buộc phải chấp nhận cuộc sống "chồng
Nam- vợ Bắc"...
2.3."Tự do" trong hơn nhân - "mơ hình" gia đình mới
Nhiều cặp vợ chồng sau một vài năm kết hôn hay trước khi quyết định kết hôn
sẽ thỏa thuận với nhau một điều đặc biệt - giữ trọn tình yêu cho nhau nhưng
không ép nhau chung thủy. Hai người vẫn sống với nhau trên tình nghĩa vợ
chồng. Bên cạnh đó, họ vẫn sẵn lòng dành cho nhau những khoảng trời riêng,
kể cả trong quan hệ luyến ái. Họ không muốn ràng buộc nhau trong sự dối trá.
Các đôi vợ chồng không tước đoạt tự do của nhau, không cố điều khiển nhau,
đồng thời khơng từ bỏ cá tính của mình, khơng hy sinh các mối quan tâm của
mình. Họ chấp thuận nhau trong cách sống chia sẻ cả về về mặt thể xác lẫn tinh
thần với một người bên ngoài.
Mặt khác, họ muốn khẳng định mình hơn trong đời sống tình dục, muốn khám
phá những chân trời dục tình mới, tìm kiếm sự cân bằng, giúp duy trì cuộc hơn
nhân hạnh phúc và bền vững hơn. Họ không lừa dối nhau và thỏa mãn về nhau
nhưng họ cũng không đảm bảo rằng tình cảm vợ chồng được giữ trọn vẹn. Khi
họ đã gặp một bạn tình hấp dẫn, bị một cú sét ái tình thì chính họ cũng khơng
tránh được khỏi dằn vặt bởi cảm giác có lỗi đã phản bội với người bạn đời của
mình. Cuộc sống gia đình trở nên tẻ nhạt và cuối cùng là hôn nhân đổ vỡ.
2.4.Vợ chồng trên "danh nghĩa"

Đa phần các cặp vợ chồng này thuộc tầng lớp trí thức, có địa vị trong xã hội.
Gia đình họ là hình mẫu mà nhiều người mơ ước. Thế nên khi đã chán ghét
nhau, họ vẫn cố duy trì cái vỏ ngồi “hạnh phúc” của mình trên danh nghĩa.
Nhìn bề ngồi ai cũng nghĩ gia đình họ hạnh phúc. Họ có mặt và sánh vai bên
nhau trong tất cả các cuộc gặp mặt của hai bên. Trên thực tế, họ đã ly thân và
sống với nhau như những kẻ xa lạ, ai làm việc riêng của người ấy và sự ràng
buộc duy nhất chính là những đứa con. Họ vẫn có trách nhiệm với gia đình
nhưng khơng ràng buộc về tình cảm với nhau. Mỗi người có thể đang duy trì

5


những mối quan hệ tình cảm khác mà khơng mắc phải sự phản đối của người
kia. Gia đình kiểu này thường vẫn tồn tại vì họ sẽ khơng ly hơn, cố gắng tạo ra
một cuộc sống hạnh phúc giả tạo nhằm giữ thế diện cho cả hai người.
Bên cạnh đó với xu thế tồn cầu hóa, quan hệ giữa vợ chồng cũng có những
biến đổi theo hướng tích cực. Như đã nói mặc dù đã được quy định trong pháp
luật hơn nhân và gia đình nhưng trước đây những quy định này vẫn chỉ nằm
trên giấy, ngày nay nó đã đi vào thực tiễn len lỏi vào đời sống xã hội, vào cuộc
sống của mỗi gia đình. Người phụ nữ ngày nay khơng cịn bị gị bó như ngày
xưa, họ tham gia vào mọi hoạt động từ lao động, sản xuất, chính trị, giải trí…
và trình độ được nâng cao, có địa vị ngang bằng với nam giới, rất nhiều người
phụ nữ thành cơng, xuất sắc trong xã hội. Chính vì thế quan niệm bình đẳng
giữa vợ chồng trong gia đình khơng cịn là một khái niệm xa lạ, lạ lẫm gì nữa.
Nạn gia trưởng, bạo hành gia đình bị xã hội và báo chí lên án mạnh mẽ, qua đó
giảm thiểu tệ nạn này. Quan niệm người chồng là “chúa tể” trong gia đình
khong cịn phù hợp trong xu thế hội nhập toàn cầu ngày nay. Người mẹ ngày
nay phần lớn đi làm kiếm tiền nuôi con cái như người cha. Cách đối xử bình
đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng là yêu cầu của thời đại, đồng thời là tâm gương
hàng ngày diễn ra trước mắt con cái.

3. QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
Cần tạo điều kiện để con cái biết ơn, thương yêu, gần gũi cả cha và mẹ. Cùng
với quan niệm gia trưởng độc đốn, nhiều gia đình, do thái độ khơng đúng của
người cha khiến con cái yêu thương mẹ, mà rất sợ cha. Chúng tìm thấy sự che
chở ở người mẹ, mà không phải ở người cha hay ngược lại. Cũng với quan
niệm lạc hậu trọng nam khinh nữ, có những gia đình do sự đối xử khơng bình
đẳng giữa các con, đặc biệt giữa con trai và con gái, con cả và con út cũng để
lại những ấn tượng không tốt đối với con cái, sự so đo tị nạnh và ghen ghét
giữa anh em với nhau ngay trong một gia đình. Đó là lỗi tại cha mẹ. Nhưng
ngày nay trong xu thế tồn cầu hóa những quan niệm đó đang dần dần bị loại
bỏ khỏi đời sống gia đình đồng thời cũng nảy sinh thêm những bất cập đòi hỏi
sự thay đổi, vào cuộc để điều chỉnh từ phía pháp luật và xã hội:
+, Tôn trọng quyền tự do dân chủ cá nhân là điều luật pháp bảo vệ và địi hỏi
mọi cơng dân phải chấp hành, là một nguyên tắc xây dựng gia đình hiện đại ở
nước ta. Nhưng sự địi hỏi về quyền, lợi ích, tự do cá nhân của con cái có
trường hợp đã bị đẩy lên thành chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, từ sự thiếu hiểu biết,

6


chín chắn của trẻ, từ việc chúng nghe theo lời bạn bè thúc đẩy, trong việc học
hành, chọn nghề, vui chơi, đòi tiền cha mẹ chi tiêu, đòi sắm những thứ đắt
tiền…Đặc biệt là sự lêu lổng, chơi bời, lười học, đi với bạn xấu, sa vào các tệ
nạn xã hội. Vì vậy, khơng thể có chủ nghĩa tự do tuyệt đối của con cái sống
trong gia đình. Cha mẹ cần giải thích, giáo dục cho con cái trong việc xử lý
đúng mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung của gia đình. Lợi ích,
nguyện vọng cá nhân chính đáng, khơng hại cho cái chung, cần được cha mẹ
chiếu cố và đáp ứng; Những lợi ích, phúc lợi chung lâu dài, hợp lý của gia đình
cần được mỗi cá nhân xem trọng và quan tâm góp sức.
Những người chủ gia đình, cha và mẹ phải “cầm cân nảy mực” trong việc điều

