Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giải pháp phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.63 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Hiện nay, nớc ta đang phát triển đi theo con đờng định hớng xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra con đờng đúng đắn cùng các biện
pháp tránh sai lệch, chệch bớc. Trong diễn văn khai mạc đại hội IX Chủ tịch n-
ớc Trần Đức Lơng có nói: "Bớc vào thời kỳ mới, cách mạng nớc ta vừa đứng tr-
ớc thời cơ vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn
không thể xem thờng. Nắm bắt cơ hội vận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vợt
qua thách thức với tinh thần cách mạng tiến công đa cách mạng Việt Nam tiến
lên mạnh mẽ. Đó là vấn đề sống còn đối với chúng ta trong thời kỳ mới". Quả
đúng nh vậy, kết quả đạt đợc hôm nay là không nhỏ, phải biết coi trọng giữ gìn.
Nhất là xung quanh ta vẫn còn nhiều kẻ rình mò luôn tìm cách phá hoại, gây
rối. Xác định đúng đờng lối luôn là công việc thờng xuyên, liên tục và có tầm
quan trọng cao. Hiện nay nớc ta đang trong kinh tế thị trờng theo định hớng
XHCN. Việc đa ra các định hớng, đờng lối để phát triển KTTT theo XHCN nh
thế nào? trớc tiên ta đi nghiên cứu sự ra đời của nó, sự phát triển của nó. Hiện
trạng thế nào để đa ra các giải pháp giải quyết một cách phù hợp. Vì vậy tôi làm
tiểu luận này một mặt phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặt khác đa ra các giải pháp giải
quyết các vấn đề hiện nay, cho dù vậy tôi không cho rằng các giải pháp tôi đa ra
là hoàn chỉnh nhng mong rằng nó cũng có chút ý nghĩa.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nội dung
I- Một số vấn đề về kinh tế thị trờng.
1. Sự hình thành và phát triển của KTTT.
Về phơng diện kinh tế có thể khái quát rằng lịch sử phát triển của sản xuất
và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua 2 kiểu tổ chức kinh tế thích
ứng với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và phân công lao động xã hội,
hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: Thời đại kinh tế tự nhiên, tự
cung - tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó đợc gọi là


kinh tế thị trờng.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó
là phơng thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng
vật của tự nhiên và sau đó đợc thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào
tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con
ngời. Nó đợc bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoà khép kín giữa con ngời và tự
nhiên, kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con ngời và tự nhiên, mà tiêu
biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với
xã hội sinh tồn, kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị
trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy
không còn giữ địa vị thống trị nhng vẫn còn tồn tại trong xã hội t bản cho đến
ngày nay. Kinh tế tự nhiên hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém
phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá bắt đầu từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ
cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao
động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về t liệu
sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh
không phải là thiên đờng mà vẫn có những khuyết tật nhất định, kinh tế thị
trờng hiện đại phát triển vào khoảng những năm 50 của thế kỷ 20 với đặc trng:
Nhà nớc can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lu kinh tế với
nớc ngoài trong khi ở các giai đoạn trớc đây (khoảng cuối thế kỷ 17 đến đầu thế
kỷ 20) kinh tế thị trờng tự do phát triển theo tinh thần tự do Nhà nớc không can
thiệp vào kinh tế mà chỉ làm các chức năng kinh tế mà chỉ làm các tổ chức
truyền thống của Nhà nớc pháp quyền:
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Bảo vệ quyền sở hữu của các nhà kinh doanh (ngời canh gác trong kinh
tế thị trờng).
- Nhà nớc bảo đảm an ninh chính trị, quốc phòng, an toàn xã hội, tạo môi
trờng thuận lợi cho các doanh nghiệp.

