Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Cơ Sở Hạ TầngVà Kiến Trúc Thượng Tầng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.48 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *

Bộ GD Và ĐT
Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân
Khoa Triết Học Mác – Lênin

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Cơ Sở
Hạ TầngVà Kiến Trúc Thượng Tầng
Giáo Viên Hướng Dẫn:Thầy Lê Ngọc Thông
Sinh Viên Thực Hiện:Nguyễn Thị Đào
Lớp: Marketing B
Khoa : Marketing
Mã Số Sinh Viên: CQ480508
______ Hà nội, Ngày 26 Tháng 5 Năm 2007 ______
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
TRANG BÌA…………………………………………………..1
MỤC LỤC…………………………………………………….2
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………...3
NỘI DUNG……………………………………………...4
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI……………………………………….4
B.NỘI DUNG ………………………………………………....5
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN…………………………………………………..5
1.CƠ SỞ HẠ TẦNG………………………………………………...6
a. Khái niệm………………………………………………………..6
b.Đặc điểm, tính chất………………………………………………6


2. KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG………………………………….7
a.Khái niệm………………………………………………………....8
b.Đặc điểm, tính chất……………………………………………….8
3.MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CỞ SỞ HẠ TẦNG
VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG XÃ HỘI……………………..9
a.Vai trò quyết định CSHT đối với KTTT xã hội………………… 11
b.Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT……………………..13
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN…………………………………………….....17
1.MỐI QUAN HỆ BIỆN CHÚNG GIỮA CSHT VÀ KTTT
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIÊT NAM……….17
a. Đặc điểm hình thành CSHT và KTTT trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa cộng sản………………………………… .17
b.CSHT và KTTT trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam…...18
2.HẠN CHẾ VỀ CSHT VÀ KTTT Ở VIỆT NAM…………………23
3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ……………………………………………25
C. KẾT LUẬN…………………………………………………27
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………28
2
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
____________ LỜI NÓI ĐẦU ______________
Việt Nam trong sự phát triển của Đông Á và Đông Nam Á, hay nói rộng
hơn là vòng cung Châu Á _Thái Bình Dương, hiện nay đang thu hút được
nhiều người trong giới lãnh đạo và giới kinh doanh thế giới .
Vì sao Việt Nam có sự chú ý đó? Chắc chắn là do Việt Nam đã và đang
tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và ngày càng sâu sắc về Cơ
Sở Hạ Tầng và Kiến Trúc Thượng Tầng xã hội .
Trong sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT. CSHT là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành

phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Tính chất đan xen – quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền
kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính phức tạp trong quá trình định
hướng xã hội. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản
chiếu trên nền KTTT và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền KTTT cũng phải
đổi mới để đáp ứng đỏi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy KTTT mới có sức
mạnh đáp ứng đòi hỏi của CSHT.
Đã có rất nhiều văn kiện chính trị và luận văn khoa học đề cập sâu sắc về
công cuộc đổi mới này.Vì vậy, với tư cách là một sinh viên còn ngồi trên ghế
nhà trường, em chỉ mong bài viết này có thể nêu một số vấn đề có tính khái
quát về công cuộc đổi mới này ở Việt Nam.
3
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo. Người đã tận tình
giúp em hoàn thành bài tiểu luận này .
Do thời gian sưu tầm tài liệu không nhiều và trình độ nhận thức của em
còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót và thiếu sự
bất cập, em rất mong nhận được sự nhận xét của thầy, và đóng góp của các
bạn để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

NỘI DUNG
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng đều bị
các quan hệ của kinh tế quy định. Dù ở xã hội nào, triết học bao giờ cũng bao
gồm hai yếu tố: Yếu tố nhận thức đó là sự hiểu biết về thế giới xung quanh
trong đó con người là yếu tố nhận định, là sự đánh giá về mặt đạo lý.
Để phù hợp với trình độ phát triển thấp ở giai đoạn đầu tiên của lịch sử
loài người, triết học ra đời với tính cách là một môn khoa học tổng hợp các