chỉnh, kết hợp đúng đắn giữa lợi ích cá nhân của mỗi thành viên với lợi ích
chung của gia đình. Điều quan trọng là cha mẹ phải thống nhất ý kiến với nhau
trong vấn đề này. Họ cần chú ý giáo dục con cái có ý thức tự giác và chấp nhận
sự cần thiết phải quan tâm đến lợi ích của gia đình, khi địi hỏi thỏa mãn quyền
lợi cá nhân của mình, từ việc nhỏ diễn ra hàng ngày mà không chỉ đối với việc
lớn, trọng đại. Điều này phải trở thành nếp suy nghĩ thường trực, việc làm tự
nhiên của mỗi thành viên trong gia đình.
+, Về xu hướng con cái muốn tách khỏi sự kiểm sốt của cha mẹ, mặc dù cịn
đi học, chưa trưởng thành. Đây là xu hướng bắt chước các gia đình phương
Tây. Con cái 15, 16 tuổi đã thích cha mẹ cho ở riêng, cha mẹ phải thuê căn hộ
riêng cho con sống và cung cấp tài chính để chúng ăn học, sinh hoạt.
Hiện nay, ở Việt Nam, đã có một số gia đình cơng chức cao cấp, nhà bn giàu
có th những căn hộ riêng cho con cái ở, mặc dù chúng còn đang học hành,
còn sống phụ thuộc vào cha mẹ về tài chính. Và, nhiều bậc cha mẹ đã bị “sốc”
trước những sự cố, như sự sa sút đạo đức, tư cách của con cái khi chúng trở
thành những kẻ hư hỏng, chơi bời và phạm tội.
Thật ra, việc thanh niên muốn sống độc lập, không sống chung với cha mẹ cũng
là điều dễ hiểu, vì chúng muốn tự tổ chức cuộc sống cá nhân theo ý mình.
Nhưng liệu chúng đã đủ bản lĩnh để sống riêng chưa, nhất là khi vẫn tiếp tục
phụ thuộc cha mẹ về tài chính?
Hiện nay, xu hướng kết hơn, lập gia đình muộn khiến một số con cái tuy trưởng
thành nhưng vẫn sống với cha mẹ, chưa tách được khi chưa xây dựng cuộc
sống gia đình riêng rẽ, tự chủ.
+/ Q trình xã hội hóa trẻ em, đó là q trình cá thể hóa con người, hình thành
nhân cách cá nhân, hình thành cái tơi riêng biệt. Ngày nay, một yêu cầu bức
xúc đặt ra là phải vun đắp cái tôi sáng tạo, độc lập suy nghĩ. Trước sự đòi hỏi

7



tăng lên của quyền tự quyết cá nhân, gia đình cần cố gắng thỏa mãn trong điều
kiện cho phép, tuy theo lứa tuổi. Bởi vì, điều đó ảnh hưởng đến sự hình thành
đầu óc suy nghĩ độc lập, sáng tạo của con cái cũng như lòng yêu thương, tin
cậy của chúng đối với cha mẹ.
Gia đình ngày nay đang đứng trước những đòi hỏi ngày càng cao của con cái,
do sự phát triển của xã hội thông tin. Thời đại ngày nay, có báo chí của trẻ em
bên cạnh báo chí của người lớn. Đồng thời, ti vi, máy tính điện tử, các phương
tiện thông tin đại chúng khác đã cung cấp nhiều thông tin đa dạng cho các lứa
tuổi. Trẻ em có thể xem các loại thơng tin, các câu chuyện trên truyền hình như
người lớn, dường như có sự hịa lẫn, khơng cịn sự phân biệt giữa tuổi trẻ và
tuổi trưởng thành. Sự bình đẳng trong các quan hệ xã hội đã ảnh hưởng đến sư
phân phối bình đẳng về các thơng tin. Đó là điều các bậc cha mẹ cần lưu ý
trong việc giáo dục con cái.
*, Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại gia
đình chứa nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi thay, ra đời từ nơi văn hóa
bản địa, được bảo lưu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong dân gian, gia đình truyền thống được coi là đại gia đình mà các thành
viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống. Trong gia đình này có
thể cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên: ông bà – cha mẹ – con cái mà người ta
quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại đồng đường". Kiểu gia đình này khá phổ biến và
tập trung nhiều nhất ở nông thôn Bắc Bộ. Nền kinh tế tiểu nông là cơ sở phát
sinh và tồn tại của nó. Về mặt tâm lý, người Việt Nam ln có xu hướng quần
tụ con cái xung quanh mình. Bởi thế, các đại gia đình cùng sống dưới một mái
nhà hoặc vài nhà kế nhau cũng là hình thức tổ chức gia đình phổ biến ở đơ thị.
Vào những năm 60 trở về trước ở Hà Nội kiểu đại gia này vẫn cịn thường thấy.
Gia đình truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao về tình cảm theo
huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ, phát huy
tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia đình có điều kiện
giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và giáo dưỡng thế hệ
trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà chúng ta cần kế

thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình này là ở chỗ trong
khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp thì cũng bảo trì ln cả những tập tục, tập
quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác, lối sống, thói quen
cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ: giữa ông
bà – các cháu, giữa mẹ chồng – nàng dâu… Bên cạnh việc duy trì được tinh

