Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối nước ta trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.75 KB, 43 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trờng phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng và nó là
một khâu không thể thiếu đợc của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với sản
xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền các thị trờng hàng hoá, tiêu dùng, dịch vụ với thị
trờng các yếu tố sản xuất và làm cho sự vận động của kinh tế thị trờng diễn ra thông
suốt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, quan hệ phân phối nh chúng ta đã biết
nó còn là một yếu tố quan trọng của quan hệ sản xuất, phản ánh mối quan hệ giữa các
thành viên và lợi ích của xã hội. Đất nớc ta hiện nay đang tiến hành xây dựng nền kinh
tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa do vậy việc nghiên cứu và giải quyết tốt
các vấn đề về phân phối sẽ có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định, tăng trởng và phát
triển kinh tế đất nớc. Hàng loạt các vấn đề phát sinh khi chúng ta chuyển sang nền
kinh tế thị trờng nh tiền lơng, lợi nhuận, lợi tức, địa tô buộc chúng ta phải cải cách sửa
đổi sao cho phù hợp với nguyên lí kinh tế thị trờng. Chính vì những lí do trên mà
chúng ta thấy rằng việc nghiên cứu quan hệ phân phối ở nớc ta hiện nay là hết sức cấp
thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực tiễn. Nội dung đề án xoay quanh đối
tợng nghiên cứu là các nguyên tắc phân phối ở nớc ta hiện nay và biểu hiện của nó.
Phạm vi nghiên cứu đợc tính từ năm 1986 khi chúng ta tiến hành cải cách kinh tế và
đặc biệt là từ năm 1990 trở lại đây, khi mà công cuộc cải cách diễn ra mạnh mẽ. Vì
đây là một vấn đề hết sức quan trọng, to lớn nên trong phạm vi đề án này không thể
giải quyết đợc hết mà chỉ có thể đề cập đến một số vấn đề chung nhất, cơ bản nhất, có
ý nghĩa vô cùng quan trọng để tạo ra một động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc
đẩy sản xuất, phát triển, ổn định tình hình kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về cơ
bản, nội dung của đề tài bố cục nh sau:
Chơng 1: Lý luận chung về phân phối.
Chơng 2: Thực trạng về quan hệ phân phối ở nớc ta trong thời gian qua
Chơng 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối nớc ta trong thời gian tới
Do trình độ, khả năng nhận thức và t duy còn có nhiều hạn chế nên bài viết
không khỏi còn có nhiều thiếu sót. Em mong nhận đợc sự thông cảm và đóng góp
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
của thầy. Cũng qua đây, em xin có lời chân thành cảm ơn về sự hớng dẫn tận tình
của thầy giúp em có thể hoàn thành đề án này.
Hà Nội ngày 5 / 5 / 2003
Sinh viên:
Nguyễn Tuấn Phong

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nội dung
Chơng 1
Lý luận chung về quan hệ phân phối.
1.1. Bản chất của quan hệ phân phối.
1.1.1. Đặc điểm, tính chất của quan hệ phân phối.
Nh chúng ta đã biết quá trình tái sản xuất xã hội, theo nghĩa rộng bao gồm bốn
khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó sản xuất là gốc đóng vai trò quyết định, các khâu khác phụ
thuộc vào sản xuất nhng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng nh ảnh hởng
lẫn nhau.
Chính vì những lý do trên mà phân phối là một khâu không thể thiếu đợc trong
quá trình tái sản xuất. Phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất với
tiêu dùng, vừa phục vụ vừa thúc đẩy sản xuất vừa phục vụ tiêu dùng. Mặt khác, quan
hệ phân phối còn là một yếu tố trọng yếu cấu thành lên quan hệ sản xuất, nó phản
ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội.
Tính chất của phân phối do quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất quyết định. Bản
thân phân phối là sản phẩm của nền sản xuất về nội dung bởi vì chỉ có quá trình sản
xuất, chỉ có sản xuất ra sản phẩm thì mới có quá trình phân phối mà còn cả về hình
thức, bởi vì phơng thức tham gia vào sản xuất của con ngời quyết định hình thức đặc
thù của phân phối. Phân phối bị chi phối bởi phơng thức sản xuất. Mỗi hình thái
phân phối cùng tồn tại và mất đi theo phơng thức sản xuất đã sinh ra nó. Do đó về