- Xử lý các tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật.
Trong giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại, Nhà nớc can thiệp vào kinh tế,
chủ yếu thông qua các chính sách tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại (thuế, lãi
suất chiết khấu của ngân hàng, điều tiết xuất nhập khẩu....). Trên thế giới ngày
nay không có Nhà nớc nào không can thiệp vào kinh tế chỉ khác nhau ở biện
pháp, mục tiêu và kết quả đạt đợc. Kinh tế thị trờng hiện đại ở các nớc đều có
sự kết hợp giữa cơ chế thị trờng (bàn tay vô hình) và bàn tay hữu hình của Nhà
nớc.
Khi lực lợng sản xuất còn ở mức thấp, ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình
thức sở hữu và phân tán, lực lợng sản xuất từng bớc phát triển sẽ là tỉ lệ thuận
với tiến trình tập trung hoá và xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đinhr cao của nó là
sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, các
công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia hoặc các đại nông trại ở nông thôn đợc coi
là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một mức độ nhất
định do kết quả tác động biện chứng của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Với cách nhìn đó thì chế độ công hữu XHCN đợc xác lập nh một tất yếu khách
quan bởi sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ cao của lực
lợng sản xuất. Nhìn trên góc độ khác, trong mối quan hệ giữa KTTT và định h-
ớng XHCN cũng có thể nhận thấy rằng, KTTT biểu thị nổi bật nh phơng thức
vận động của lực lợng sản xuất, còn định hớng XHCN thể hiện quan hệ sản xuất
(quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý) cần đạt tới của phơng
thức vận động đó CNXH ở đây cũng có thể hiểu đó là một nền tảng kinh tế - xã
hội đợc dựa trên chế độ sở hữu công cộng và chỉ có dựa trên chế độ đó mới thực
hiện đợc ý tởng cao đẹp do lịch sử giao phó là xây dựng một xã hội công bằng,
văn minh với ý nghĩa đích thực của nó. Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, ở đây
chỉ nói đến phát triển KTTT theo định hớng XHCN cha phải là KTTT XHCN.
Điều đó cũng có thể hiểu KTTT chỉ là một phơng tiện để đạt tới mục tiêu
XHCN. Nh vậy CNXH sẽ đạt tới trong tơng lai nh một sự kiện lịch sử tất yếu.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

2. Quan điểm của Lênin về KTTT trong CNXH (chính sách kinh tế
mới).
V.I Lênin, trớc cách mạng tháng 10, cho rằng. Trong CNXH, nền kinh tế
hàng hoá sẽ bị xoá bỏ "để tổ chức nền sản xuất không có những nhà kinh
doanh". Thế nhng đến mua xuân 1921. Khi nội chiến kết thúc, trớc những
nhiệm vụ nặng nề của việc khôi phục nền kinh tế, khắc phục hậu quả của chính
sách cộng sản thời chiến Lênin và Đảng Bôn sê vích Nga đã quyết định thực
hiện chính sách mới. Nội dung chủ yếu của nó. Thay thế chính sách trng thu l-
ợng thực bằng chính sách thuế lơng thực. Theo chính sách này, ngời nông dân
chỉ nộp thuế lơng thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế này căn
cứ vào điều kiện tự nhiên của đất đai canh tác. Nói cách khác thuế nông nghiệp
chính là địa tô mà ngời nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân
phải trả cho Nhà nớc. Số lợng thực còn lại, ngời nông dân đợc tự do, trao đổi ,
mua bán trên thị trờng. Tổ chức thị trờng, thơng nghiệp, thiết lập quan hệ hàng
hoá - tiền tệ giữa Nhà nớc và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nghiệp và nông nghiệp. Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình
thức quá độ nh khuyến khích phát triển sản xuất nhỏ của nông dân, thợ thủ
công, khuyến khích kinh tế t bản t nhân, sử dụng CNTB Nhà nớc chuyển sang
chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời VI. Lênin chủ trơng phát triển mạnh mẽ
quan hệ hợp tác kinh tế với các nớc phơng Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và
khuyến khích kinh tế phát triển. Nh vậy khác với thời kì nội chiến, trong điều
kiện hoà bình ở nớc Nga Xô Viết đã chủ trơng khôi phục phát triển kinh tế dựa
trên những nguyên tắc của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng. Nh vậy nội
dung chủ yếu chính sách kinh tế mới là thừa nhận kinh tế hàng hoá, thừa nhận
tự do buôn bán, cho phép tồn tại đến một giới hạn nhất định thành phần kinh tế
t bản t nhân, sử dụng các hình thức kinh tế quá độ, xem CNTB Nhà nớc và hợp
tác xã nh là những chiếc cầu nhỏ lên CNXH. Chính Lênin khi căn cứ vào điểm
xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn thất ở nớc Nga lúc
bắt đầu quá độ lên CNXH. Đã đề xuất mô hình CNXH có vai trò của kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trờng. Thực ra, lí luận về kinh tế hàng hoá, về CNTB. Nhà