tri thứ của con người về hiện thực xung quanh và bản thân mình. Sau đó, do
sự phát triển của xã hội, triết học đã tách ra thành một môn khoa học độc lập,
triết học với tính cách là khoa học, nên nó có đối tượng và nhiệm vụ nhận
thức riêng của mình. Nó là hệ thống những quan điểm, quan niệm có tính
4
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chất chính thể về thế giới, về các quá trình vật chất, tinh thần và mối quan hệ
giữa chúng, về nhận thức và cải biên thế giới. Do vậy triết học nghiên cứu về
vấn đề: tư duy, xã hội và tự nhiên. Trong đó vấn đề xã hội là vấn đề mang
tính hình thái kinh tế, phản ánh động lực sự phát triển xã hội thông qua lực
lượng sản xuất. Để có cơ chế, cách thức trong sự phát triển xã hội thì cần
phải có CSHT và KTTT. Do vậy CSHT và KTTT là một vấn đề đặc biệt
phải quan tâm.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một trong những nội dung cơ
bản của học thuyết hinh thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo
xã hội.
B. NỘI DUNG CHÍNH :
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN :
Lý luận về CSHT và KTTT là một vấn đề trung tâm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, là bộ phận hợp thành trọng yếu của lý luận cách mạng của chủ nghĩa
Mác- Lênnin
Lý luận của chủ nghĩa Mác về CSHT và KTTT là lý luận lần đầu tiên đã
giải quyết một cách khoa học vấn đề quan hệ lẫn nhau, tác dụng lẫn nhau giữ
quan hệ kinh tế và quan hệ tư tưởng của xã hội, làm cho chúng không những
hiểu được nguồn gốc phát sinh của ý thức xã hội và chế độ pháp luật chính trị,
mà còn hiểu được tác dụng năng động to lớn của ý thức xã hội và chế độ pháp
luật chính trị đối với sự phát triển xã hội. Quan hệ sản xuất được hình thành
một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của

xã hội. Trên cơ sở QHSX hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần
5
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xã hội .Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành CSHT và KTTT
của xã hội. C.MÁC viết: Toàn bộ những QHSX ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một KTTT pháp lý và
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện
thực đó.
1. Cơ sở hạ tầng :
a. Khái niệm:
CSHT là tổng hợp những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định.
Dựa vào khái niệm đó ,nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ
xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội.
Đúng vậy, mỗi một hình thái kinh tế xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng
là cơ sở hiện thực của xã hội, hình thành một cách khách quan trong quá
trình sản xuất vật chất xã hội. Nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực
tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất mà nó còn bao gồm cả
những quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời sống vật
chất của con người
.b. Đặc điểm, tính chất:
CSHT của một xã hội cụ thể thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất thống
trị trong nền kinh tế. Đồng thời trong mỗi CSHT xã hội còn có những QHSX
khác nữa như: dấu vết ,tàn trữ QHSX cũ và mầm mống, tiền đề của QHSX
mới. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các
QHSX khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Các
6
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

QHSX đó, không tách rời nhau mà luôn đấu tranh với nhau và liên hệ với
nhau và hình thành CSHT của mọi xã hội cụ thể ở một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử.
Ví dụ như: Trong xã hội phong kiến ngoài QHSX phong kiến chiếm đia
vị thống trị, nó còn có QHSX tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống
của QHSX tư bản chủ nghĩa và chính ba yếu tố đó cấu thành nên CSHT
phong kiến.
Đặc trưng có tính chất của một CSHT là do QHSX thống trị quy định.
QHSX thống trị quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn
bộ đời sống kinh tế - xã hội. Quy định tính chất cơ bản của toàn bộ CSHT xã
hội đương thời, mặc dù quan hệ tàn dư, mầm mống có vị trị không đáng kể
trong xã hội có nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành, nhưng lại có vị
trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của xẫ hội đang ở giai
đoạn mang tính chất quá độ.
CSHT mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội mà dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân về TLSX. Tính chất đối kháng của CSHT được bắt nguồn
từ mâu thuẫn nội tại không thể điều hòa được trong CSHT đó và bản chất
của kiểu QHSX thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của sự đối lập về lợi
ích kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.
Như vậy, CSHT là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất
tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong
quá trình sản xuất vật chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển
của LLSX.
2. Kiến trúc thượng tầng xã hội:
7
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a. khái niệm :
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền,
đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật, …..với những thể chế tương ứng: nhà

nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể…..được hình thành trên CSHT nhất
định.
Bởi vậy, KTTT là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập chung đời sống
tinh thần của xã hội, là bộ mặt tư tưởng của hình thái kinh tế - xã hội.
Nó đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành
cơ cấu hoàn chỉnh của hình thái kinh tế - xã hội.
b. Đặc điểm, tính chất:
Như vậy, các bộ phận khác của KTTT đều ra đời và có vai trò nhất định
trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã hội. Nó phát triển trên
CSHT nhất định, là phản ánh của CSHT. Song không phải tất cả các yếu tố
của KTTT đều liên quan như nhau với CSHT của nó. Mà trong xã hội có giai
cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền cùng những tổ chức tương ứng
như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất và
là thành phần chính của KTTT, tiêu biểu cho chế độ chính trị, xã hội ấy. Ngoài
ra còn có những yếu tố đối lập với những tư tưởng quan điểm, tổ chức chính
trị của giai cấp bị trị.
Mỗi yếu tố của KTTT đều có những đặc điểm riêng, có quy luật vận động
phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau và đều
hình thành nên CSHT.
8
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp nên nó mang tính giai cấp sâu sắc.
Tính giai cấp của KTTT biểu hiện ở sự đối nghịch và quan điểm, tư tưởng và
các cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
Bộ phận có quyền lực cao nhất của KTTT của xã hội có giai cấp là nhà
nước. Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt pháp
lý - chính trị.
Thời kì quá độ từ CNTB lên CNCS, những tàn dư tư tưởng của các giai
cấp thống trị bóc lột vẫn còn tồn tại trong KTTT. Vì vậy, trong KTTT của

nước XHCN ở thời này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng XHCN với
những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến CNCS, tính giai cấp của gia cấp trong
KTTT mới bị xóa bỏ.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT xã hội:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quyết
định quan hệ kinh tế, ý thúc tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã
hội. Theo chủ nghĩa duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định còn ý thức
tư tưởng, chính trị không có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội.
Nhưng theo chủ nghĩa Mác – Lênnin, đã khẳng định: CSHT và KTTT có
quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có CSHT giữ vai trò quyết
định KTTT. Còn KTTT là phản ánh CSHT, nhưng nó có vai trò tác động trở
lại to lớn đối với CSHT đã sinh ra nó.
Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của CSHT đóng vai trò
quyết định với KTTT. KTTT phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của
CSHT hay CSHT nào thì KTTT ấy. Nếu mà một trong hai yếu tố ấy mà phát
9
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
triển không hợp nhau thì sẽ làm cho xã hội phát triển mất đi sự cân bằng, ổn
định.
Sư biến đổi giữa hai yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ biện chứng
giữa chất và lượng diễn ra theo hai hướng:
Một là: sự tăng hay giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất
Hai là: sự tăng hay giảm đi về lượng không làm cho chất thay đổi ngay
mà thay đổi dần dần từng phần từng bước.
Theo quan điểm này thì quá trình biến đổi giữa CSHT và KTTT diễn ra
như sau: khi CSHT phát triển đến một mức độ nào đó gọi là điểm nút, thì nó
đòi hỏi kéo theo sự thay đổi về KTTT. Quá trình này không đơn thuần là sự
biến đổi một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một hình thái kinh tế
chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn lịch sử