mặt bản chất thì quan hệ phân phối đồng nhất với quan hệ sản xuất và chính nó cấu
thành lên mặt sau của quan hệ sản xuất. Các Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân
phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất quan hệ phân phối về thực chất
cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất ấy, rằng chúng cấu thành lên mặt sau quan hệ
sản xuất ấy. Ph.Ănghen cho rằng trên những nét chủ yếu của nó sự phân phối luôn
là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi nhất định. Cơ sở của quan
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hệ phân phối là quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho
nhau. Sự biến đổi lịch sử của lực lơng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo biến đổi
của quan hệ phân phối.
Tuy nhiên phân phối không chỉ là kết quả của sản xuất và trao đổi mà chính nó
cũng tác động lại sản xuất và trao đổi thông qua việc tác động vào quan hệ sở hữu từ
đó có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu hoặc cũng có thể làm biến dạng tính
chất của quan hệ sở hữu trong sản xuất. Chúng ta biết rằng bất cứ một phơng thức
sản xuất nào, bất cứ hình thức trao dổi nào khi mới ra đời không những bị phơng thức
sản xuất cũ, thiết chế chính trị của nó và các tàn d của nó ngăn trở mà còn bị cả quan
hệ phân phối cũ ngăn trở. Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài, phơng thức sản xuất
mới mới giành đợc hình thức phân phối thích hợp với nó. Hình thức phân phối phát
triển sẽ thúc đẩy phơng thức sản xuất phát triển, linh hoạt hơn và khi hình thức phân
phối phát triển đến độ thoát khỏi những điều kiện đã đẻ ra nó thì nó càng ngày càng
mâu thuẫn với phơng thức sản xuất, hình thức trao đổi đã sinh ra nó.Điều này đợc thể
hiện rõ ràng qua nhiều thời kì từ thời kì công xã nguyên thuỷ tới chế độ nô lệ, chế độ
phong kiến rồi chủ nghĩa t bản.
Nói tóm lại, các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử.
Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ trong bất cứ xã hội nào sản phẩm lao động cũng đơc
phân chia thành: Một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất, một bộ phận để dự trữ, một bộ
phận cho tiêu dùng chung của xã hội và cho tiêu dùng cá nhân. Tính lịch sử của quan
hệ phân phối thể hiện ở chỗ mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù hợp với tính
chất quan hệ sản xuất xã hội đó. Nó là một mặt của quan hệ xã hội và cũng có tính

chất lịch sử nh quan hệ sản xuất, cùng tồn tại và cùng mất đi.
1.1.2. Vai trò của phân phối trong nên sản xuất xã hội.
Thông qua đặc điểm, tính chất của quan hệ phân phối chúng ta cũng có thể thấy
vai trò hết sức to lớn của nó trong nền sản xuất xã hội trong quá trình phát triển kinh
tế. Có thể xem xét vai trò của nó dới các phơng tiện khác nhau:
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phân phối có ảnh hởng to lớn đối với sản xuất.trên phơng diện phân phối trực tiếp
các yếu tố cho quá trình sản xuất nó nối liền sản xuất với sản xuất: Điều này dợc thể
hiện ở chỗ nó đảm bảo các yếu tố đầu vào cho sản xuất, đảm bảo các nguồn lực phục
vụ cho sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hoá trên thị trờng sản phẩm, sự phân
phối các nguồn lực diễn ra thông suốt, đảm bảo quá trình tái sản xuất đợc tiến hành
một cách liên tục. Cho nên vai trò thứ nhất của phân phối:
- Nó góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trởng kinh tế, góp phần phân
phối lại lực lợng lạo động trong toàn xã hội một cách hợp lý hơn.
Chính Ph.Ănghen khi bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội đã
cho rằng: Sự phân phối chừng nào mà còn bị những lí do thuần tuý kinh tế chi phối
thì nó sễ đợc điều tiết bởi lợi ích xã hội, rằng xã hội sẽ đợc thuận lợi trên hết mọi ph-
ơng thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển, duy trì và thực
hành, những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất. Quả thật nh vậy bởi vì
phân phối luôn luôn đợc điều tiết, đợc quyết định bởi lợi ích xã hội mà đầu tiên là lợi
ích kinh tế. Thông qua quá trình phân phối mà các giai cấp sẽ thoả mãn các nhu cầu
về lợi ích khác nhau.một cách hợp lý nhất. Khi xảy ra mâu thuẫn về lợi ích tất yếu sẽ
dẫn đến đấu tranh và phân phối hợp lý hơn. Do vậy vai trò thứ hai của phân phối là:
- Phân phối góp phần thực hiện công bằng kinh tế và công bằng xã hội.
Một quan hệ phân phối sẽ tác động, sẽ tạo điều kiện để sản xuất ngày càng phát
triển thuận lợi hơn khi quan hệ phân phối đó đem lại lợi ích cho tất cả các thành viên,
thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu về lợi ích cho các giai cấp. Khi đó mọi thành viên,
mọi giai cấp của xã hội đều có thể phát triển duy trì và phát huy những tiềm năng,
tận dụng những tiềm năng của họ. Từ đấy sản xuất lại càng phát triển, xã hội đời