nớc trong thời kì quá độ lên CNXH theo quan điểm của Lênin có nội dung rất
phong phú. Song lí luận đó cha phải đã hoàn chỉnh, nhiều vấn đề cha đợc Lênin
lí giải một cách cặn kẽ. Hơn nữa, vì thời gian thử nghiệm NEP ở nớc Nga trớc
đây quá ngắn và thành tựu của nó cũng cha nhiều, lại cha đợc tổng kết từ thực
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tiễn, để hoàn chỉnh về mặt lí luận, đó cũng là một trong những nguyên nhân
khiến cho kinh tế thị trờng, trong nhiều năm bị nhìn nhận bằng thái độ kì thị tại
các nớc thuộc hệ thống XHCN.
Kinh tế thị trờng tuy có nhiều điểm mạnh nhng bản thân nó vốn có những
giới hạn, những khuyến tật mang tính tự phát hết sức bớng bỉnh. Hơn thế nữa,
quan hệ thị trờng còn là môi trờng thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ
nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy đồng tiền chi phối nhiều quan hệ
giữa ngời với ngời, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hớng
tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng. KTTT có nhiều
mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó là xu thế phân hoá giàu
nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo
đức, nhân phẩm... Đi vào kinh tế thị trờng, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục
hạn chế tối đa những khuynh hớng tiêu cực. Trên đây là những vấn đề khái quát
nhất về KTTT. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề KTTT và áp dụng ở Việt Nam nh thế
nào, chúng ta tiếp tục nghiên cứu.
II- Sự phát triển kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
1. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng ở nớc ta.
Nh đã nói ở trên lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế
khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Song nghiên cứu một cách nghiêm tục các mô
hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình
một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn.
Trớc đây mô hình kinh tế hiện vật đợc coi là lý tởng thì đã bộc lộ những
hạn chế và kết quả là, vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của

CNXH. Đặc trng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện vật
hoá, t duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền
kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên thực tế,
yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trờng, quan hệ hàng hoá tiền
tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ kinh tế
theo chiều ngang. Vai trò ngời tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý quan liệu
tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Phải chăng việc lựa chọn mô
hình bắt nguồn từ luận đề cơ bản: nền kinh tế XHCN mang tính xã hội trực tiếp,
do đó nó gắn liền với tính kế hoạch hoá tập trung cao độ; và từ những nguyên
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân sâu xa; một là, những dự báo của những nhà kinh điển là dự báo cho tơng
lai rất xa với những ý tởng tốt đẹp, nhng chúng ta nóng vội, thiết kế thành
những mô hình cụ thể, tức thời, không thể vận hành có kết quả; hai là, CNTB
thời kỳ đầu rất dã man, vì thế những ngời cộng sản khi làm cách mạng thành
công, mong muốn thiết kế một mô hình mới để giảm gánh nặng đau khổ cho
quần chúng lao động; ba là, các nớc XHCN cũng nh nớc ta phần lớn trải qua
chiến tranh lâu dài, mà trong chiến tranh, tập trung cao độ là cơ chế thích hợp
"Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng". Cùng cần nói thêm một nguyên
nhân thứ t nữa là: Bản thân KTTT có mặt tích cực và tiêu cực nh đã nói trên.
Đáng lẽ phải tìm thấy cả hai mặt đó, nhng các nớc XHCN chỉ thấy mặt tiêu cực,
mặc nhiên phủ định KTTT một cách tuyệt đối.
Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về KTXHCN tuy đã
có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang
của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô
hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật; nền kinh tế không có động lực, không có sức
đua tranh, không phát huy đợc tính chủ động sáng tạo của ngời lao động, của
các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ
quan lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản
thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt hiệu quả thấp,