8


thần cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự
do của mỗi cá nhân. Trong điều kiện của xã hội hiện đại "1 ngày bằng 20 năm"
loại gia đình này có vẻ thiếu cơ động và chậm thích ứng. Điều này giải thích tại
sao số lượng gia đình truyền thống kiểu đại gia đình giảm đáng kể và khơng
cịn là khn mẫu của gia đình ngày nay.Gia đình Việt Nam ngày nay phần lớn
là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ
sinh ra. Vì thế những mối quan hệ trở nên lỏng lẻo, con cái, những thế hệ mới ít
có sự dạy dỗ tù phía gia dình, ơng bà,… nhưng trước đây. Thậm chí có tình
trạng con cái sau khi thành đạt đối sử với bố mẹ ở q khơng ra gì, trà đạp lên
nét đẹp truyền thống gia đình Việt ngàn đời nay. Thể hiện trong thời gian vừa
qua ở nước ta “đạo đức băng hoại” gây nhiều cảnh gia đình xào xáo, con cái
miệt thị cha mẹ, thậm chí là tranh giành một phần tài sản gây ra cảnh “nồi gia,
xáo thịt trong gia đình”. Gia đình biến thành nơi “tranh luận, tồ án gia đình”.
Điều này đang trở thành vấn nạn cho xã hội hiện tại, trước trào lưu du nhập
phong cách sống vội, chạy theo mức sống xa hoa, mà nó khơng phù hợp với
thuần phong mỹ tục của cấu trúc gia đình Việt Nam “Tam, Tứ đại đồng
đường”.
4. LY HƠN
Quyền tự do ly hơn ngày nay được pháp luật thừa nhận và khẳng định rõ ràng.
Nhiều cuộc ly hơn là chính đáng và cần thiết. Nhưng khi chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ của người chồng hay người vợ phát triển ở một số gia đình, lịng tự ái, sĩ

diện cá nhân tăng nên, khơng gì kìm hãm nổi đã đã dẫn đến những vụ ly hôn
vội vã. Họ có quan niệm lệch lạc, địi hỏi hạnh phúc cá nhân phải được bảo
đảm. Thực ra cái gọi là hạnh phúc riêng tư một mình mình hưởng thụ, khơng có
người thứ hai, thứ ba cùng chia sẻ thì liệu có cảm nhận được giá trị của hạnh
phúc đó khơng? Trừ khi đó là sự thỏa mãn cá nhân của một thú vui vật chất ích
kỷ, nhỏ mọn; cịn nói đến hạnh phúc, tình yêu, tình cảm liên quan đến cuộc
sống gia đình thì cần có sự chia sẻ hạnh phúc đó với người khác, là chồng, là
vợ, là con cái thì mới tận hưởng được cái gọi là hạnh phúc cá nhân. Đặc biệt,
khi hạnh phúc cá nhân của một người lại được xây dựng trên sự đau khổ của
người khác, gây thiệt thịi cho người khác, ví như các vụ ly hơn đều có liên
quan đến số phận con cái. Chúng có một tương lai phát triển mờ mịt, không
thuận lợi như các trẻ em khác.
a/ Khi các cặp vợ chồng đã ly hơn thì nảy sinh nhiều quan hệ phức tạp mới giữa
cha mẹ và con cái.