sống, các điều kiện vật chất và tinh thần đợc nâng cao. Chính vì thế, vai trò thứ ba
của phân phối là:
- Thúc đẩy hoàn thiện chế độ sở hữu.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thông qua quá trình phân phối thu nhập các chủ thể yếu tố sản suất có đợc thu
nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trờng sản phẩm, dịch vụ, qui mô
phân phối quyết đinh qui mô tiêu dùng. Vì vậy, cuối cùng phân phối có vai trò:
- Thực hiện quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Từ những vai trò trên ta càng thấy dợc tầm quan trọng của việc nghiên cứu quan hệ
phân phối ở nớc ta hiện nay là hết sức cần thiết.
1.1.3. Cơ sở kinh tế của quan hệ phân phối.
Khi chúng ta nói về cơ sở kinh tế của sự phân phối chúng ta nghĩ ngay đến việc
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhng nh
chúng ta đã biết phân phối bao gồm cả phân phối cho tiêu dùng sản xuất ( Sự phân
phối t liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các nghành sản xuất ) là tiền đề, là
điều kiện và là một yếu tố sản xuất nó quyết quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của
xã hội. Phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội là kết
quả của sản xuất và do sản xuất quyết định.
Để quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng đợc diễn ra không ngừng, tổng
sản phẩm sản xuất ra không thể phân phối ngay cho mọi ngời. Do đó không thể chia
đều sản phẩm sản xuất ra cho mọi ngời, điều này là phi thực tế và không thực hiện đ-
ợc trong xã hội hiện đại.
Trong một xã hội phát triển với một nền sản xuất lớn thì một bộ phận của tổng
sản phẩm xã hội phải dùng để bù đắp những khoản chi phí, dự phòng, tích luỹ, và
phần còn lại mới để phân phối tiêu dùng. Các phần đợc tính ra bao gồm những phần
sau đây:
- Phần bù đắp những t liệu sản xuất đã hao phí.
- Phần để mở rộng sản xuất.
- Phần để lập quỹ dự trữ đề phòng khi tai hoạ bất ngờ.

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế bởi vì trong một xã hội đang ngày
càng phát triển thì kéo theo nó là một nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Do đo để
đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng tăng ấy thì tất yếu phải khôi phục và mở rộng sản
xuất.
Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội thì chúng ta sử dụng cho tiêu dùng. Tuy
nhiên trớc khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân thì còn phải trích
ra một phần để chi cho:
- Chi phí về quản lí hành chính và tổ chức, bảo vệ tổ quốc.
- Mở rộng các s nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội.
Và cuối cùng phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới đợc trực tiếp phân phối cho
tiêu dùng cá nhân của những ngời làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số
lợng và chất lợng lao động cũng nh số lợng vốn và tài sản mà họ đã đóng góp vào
quá trình sản xuất.
Vì vậy chúng ta có thể đi đến kết luận rằng tổng sản phẩm xã hội vừa đợc phân
phối để tiêu dùng cho sản xuất và vừa đợc phân phối để tiêu dùng cho cá nhân.
1.2. Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều nghuyên tắc phân
phối ở nớc ta hiện nay.
1.2.1. Cơ sở lý luận của quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trờng theo
định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Đất nớc ta chủ trơng đi theo con đờng tiến lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác
Hồ đã chọn. Tuy nhiên, để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Mác, để
đạt tới chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, gian khổ. Chủ nghĩa xã hội khoa
học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài ngời tiến bộ đang vơn tới là
hợp với xu thế phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. Và để xây dựng đ-
ợc một xã hội mới xã hội chủ nghĩa chúng ta cần quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thời kì chúng ta phải thực hiện hàng

loạt những nhiệm vụ kinh tế khó khăn nhằm tạo tiền đề, nền móng cho chủ nghĩa xã
hội. Hơn nữa nớc ta lại quá độ đi lên từ điểm rất thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất
nhỏ, tự cung tự cấp còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lợng sản
xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém gây khó khăn, cản
trở. Do vậy nó còn đòi hỏi chúng ta không phải chỉ nỗ lực rất lớn mà còn cần phải có
đờng lối, chính sách đúng đắn ở từng giai đoạn. Thời kì này phân phối và lu thông là
một lĩnh vực hoạt động kinh tế nhạy cảm, phức tạp. Trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần lợi ích của những cơ sở sản xuất kinh doanh, của những ngời
sản xuất, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
còn có những khác biệt, thậm chí mâu thuẫn với nhau, trong xã hội còn có những tàn
d, những suy nghĩ, tính toán cá nhân. Việc quản lí nền kinh tế càng trở nên khó khăn
đòi hởi Nhà nớc phải có chính sách, biện pháp phân phối đúng đắn để góp phần ổn
định và phát triển kinh tế xã hội, đồng thời, phải có những biện pháp thích đáng về
kinh tế, giáo dục và pháp luật nhằm đấu tranh loại trừ dần những hiện tựơng tiêu cự
trong lĩnh vực phân phối, thực hiên từng bớc bình đẳng công bằng xã hội.
Để phát triển nền sản xuất xã hội việc sử dụng các quan hệ phân phối có vai trò
hết sức quan trọng trong các quan hệ kinh tế. Phân phối là kết quả của sản xuất và
trao đổi, do sản xuất quyết định nhng nó cũng tác động lại mạnh mẽ sản xuất và trao
đổi. Một quan hệ phân phối hợp lí và phù hợp sẽ tạo ra động lực to lớn để phát triển
kinh tế, tạo ra sự công bằng hơn cho xã hội đặc biệt với một nớc có trình độ sản xuất
còn thấp, sản xuất không đáp ứng kịp nhu cầu và nhiều mặt phát triển cha cân đối
nh nớc ta hiện nay. Ngợc lại, phân phối không đúng đắn, không đảm bảo lợi ích kinh
tế, không công bằng, chênh lệch quá lớn không những không thúc đẩy sản xuất
phát triển, ổn định tình hình kinh tế xã hội và cải thiện đời sống nhân dân mà còn
tác động tiêu cực tới sản xuất, kìm hãm thậm chí phá hoại sản xuất, ảnh hởng tới con
đờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đẩy mạnh sản xuất và tiến hành phân phối, có chính sách phân phối đúng đắn để
tác động lại sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo tiền
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368