nhiều mục tiêu của CNXH không đợc thực hiện.
KTTT có những đặc trng cơ bản nh: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng
thị trờng, tự do kinh doanh, tự do thơng mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu,
phân phối do quan hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô"
để khắc phục khuyết tật của nó. Nhờ sử dụng những yếu tố kích thích của nền
KTTT mà CNTB đã đạt đợc những thành tựu cả về năng suất, chất lợng hiệu
quả và một số mặt về xã hội. Mặc dù còn nhiều khuyết tật, song CNTB đã đạt đ-
ợc trình độ cao về kinh tế kế hoạch và công nghệ cũng từ đó có thể rút ra một
luận đề "Không phải chế độ XHCN thua chế độ TBCN, không phải KT XHCN
thua KT TBCN mà kinh tế hiện vật thua KTTT". Bi kịch Liên Xô và Đông Âu
làm cho những ngời cộng sản chân chính đau đớn nhng cũng từ đó mà cách
nhìn thực tế hơn về kinh tế XHCN, quyết tâm đổi mới. Chính vì vậy, đổi mới,
cải cách chính là trở về những cái đã từng có trong đời sống đơng đại mà chúng
ta bỏ quan. Cần nhận thức rõ rằng, KTTT là một trong những yếu tố của quá
trình phát triển xã hội, chứ không phải là cái gì đó riêng có của CNTB. CNXH
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
với những mục tiêu tốt đẹp, nhng không sử dụng KTTT thì không thể thành
công không thể biến những ý tởng tốt đẹp đó thành hiện thực của cuộc sống.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, KTTT nh một tất yếu gắn liền với sự tồn tại
của mọi quốc gia, là con đờng dẫn đến giàu có, văn minh. Tất nhiên không phải
nớc nào chuyển sang KTTT cũng giàu có cả. Điều đó còn tuỳ thuộc vào nỗ lực
chủ quan, bản lĩnh vai trò và trí tuệ của nhà nớc ấy. ở nớc ta sự lựa chọn mô
hình KTTT là một tất yếu. Do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong một thời
kỳ dài chúng ta đã duy trì nên kinh tế hiện vật theo mô hình của các nớc
XHCN. Chế độ kinh tế xã hội đó đã tỏ rõ sức mạnh trong chiến tranh, nhng
những khuyến tật nghiêm trọng của nó lại đợc chính hoàn cảnh chiến tranh ché
lập. Mặt khác, nớc ta đi lên CNXH từ điểm xuất phát rất thấp, cơ cấu kinh tế
mang nặng đặc trng của một nớc nông nghiệp lạc hậu. Nhận rõ điểm xuất phát
đó, trong chính sách kinh tế Đảng đã có những tìm tòi với mong muốn thoát