9


Gia đình sau ly hơn, con sống với cha thì khơng có mẹ, nếu sống với mẹ thì
khơng có cha. Chúng lớn lên thiếu sự săn sóc của người cha hoặc người mẹ và
đó là một sự thiếu hụt to lớn.
Trước tình trạng q nhiều cặp vợ chồng ly hơn, ở phương Tây người ta đã
khẳng định (và được pháp luật ủng hộ) rằng, cha mẹ có thể cắt đứt quan hệ vợ
chồng, nhưng quan hệ giữa cha mẹ và con cái tồn tại cả đời không thể vứt bỏ
được. Cha mẹ đã chia tay nhau nhưng vẫn phải có trách nhiệm ni dạy, săn
sóc con, vẫn là bố, là mẹ của các con.
Ở nước ta, sau những vụ ly hơn, nhiều đơi vợ chồng đã khơng thực hiện điều
nói trên. Có người bố chỉ gửi cho con số tiền phụ cấp hàng tháng đã tự cho là
tốt lắm rồi. Nhiều ơng bố khác cịn đi biệt tăm khơng đối hồi đến con cái sau
ly hơn. Có người mẹ, sau ly hơn, lại khơng chấp nhận sự săn sóc của người bố

đối với con cái mà gây khó khăn, trở ngại. Trong khi đó, quyền của trẻ em phải
được cả bố lẫn mẹ săn sóc, yêu thương, mặc dù họ đã chia tay nhau. Thiết nghĩ
rằng cần có sự nhắc nhở, giáo dục các cặp vợ chồng sau ly hôn.
b/ Các vụ ly hôn tăng, đồng thời các vụ tái hơn cũng nhiều. Trong các gia đình
tái kết hơn lại nảy sinh nhiều quan hệ phức tạp mới giữa các thành viên gia
đình, như giữa bố dượng với con riêng của vợ, giữa mẹ ghẻ với con riêng của
chồng, giữa các con có nguồn gốc cha mẹ khác nhau. Giữa anh em khơng cùng
cha, cùng mẹ dễ có sự so đo, tị nạnh.
Những quan hệ gia đình rất phức tạp, tế nhị. Những người chủ gia đình nếu
khơng biết cách xử lý, khơng chú ý giáo dục con cái thì luôn xảy ra mâu thuẫn,
đầu độc cuộc sống chung của gia đình. Đã có những cặp vợ chồng tái kết hôn
sau lại xin ly hôn để anh và con anh đi một đường, tôi và con tôi đi một nẻo
khác!
c/ Những gia đình đơn thuần gồm 2 thế hệ nhưng con cái chỉ sống với mẹ hoặc
với bố. Chủ yếu là sống với mẹ, vì người phụ nữ góa thường khơng kết hơn lại,
ở vậy ni con. Cịn nam giới góa vợ lập gia đình lại sớm và tỷ lệ cao hơn so
với nữ góa chồng.
Có những người phụ nữ đi xin con vì khơng có khả năng lấy chồng, hoặc
những người lỡ có con sau những cuộc sống chung tạm bợ, người đàn ơng khi
có con, bỏ mặc họ…
Thiều cha hay thiếu mẹ đều là một sự thiệt thòi không thể bù đắp đối với trẻ
em, đặc biệt là trong việc hình thành nhân cách tồn diện của chúng. Thiếu cha,
trẻ thấy thiếu sự tự tin, mạnh dạn. Thiếu mẹ, trẻ thấy cuộc sống khô khan, cô
độc và thiếu tình mẫu tử, sự hiền từ, dịu dàng của người mẹ.

10


5. QUAN HỆ HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Dưới tác động của xu thế khu vực hóa, tồn cầu hóa đang diễn