đề vật chất cho tái sản xuất mở rộng, tạo môi trừơng chính trị xã hội, kinh tế lành
mạnh, ổn định cho các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khach quan và từ đặc điểm kinh tế
xã hội của đất nớc, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta tất yếu
khách quan phải tồn tại nhiều nguyên tắc phân phối khác nhau. Đó là vì:
- Nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu
khác nhau:
Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất quyết định mối quan hệ giữa các tập đoàn xã
hội trong sản xuất cũng nh trong phân phối. Nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa gồm nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình
thức sở hữu. Nhà nớc thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn
dân, sở hữu Nhà nớc mà cả sở hữu t nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản,
thu nhập hợp pháp khác. Phù hợp với mỗi thành phấn kinh tế, mỗi hình thức sở hữu
là một hình thức phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù các thành phần kinh tế nớc ta
không tồn tại biệt lập mà vừc đan xen vào nhau và hợp thành cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất, nhng cha theể thực hiện phân phối thu nhập theo một hhình thức mà phải
thực hiện theo nhiều hình thức. Chỉ có nh vậy mới giải phóng đợc mọi năng lực sản
xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế của đất nớc nhằm phát triển mạnh mẽ
kinh tế xã hội nớc ta.
- Trong nền kinh tế nớc ta còn tồn tại nhiều phơng thức kinh doanh khác nhau
Nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế này có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế
tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phơng thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác
nhau. Ngay trong mỗ thời kì, kể cả thành phần kinh tế nhà nớc cũng có phơng thức
kinh doanh khác nhau, do đó kết quả và thu nhập là khác nhau. Hơn nữa, trong điều
kiện của nền kinh tế thị trờng, các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào nền
kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay
nghề, năng lực sở trờng, thậm chí khác nhau về may mắn do đó khác nhau về thu
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nhập. Do vậy, không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có
nhiều hình thức khác nhau.
- Cơ chế thị trờng cũng đòi hỏi phải thực hiện nhiều hình thức phân phối.
Bởi vì trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng, sự điều phối, sắp xếp
hợp lí các yếu tố của nền sản xuất xã hội phải do cơ chế thị trờng thực hiện, do đó
các yếu tố của sản xuất tất nhiên phải đợc tham gia vào quá trình phân phối, nh thông
qua thị trờng mà tập chung vốn và điều phối vốn, vận dụng việc phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu để lấy lời Điều dó cũng góp phần hình thành các nguyên tắc phân
phối theo hình thức khác nhau.
1.2.1.Tính tất yếu khách quan tồn tại nguyên tắc phân phối theo lao động.
Nguyên tắc phân phối theo lao động là một tất yếu khách quan trong điều kiện
nớc ta hiện nay đặc biệt trong thành phần kinh tế nhà nớc và kinh tế hợp tác. Đây là
các thành phần kinh tế bao gồm các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng
về t liệu sản xuất ( kinh tế nhà nớc ) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn
của các thành viên bàng nhau (kinh tế tập thể). Các thành phần kinh tế này đều dựa
trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về t liệu sản xuất ở các trình độ khác nhau.
Ngời lao động làm chủ về t liệu sản xuất nên tất yếu cũng làm chủ về phân phối cho
cá nhân. Vì vậy phân phối phải vì lợi ích của ngời lao động.
Có nhiều cách phân phối vì lợi ích của ngời lao động: Phân phối theo nhu cầu,
phân phối bình quân và phân phối theo lao động. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và ngay cả giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản cũng cha thể thực hiện phân
phối theo nhu cầu, hay phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động.
Trong thời kì quá độ ở nớc ta kết cấu kinh tế còn nhiều thanh phần, chúng ta cũng
cha có điều kiện để thực hiện hình thức phân phối theo lao động trên quy mô toàn xã
hội mà chỉ có thể thực hiện trong một bộ phận nền kinh tế mà là các đơn vị kinh tế
thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về t liệu sản xuất mà thôi. Do đó
hình thức phân phối theo lao động có thể coi là hình thức phân phối chủ yếu ở nớc ta
hiện nay.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368