này: trong giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì CSHT và
KTTT có sự dung hòa với nhau hay đạt tới giới hạn độ. Tại đây, CSHT và
KTTT tác động biện chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần
tự về CSHT (tăng hoặc giảm) nhưng tại đây KTTT chưa có sự thay đổi.
CSHT ở giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến quá
trình đào thải. Mác nói: “nếu không có phủ định những hình thức tồn tại đã
có trước thì không thể có sự phát triển trong bất cứ lĩnh vực nào”. Chính vì
CSHT cũ được thay thế bằng CSHT mới bao hàm những mặt tích cực tiến
bộ của cái cũ đã được cải tạo đi trên những nấc thang mới. Chính vì CSHT
thường xuyên vận động như vậy nên KTTT luôn luôn thay đổi nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển của CSHT.
10
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a. Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT xã hội:
Chủ nghĩa Mác đã nói rằng: không phải ý thức xã hội quyết định tồn tại xã
hội, mà trái lại tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không phải hình thái ý
thức tư tưởng, hình thái chính trị quyết định hình thái kinh tế xã hội, mà là
hình thái kinh tế xã hội quyết định quan điểm chính trị, pháp luật, đạo đức,
triết học, văn học nghệ thuật, tôn giáo … CSHT là tính thứ nhất, nó quyết định
KTTT; KTTT là hiện tượng có tính thứ hai, phụ thuộc, nó là phản ánh của
CSHT.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội có CSHT và KTTT của nó. Dó đó CSHT và
KTTT mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau, và CSHT giữ vai trò quyết định đối với KTTT. Biểu hiện đặc thù của
CSHT là cơ sở kinh tế. Toàn bộ quá trình của lịch sử chứng minh, mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định vầ mỗi nước đều có CSHT của nó, trên mỗi cơ sở kinh
tế đó đều chứa đựng nền KTTT thích hợp với nó. Khi cơ sở kinh tế biến đổi
thì toàn bộ KTTTđồ sộ cũng sẽ - hoặc nhanh hoặc chậm - biến đổi theo. Trong
các quá trình phát triển của lịch sử, bất cứ CSHT và KTTT nào cũng có quá

trình sinh ra, phát triển và diệt vong. LLSX phát triển đến một mức độ nào đó,
thì QHSX sẽ không còn phù hợp với nó nữa và nó sẽ buộc phải thay đổi để
phù hợp.
Vai trò quyết định của CSHT thể hiện trước hết là ở chỗ: CSHT là những
quan hệ vật chất khách quan quy định mọi quan hệ khác: về chính trị, tinh
thần, tư tưởng của xã hội. CSHT nào thì sinh ra KTTT ấy, nói cách khác
CSHT đã sinh ra KTTT, và KTTT bao giờ cũng phản ánh một CSHT nhất
định, không có KTTT chung cho mọi xã hội.
11
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CSHT quyết định KTTT về tính chất, nội dung và kết cấu: tính chất của
KTTT đối kháng hay không đối kháng, nội dung của KTTT nghèo nàn hay
đa dạng, phong phú và hình thức của KTTT gọn nhẹ hay phức tạp đó CSHT
quyết đinh. Tuy nhiên cái quyết định mà tôi muốn nói ở đây là mang yếu tố
quy nạp và toàn thể xã hội, ở đây không phải là khi CSHT biến đổi thì ngay
lập tức KTTT cũng sẽ bị tiêu diệt và mất ngay. Mà nói trong lúc CSHT phát
sinh biến đổi, tức là địa vị kinh tế hay địa vị chủ yếu, thứ yếu của con người
biến đổi căn bản, thì KTTT cũng tất nhiên biến đổi phát sinh biến đổi có tính
tất yếu
Trong sự biến đổi của CSHT và KTTT, không phải cứ CSHT mới xuất
hiện thì KTTT mới mất đi ngay mà có bộ phận thay đổi dần dần chậm chạp.
Vì trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, những tàn dư của cái cũ còn
tồn tại rất lâu. Mặt khác những yếu tố, những hình thức không cơ bản nào đó
của CSHT và KTTT cũ được giai cấp mới giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu
cầu phát triển của CSHT và KTTT.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở chỗ những biến
đổi căn bản trong CSHT dẫn đến sự biến đổi căn bản trong KTTT. Mác viết:
Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cả KTTT đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh
chóng. Sự biến đổi của KTTT diễn ra rõ rệt khi CSHT này thay thế CSHT

khác với trình độ phát triển cao hơn. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến
sự thủ tiêu CSHT cũ bị xóa bỏ và thay thế CSHT mới thì sự thống trị cũ bị xóa
bỏ và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai
cấp thây đổi, bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã
hội cũng biến đổi.
12
Nguyễn Thị Đào_Marketing 48B

×