ra mạnh mẽ, trong những năm gần đây, hiện tượng người Việt
Nam, đặc biệt là phụ nữ kết hơn với người nước ngồi đã tăng
lên nhanh chóng. Hơn nhân quốc tế trong bối cảnh giao lưu văn
hóa, tồn cầu hóa là một khuynh hướng tự nhiên và nếu được
quản lý tốt có thể góp phần tăng cường sự hiểu biết giữa các
dân tộc. Trong số các phụ nữ kết hơn với người nước ngồi,
nhiều người đã có cuộc sống khá ổn định, nhanh chóng hội
nhập vào xã hội mới. Tuy nhiên, cũng đã xuất hiện những hiện
tượng khơng bình thường trong quan hệ hơn nhân quốc tế,
thậm chí trở thành dịch vụ kinh doanh, quan hệ trao đổi, mua
bán. Khơng ít cơ gái Việt trở thành nạn nhân của nạn buôn
người và nhiều tệ nạn xã hội khác. Tại hội thảo, thực trạng của
vấn đề di cư và hơn nhân quốc tế sẽ được nhìn nhận, đánh giá,
bàn thảo để đề xuất các giải pháp thực tiễn, sáng tạo, tiến tới
xây dựng một mơ hình phát triển bền vững cho các gia đình đa
văn hóa.
Bên cạnh đó pháp luật chưa quy định về hoạt động của các tổ chức phi chính
phủ nước ngồi trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, trong khi pháp luật của
nhiều nước cho phép và công nhận hoạt động hợp pháp của các tổ chức này. Do
đó từ năm 1998 đến nay trên thực tế tồn tại một vấn đề khá bức xúc là có nhiều
tổ chức phi chính phủ nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam
đã liên hệ với các trong tâm bảo trợ xã hội , hoặc vởi Ủy ban nhân dân một số
tỉnh dưới danh nghĩa hoạt động từ thiện, tài trợ nhân đạo nhưng thực chất là để
khiếm nguồn trẻ em giới thiệu cho người nước ngồi có nguyện vọng xin trẻ
em Việt Nam làm con nuôi.

II, KIẾN NGHỊ:
- Như đã phân tích ở trên trước xu thế hội nhập tồn cầu hóa tình trạnh sống
thử, sống thống, cặp bồ,… trở nên phổ biến, mà một trong những hệ quả kéo


11


theo của những tình trạng này là việc mang thai ngồi ý muốn, và khi sinh con
đã xảy ra tình trạng bỏ con, nhưng chưa có hành lang pháp lý để giải quyết vấn
đề này.
- Cũng trong xu thế toàn cầu hóa, xã hội ngày càng phát triển, việc con có tài
sản riêng là rất phổ biến, việc minh bạch trong quản lý tài sản con cái và cha
mẹ cần được đặt ra.
- Bên cạnh đó, xu hướng ly hơn ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội, một
vấn đề đặt ra, khi tái hôn theo luật người chồng cũ vẫn phải có trách nhiệm cấp
dưỡng nhưng để thực hiện việc cấp dững buộc người chồng cũ phải chia tài sản
trong thời kỳ hôn nhân vỡi người vợ mới gây nhiều khó khăn, vậy liệu có nên
quy định khi ly hôn nên chia cho người vợ phần tài sản nhiều hơn mà người đó
đáng được nhận và sau đó người chồng khơng có trách nhiệm cấp dưỡng.
- Cần thiết phải sửa đổi Nghị định 68/CP (đã sửa đổi bổ sung), quy định chặt
chẽ hơn việc xác định tình trạng hôn nhân của các bên tham gia kết hôn, nhất là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng trước khi xuất cảnh tại Việt Nam
đã đủ tuổi kết hôn hoặc trường hợp kết hôn lần thứ hai trở lên phải có Bản án ly
hơn hoặc giấy chứng tử, có quy định rõ ràng về trình độ ngơn ngữ giao tiếp
chung, tìm hiểu về văn hố, phong tục tập qn của quốc gia có người nước
ngồi kết hơn với phụ nữ Việt Nam.
- Cần có những quy định liên quan đến kết hơn và hơn nhân giữa những người
đồng tính để đảm bảo quyền lợi cho họ.
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người
phụ nữ về phẩm chất đạo đức và truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
- Ngành Công an cần tăng cường kiểm tra, phát hiện các tổ chức, cá nhân môi
giới bất hợp pháp và xử lý nghiêm minh trước pháp luật, kiên quyết xử lý
những cán bộ, công chức có biểu hiện tiêu cự hoặc tiếp tay việc làm thủ tục kết
hơn giả có yếu tố nước ngồi. Đối với các nhà hàng, khách sạn cho thuê địa

điểm, tổ chức xem mặt cơ dâu thì tuỳ mức độ vi phạm có thể xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, trước hết cần rà sốt các văn bản pháp luật hiện hành rồi cắt bỏ
những quy định lạc hậu, những quy định không phù hợp cho sự phát triển của
gia đình, sửa đổi, điều chỉnh các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo và
bổ sung một số quy phạm pháp luật mới nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm
pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình. Đặc biệt, phải giao trách nhiệm