* Tính tất yếu khách quan tồn tại nguyên tắc phân phối theo lạo động thể hiện ở
chỗ:
- Lực lợng sản xuất phát triển cha cao đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo
nhu cầu. Vì phân phối do sản xuất quyết định cho nên Quyền không bao giờ có thể
ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh
tế đó quyết định và Làm tốt, làm nhiều: hởng nhiều; làm xấu, làm ít: hởng ít, có
khi phải bồi thờng lại cho nhà nớc .
- Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động nh lao động trí óc, lao dộng chân
tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn ở nớc ta hiện nay dẫn tới việc trong cùng
một đơn vị thời gian, những lao động khác nhau lại đa những kết quả ít nhiều, tốt xấu
klhác nhau. Do đó phải căn cứ vào lao động mỗi ngời đã cống hiến cho xã hội, dựa
vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác, trong xã hội nớc ta hiện nay hiện vẫn
còn những ngời muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho ngời khác do đó không thể
phân phối bình quân vì nó có hại cho sự phát triển sản xuất. Trong tình hình nh vậy
phân phối theo lao động là phù hợp với xã hội kể trên.
- Cuối cùng lao động cha trở thành nhu cầu của cuộc sống mà vẫn còn là phơng
tiện kiếm sống. Hơn nữa còn những tàn d ý thức t tởng của xã hội cũ để lại nh: Coi
khinh lao động, ngại lao động chân tay, chây lời, làm ít muốn hởng nhiều. Trong
những điều kiện đó cha thể phân phối theo nhu cầu mà phải phân phối theo lao động
để khuyến khích mọi ngời lao động, vì lợi ích thiết thân mà cống hiến cho xã hội,
khắc phục những tàn d t tởng xấu đối với xã hội. Tóm lại phân phối theo lao động là
phù hợp với chế độ công hữu về t liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của
đất nớc. Chính vì vậy phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày
càng phát triển vì nó là hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu ở nớc ta hiện nay.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.3. Tính tất yếu khách quan tồn tại nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và
những đóng góp khác.
Đất nớc ta đang trong thời kì quá độ với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nên tất

yéu có nhiều hình thức sở hữu về t liệu sản xuất và cũng xuất hiện nhiều hình thức
kinh doanh khác nhau.
Đặc điểm nổi bật nhất ở nớc ta trong thời kì này là chúng ta đi lên từ một nền sản
xuất nhỏ nên diễn ra tình trạnh thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình tích tụ tập trung
vốn cha cao, một phần tơng đối vốn hiện nay vẫn nằm rải rác, phân tán trong tay ngời
lao động t hữu nhỏ, t sản nhỏ trong đó có cả dới dạng t liệu sản xuất, vàng bạc, ngoại
hối, tiền mặt Để có thể sử dụng nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta không
thể sử dụng các chính sách áp đặt nh chng thu, trng mua hay đóng góp cổ phần bình
quân vì tất cả các cách làm đó đều đi đến kết quả làm suy yếu lực lợng sản xuất vốn
có của xã hội. Từ sau quyết định hội nghị lần VI ban chấp hành trung ơng ở nớc ta đã
xuất hiện các biện pháp huy động vốn nh một số đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể
đã huy động vốn của dân c dới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp cổ phần không
hạn chế với mức lãi hợp lí Cách làm nh vậy đã có tác dụng đa đợc vốn nhàn rỗi đi
vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng
một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Nh vậy mặc dù sở hữu vốn là t
nhân nhng việc dử dụng vốn đã mang tính xã hội.
*Tính tất yếu khách quan của phân phối theo vốn,tài sản và đóng góp khác thể
hiện ở chỗ:
- Bắt nguồn từ quyền sở hữu, ai có quyền sở hữu theì có qyuền chiếm đoạt một
phần giá trị do sản xuất. Do đó ngời có quyền sở hữu vốn và tài sản thì có quyền
chiếm đoạt một phần giá trị do nguồn vốn và tài sản đó tạo ra.
- Vốn và tài sản trong quá trình sản xuất cũng có công trong việc tạo ra lợi nhuận
do đó phải trích một phần lợi nhuận để phụ thêm vào vốn cũ nhằm mở rộng sản xuất.
Qua đây ta có thể đa đến kết luận là trong diều kiện đất nớc ta hiện nay để phát
triển sản xuất, tiến lên chủ nghĩa xã hội là cần thiết phải áp dụng nguyên tắc phân
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phối theo vốn, tài sản và đóng góp khác. Điều này rất phù hợp bởi vì tơng ứng với
mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định do đó các hình thức
phân phối rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên nó vẫn đảm bảo không làm mất tính