khỏi sản xuất nhỏ, nhng những giải pháp đó đợc đặt trong môi trờng kinh tế
hiện vật, nên không mang lại kết quả.
Sau chiến tranh do nguồn việc trợ lớn từ bên ngoài bị cắt giảm đột ngột
nên khủng hoảng kinh tế xã hội ở nớc ta vốn đã gay gắt, nay càng gay gắt thêm.
Đồng thời hàng loạt thử thách làm bộc lộ đầy đủ những khuyết tật của mô hình
cũ và hệ quả của những bớc đi nóng vội, chủ quan. Trong thực tiễn kinh tế hiện
vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, đã bộ lộ nhiều tiêu cực: sản xuất đình
trệ, đời sống nhân dân sa sút, trong quản lý đã tỏ ra bất lực. Trong nông nghiệp,
khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phơng. Trong công thơng nghiệp các
nhà máy xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế "Cấp phát - giao nộp" đã tự
động "xé rào" do thiếu vật t nguyên liệu, vốn liếng, do bất lực của công cụ kế
hoạch hoá kiểu cũ. Sự phát triển của thị trờng tự do chen lẫn thị trờng có tổ
chức. Sự lẳng lặng vi phạm các "qui tắc", "chuẩn mực" lúc bấy giờ, là những
phản ứng KTXH phản ánh sự bất cập và bất lực của một cơ chế quản lý cứng
nhắc. Những tìm tòi, thử nghiệm trong cuộc sống của đông đảo quần chúng là
những hiện tợng kinh tế mới lại có sức thuyết phục giống nh những giải pháp
thực tế đích thực, cả tích cực lẫn tiêu cực để tồn tại. Tình hình đó đòi hỏi sự cần
thiết thay đổi.
Từ thực tế và phong trào quần chúng đã đựt ra một cách nghiêm túc về
những vấn đề lý luận buộc chúng ta phải xem xét lý giải tìm động lực cho sự
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phát triển. Nhìn thẳng vào sự thật Đảng ta đã có những chuyển biến, bắt đầu
uốn nắn những lệch lạc trong phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá đến việc
thay đổi thể chế chính sách. Nghị quyết trung ơng lần thứ VI (khóa VI) đợc
đánh dấu nh một cái mốc trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: cho
sản xuất bung sai thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ; cho tự do lu thông Chỉ thị
100 của Ban bí th cho phép khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định 25
CP của Chính phủ cho phép thực hiện kế hoạch ba phần trong các xí nghiệp
công nghiệp. Vấn đề giá cả cốt lõi của cơ chế cũ là đột phá khẩu đầu tiên triển

khai mạnh mẽ những thử nghiệm về giá cả 1981, tổng điều chỉnh giá lơng nên
1985, bỏ phân phối theo định lợng, bù giá vào lơng ở các tính phía Nam.... là
những khám phá từ thực tế. Tuy những ý tởng đổi mới đợc hình thành nhng mới
có tính chất tìm kiếm thích nghi, điều chỉnh cục bộ, cha trở thành những quan
điểm có hệ thống của Đảng. Chỉ đến năm 1986 khi những tiền đề và điều kiện
cho công cuộc đổi mới đã xuất hiện đầy đủ thì những quan điểm trên mới đợc
công khai thừa nhận.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đợc đánh dấu nh một cái mốc quan trọng
trong việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu
quả của nó, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
cũng từ đó tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang KTT. Tổng kế 2 năm thực
hiện đại hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục đợc suy thoái, nền kinh tế xã
hội đã có những thay đổi căn bản đó là những căn cứ để đẩy tới một bớc cao
hơn. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang KTTT với những
quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trờng một cách cơ bản, tổng thể lâu dài,
một thị trờng thống nhất trong suốt, hoà nhập với thị trờng thế giới, thị trờng là
đối tợng quản lý của Nhà nớc. Đại hội toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đờng lối:
"Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng XHCN, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Điều đó đã chỉ rõ mục tiêu và
phơng thức quản lý nền KTTT theo định hớng XHCN của nớc ta.
Đại hội VIII Đảng ta lại khẳng định "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, đi đôi với tăng cờng vai trò quản lý
của Nhà nớc theo định hớng XHCN", "...phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng
XHCN". Năm năm qua, bên cạnh một số thuận lợi, nớc ta gặp nhiều khó khăn:
8

×