12


cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức có thẩm quyền hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình. Cần thiết phải tập hợp các
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này thành một tập “Hệ thống hóa các văn
bản pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình”. Có như vậy mới tạo sự thuận
lợi cho việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm sự phát
triển của gia đình.
Thứ hai, Quốc hội nên nghiên cứu xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật
về gia đình đầy đủ, chặt chẽ, cụ thể nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự ổn
định và phát triển của gia đình. Các quy định về phát triển gia đình trong các
luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ cần được hướng dẫn cụ thể, tạo thuận
lợi cho việc tổ chức thực hiện.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh tế, dân sự, đất đai,
tiền vốn, văn hóa xã hội, hơn nhân gia đình… để đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự
phát triển của gia đình, cụ thể là:
- Cần ban hành các quy định pháp lý về chuẩn mực gia đình Việt Nam no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững để làm mục tiêu phấn đấu cho các gia
đình cũng như toàn xã hội.
- Trong luật dân sự, cần bổ sung thêm quy định về quyền sử dụng nhà ở thuê
của Nhà nước như là một quyền tài sản để bảo vệ các quyền lợi của các thành

viên trong gia đình khi ở thuê nhà của Nhà nước. Tạo thuận lợi cho việc giải
quyết các tranh chấp về quyền sử dụng nhà ở thuê của Nhà nước, trên cơ sở đó
góp phần giữ vững sự ổn định và phát triển gia đình.
Thứ tư, Nhà nước cần tiếp tục hồn thiện các quy định pháp luật hình sự để răn
đe, xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình, hành vi bóc lột sức lao động
trẻ em, hành vi vi phạm nghiêm trọng về bình đẳng giới… Có như vậy mới bảo
vệ được phụ nữ và trẻ em – những thành viên quan trọng trong gia đình Việt
Nam hiện nay.
Thứ năm, Nhà nước nên ban hành các chế tài cụ thể đủ mạnh để xử lý đối với
những hành vi vi phạm pháp luật bảo đảm phát triển của gia đình ngay sau khi
ban hành các đạo luật, kể cả chế tài hình sự, có như vậy mới nâng cao tính răn
đe của pháp luật. Tránh để tình trạng luật ban hành phải chờ nghị định hướng
dẫn hoặc phải chờ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự thì mới xử lý được những
hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm sự phát triển của gia đình mới phát sinh
trong xã hội.

13


C. KẾT LUẬN
Xu hướng hạt nhân hóa gia đình phát triển mạnh trong xã hội. Theo các học giả
Trung Quốc, từ sự hạt nhân hố gia đình chỉ có 2 thế hệ cha mẹ - con cái này
không phải mang lại một kết cấu chặt chẽ mà dưới sự tác động của lối sống
hiện đại. Cơ cấu của mơ hình gia đình này cũng như mối quan hệ giữa các
thành viên trong đó, thậm chí cịn lỏng lẻo hơn trước để nhường chỗ cho cái tôi
nhiều hơn...Như vậy, bức tranh gia đình trong tương lai sẽ có nhiều khác biệt
và nảy sinh nhiều “góc khuất”. Vì thế trong tương lai cần phải hồn thiện pháp
luật hơn nhân và gia đình để phù hợp với sự pháp triển đã phân tích ở trên.

14



Tài liệu tham khảo:

1. Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình, trường đại học luật Hà Nội, Nhà
xuất bản công an nhân dân, 2009.
2. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
3. Chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam,
TS. Nguyễn Văn Cừ, Nhà xuất bản tư pháp
4. Những quy định mới của luật hơn nhân gia đình năm 2000 vê quan hệ hơn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi/ Tạp chí Luật học Số3/2001,
5. Những đặc thù và sự phát triển của pháp luật về phụ nữ, hôn nhân gia
đình ở Việt Nam/Tạp chí Nhà nước và Pháp luật / Số 3/2001,
6. Web tham khảo:
Google.com.vn
svsupham.com

15



×