định hớng xã hội chủ nghĩa bởi vì nguyên tắc phân phối theo lao động vẫn là chủ
đạo, các nguyên tắc phân phối khác nh phân phối theo vốn, tài sản và đóng góp khác
vẫn có thể tồn tại song miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế và có tác dụng
thúc đẩy kinh tế phát triển, phù hợp với lợi ích ngời lao động và ngời lao động chấp
nhận nó.
Cùng với việc Đảng và Nhà nớc sửa đổi, bổ xung và công bố rộng rãi chính
sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế, tạo điều kiện pháp lí để cho các thành
phần kinh tế, t nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội đều yên tâm đầu t, phát
triển thì hơn bao giờ hết cần áp dụng nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và
những đóng góp khác vào để kích thích các thành phần kinh tế này phát triển qua đó
đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dới hình thức lợi tức và lợi nhuận.
Cùng với nguyên tắc phân phối theo lao động thì nguyên tắc phân phối theo
vốn, tài sản và những đóng góp khác là một trong những nguyên tắc phân phối tất
yếu khách quan ở nớc ta hiện nay.
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao động
thông qua các quĩ phúc lợi xã hội.
Chúng ta biết rằng ngoài những ngời có sức khoẻ đang làm việc và đợc trả
công theo lao động, những ngời có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để
đợc nhận lợi tức và lợi nhuận thì trong xã hội vẫn còn những ngời vì lẽ này hay lẽ
khác không thể tham gia lao động và đợc trả công của xã hội. Đó là những ngời do
ốm đau, bệnh tật mất sức lao động, ngời già không nơi nơng tựa, đời sống số đông
ngời này đợc gia đình hoặc xã hội bảo đảm. Mặt khác còn có cả một số cán bộ công
nhân viên Nhà nớc và những ngời làm việc trong các hành phần kinh tế cũng không
phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng của
nhà nớc, của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế xã hội mới đảm bảo cuộc sống đợc.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do đó để nâng cao mức sống vật chất, của nhân dân đặc biệt là tầng lớp nhân dân lao
động sự phân phối thu nhập của mọi thành viên xã hội còn đợc thực hiện thông qua
các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.

*Nguyên tắc phân phối ngoài thù công lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã
hội là cần thiết và khách quan bởi các lí do sau đây:
- Đảm bảo cuộc sống cho những ngời không có khả năng lao động.
- Đảm bảo sự bình đẳng trong tiêu dùng và hởng thụ của ngời dân.
- Nớc ta phát triển nền kinh tế thị trờng nên tất yếu dẫn đến phân hóa giàu nghèo từ
đó dẫn đến mâu thuẫn do đó, cần phải giữ ổn định xã hội thông qua trợ cấp xã hội
làm giảm sự phân hóa đó.
- Có một số vật phẩm tiêu dùng trong xã hội cho cá nhân nhng không phân phối cho
cá nhân nào đợc do đó, phải dùng phúc lợi xã hội
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này, nó khẳng định việc xây
dựng các quỹ phúc lợi xã hội là việc làm rất cần thiết và ngày càng có ý nghĩa to lớn
và có thể khẳng định hình thức phân phối ngoài thù lao lao động qua quỹ phúc lợi xã
hội là một hình thức quá độ, nó có vai trò to lớn trong quá trình phát triển xã hội nớc
ta hiện nay.
1.3. Nội dung và hình thức biểu hiện các nguyên tắc phân phối
ở nớc ta hiện nay.
1.3.1. Nội dung và hình thức biểu hiện nguyên tắc phân phối theo lao động :
*Nội dung của nguyên tắc phân phối theo lao động:
Phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân dựa
vào số lợn, chất lợng hay hiệu quả lao động mà họ đã cống hiến cho xã hội không
phân biệt màu da, tôn giáo, nam nữ.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo quy luật này, ngời làm nhiều hởng nhiều, ngời làm ít hởng ít, có sức lao động
mà không làm thì không đợc hởng, lao động có kĩ thuật cao, lao động ở những ngành
nghề đặc thù đều đợc hởng phần thu nhập thích đáng.
Các căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là:
- Số lợng lao động đợc đo bằng thời gian lao động hoặc số lợng sản phẩm đợc làm
ra.
- Trình độ thành thạo lao động và chất lợng sản phẩm làm ra.

- Điều kiện và môi trờng lao động: lao động nặng nhọc, lao động trong hầm mỏ lao
động ở những vùng nhiều khó khăn, xa xôi nh miền núi, hải đảo...
*Phân phối theo lao động ở nớc ta đợc thực hiện theo những hình thức cụ thể sau:
- Tiền công trong các đơn vị sản xuất kinh doanh.
- Tiền thởng.
- Tiền phụ cấp.
- Tiền lơng trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi ngời lao động sẽ đợc phân phối
trực tiếp tất cả những gì họ đã cống hiến cho xã hội mà chỉ đợc hởng phần còn lại
sau khi đã khấu trừ cho các khoản cần thiết sau:
- Phần thay thế những t liệu sản xuất đã hao phí.
- Phần làm quỹ dự trữ và bảo hiểm xã hội.
- Phần về quản lí và quốc phòng.
- Phần thoả mãn các nhu cầu phúc lợi chung.
Các khoản khấu trừ này là cần thiết, tất yếu nhằm hoạt động bình thờng của xã hội
và suy cho cùng các khoản chi này phục vụ lợi ích ngời lao động.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.2. Nội dung và hình thức biểu hiện nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và
những đóng góp khác:
*Nội dung nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác:
Phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác là nguyên tắc phân phối vật
phẩm tiêu dùng căn cứ vào vốn, tài sản của ngời sở hữu để phân phối.
*.Phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác ở nớc ta đợc thực hiện
theo những hình thức cụ thể:
- Lợi nhuận trong các đơn vị phụ thuộc thành phần kinh tế, cá thể, tiểu chủ và thành
phần kinh tế t bản t nhân. Hình thức thu nhập này do hình thức phân phối theo
nguyên tắc lợi nhuận trên vốn tự có mà họ trực tiếp tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Lợi tức cổ phần trong các đơn vị thuộc thành phần kinh tế tập thể và kinh tế t bản
nhà nớc. Hình thức này tơng ứng lợng vốn cổ phần mà họ nhận đợc với t cách là ngời

sở hữu.
- Lợi tức là hình thức thu nhập tơng ứng với vốn cho vay mà hộ nhận đợc với t cách
là ngời sở hữu đã nhờng quyền cho ngời đi vay.
1.3.3.Nội dung và hình thức biểu hiện nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao
động tông qua quỹ phúc lợi xã hội.
*Nội dung nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao động tông qua quỹ phúc lợi xã
hội:
Phân phối ngoài thù lao lao động tông qua quỹ phúc lợi xã hội là nguyên tắc
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằm bảo đảm những nhu cầu tiêu dùng
chung của xã hội và đảm bảo cuộc sống cho một số ngời không có khả năng lao
động (Những ngời tàn tật không có khả năng lao động, những ngời già không nơi n-
ơng tựa, trẻ mồ côi, ngời nghèo khổ so với mức sống chung toàn xã hội ).
*Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội đợc thực
hiện theo những hình thức cụ thể:
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các khoản phúc lợi xã hội từ Nhà nớc, các tổ chức quốc tế, từ t nhân thông qua các
quĩ phúc lợi tập thể và xã hội. Nguyên tắc phân phối này đợc thực hiện thông qua
việc hình thành phân phối và sử dụng các quỹ: quỹ phúc lợi trong các doanh nghiệp
nhà nớc và các hợp tác xã, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ phúc lợi công cộng xã hội, quỹ
trợ cấp khó khăn, quỹ tạo công ăn việc làm, quỹ cứu tế xã hội
1.4. Tác dụng và hạn chế của các nguyên tắc phân phối ở nớc ta
hiện nay và nguuyên nhân của những u nhợc điểm đó.
1.4.1. Tác dụng và hạn chế của nguyên tắc phân phối theo lao động.
Đất nớc chúng ta đang trong quá trình hình thành và quá trình nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa do đó cơ chế phân phối ở nớc ta là cơ chế phân phối
của nền kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa. Nó là sự kết hợp giữa hình thức phân phối
theo nguồn lực của kinh tế thị trờng dới với hình thức phân phối riêng của chủ nghĩa
xã hội thích ứng với điều kiện cụ thể của nớc ta trong đó các nguyên tắc phân phối
của chủ nghĩa xã hội mà tiêu biểu là phân phối theo lao động giữ vị trí chủ đạo.

- Tác dụng của nguyên tắc phân phối theo lao động là hết sức to lớn, nó đảm bảo
định hớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế và do đó đảm bảo con đờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nớc ta. Điều này thể hiện ở chỗ:
+ Phân phối theo lao động là phơng thức phân phối hợp lí, nó có tác dụng thúc
đẩy mọi ngời nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động,
tinh thần và thái độ lao động, khắc phục những tàn d t tởng cũ, củng cố kỉ luật lao
động
+ Phân phối theo lao động còn có tác dụng thúc đẩy mọi ngời nâng cao trình độ
nghề nghiệp, trình độ văn hoá, ổn định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ
chức lao động xã hội
+ Nó tác động mạnh đến dời sống vật chất và văn hoá của ngời lao động, vừa
đảm bảo tái sản xuất sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho ngời lao động phát
triển toàn diện.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
So với tất cả các phơng thức đã có trong lịch sử, phân phối theo lao động là ph-
ơng thức phân phối tiến bộ nhất, công bằng nhất mà cơ sở của sự công bằng xã hội
của hình thức phân phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất.
- Tuy nhiên, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là một sự bình đẳng trong
khuôn khổ pháp quyền t sản, tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá theo
nguyên tác sự trao đổi ngang giá. Sự bình đẳng ở đây đợc hiểu theo nghĩa quyền
của ngời sản xuất là tỉ lệ với lao động mà ngời ấy đã cung cấp , do vậy sự bình đẳng
ở đây còn hạn chế là với một công việc ngang nhau, với một phần tham dự nh nhau
và quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, ngời này vẫn lĩnh nhiều hơn ngời kia, ng-
ời này vẫn giàu hơn ngời kia. Sự hạn chế của phơng thức phân phối theo lao động là
một tất yếu khách quan trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi
nào cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ ngày càng cao
thì khi đó ngời ta mới có thể vợt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của cái pháp quyền t sản
và xã hội mới có thể thực hiện phơng thức phân phối theo nhu cầu, và chỉ khi đó mới
có sự bình đẳng thực sự.

1.4.2. Tác dụng và hạn chế của nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và những
đóng góp khác.
Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ mà tình trạng thiếu
vốn và phân tán vốn là một đặc điểm rõ nét.
- Do đó, tác dụng của nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và đóng góp khác là
rất lớn vì:
+ Nó giúp cho quá trình tích tụ, tập trung vốn đợc đẩy mạnh qua đó thúc đẩy
sản xuất phát triển.
+ Phân phối theo vốn, tài sản và đóng góp khác là nguyên tắc phân phối rất cần
thiết bởi vì nó đảm bảo lợi ích cho các thành phần kinh tế t nhân, cá thể, đảm bảo
cho các thành phần kinh tế này phát triển qua đó tận dụng đợc mọi nguồn lực để phát
triển kinh tế
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Nguyên tắc phân phối này còn có tác dụng thúc đẩy các cá nhân nâng cao tinh
thần lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất và nhạy bén, năng động trong hoạt động
sản xuất kinh doanh bởi vì họ phải trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.
- Tuy nhiên, hạn chế của nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và đóng góp khác
là ở chỗ nó góp phần làm gia tăng hố ngăn cách giàu nghèo. Một số ngời nhờ nắm
trong tay một lợng vốn và tài sản sẽ càng ngày càng trở nên giàu hơn do lợi tức và lợi
nhuận đem lại. Hơn nữa nó cũng thúc đẩy một số ngời có vốn thuê lao động làm thuê
và bóc lột họ. Điều này không phù hợp với mục tiêu cuối cùng của con đờng đi lên
chủ nghĩa xã hội ơ nớc ta nhng vì nền kinh tế đất nớc ta đang xây dựng là nền kinh tế
thị trờng, khi mà nền kinh tế Nhà nớc còn đang thiếu vốn, số ngời cha có việc làm
còn nhiều thì đây là điều hiển nhiên.
1.4.3. Tác dụng và hạn chế của nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao động
thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.
- Đây là nguyên tắc phân phối dịnh hớng xã hội chủ nghĩa cho nên nó có tác dụng
rất lớn đối với điều kiện đất nớc ta hiện nay.

+ Nguyên tắc phân phối này phát huy đợc tính tích cực lao động cộng đồng của
mọi thành viên trong xã hội nó góp phần nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt
đối với những ngời có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, làm giảm sự chênh lệch quá
đáng giữa các thành viên trong cộng đồng.
+ Nó góp phần giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng ché độ xã hội mới.
+ Ngoài ra nguyên tắc này là sự bổ xung cần thiết, quan trọng đối với nguyên tắc
phân phối theo lao động. Nó đảm bảo đời sống cho những ngời không có khả năng
lao động và nâng cao bình đẳng trong tiêu dùng hởng thụ.
- Tuy nguyên tắc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi ngoài thù lao động có tác
dụng rất lớn đặc biệt trong việc xây dựng đất nớc theo mục tiêu xã hội công bằng dân
chủ, văn minh nhng trong điều kiện hiện nay nó cũng còn một số hạn chế. Đất nớc ta
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
còn là một đất nớc có nền kinh tế kém phát triển, do đó quỹ phúc lợi xã hội không đủ
lớn để đảm bảo cuộc sống cho một bộ phận thành viên trong cộng đồng còn khó
khăn. Hơn nữa, đôi khi nó làm ảnh hởng đến tinh thần, thái độ, tính chủ động, sáng
tạo của ngời lao động và làm cho họ ỷ lại. Tỷ lệ các quỹ phúc lợi lao động đôi khi
còn cha hợp lí làm ảnh hởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Nhng với điều kiện n-
ớc ta còn đanh trong thời kì xây dựng ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, khi mà
nền sản xuất còn cha phát triển và lao động còn cha là nhu cầu của mọi ngời thì điều
này xảy ra cũng là điều hợp lô gíc, có điều chúng ta cần có biện pháp nhằm hạn chế
một số mặt tiêu cực và phát huy đợc những mắt tích cực của nguyên tắc phân phối.
1.5. Kinh nghiệm về việc nghiên cứu và giải quyết quan hệ
phân phối trong nền kinh tế một số nớc.
1.4.1. Những đột phá về lí luận phân phối ở Trung Quốc sau 20 năm cải cách và
bài học kinh nghiệm.
Nhìn chung, trớc khi tiến hành cải cách nền kinh tế tình hình phân phối thu
nhập ở Trung Quốc cũng tồn tại một số hạn chế không nhỏ. Phân phối theo vốn, tài
sản chỉ tồn tại ở hình thức thu nhập từ lãi suất tiết kiệm, thu nhập lao động đợc bình
quân ở mức thấp nhằm tăng tĩch luỹ, quan niệm bình quân chủ nghĩa gây nên sự

bất bình đẳng trong sự bình đẳng. Tuy nhiên, bắt đầu từ khi cải cách nền kinh tế
Trung quốc đã đạt đợc những thành tựu to lớn: GDP bình quân đầu ngời đạt khoảng
800USD, tổng thu nhập quốc dân vợt qua ngỡng 1000 tỉ USD, tốc độ tăng trởng GDP
bình quân trong thời gian 1979 1997 là 9.8%, nhiều ngành kinh tế phát triển tột
bậc hàng hoá đợc cung cấp đầy đủ đảm bảo quyền lợi cho ngời tiêu dùng mức tiêu
dùng bìng quân hàng năm từ năm 1978 1997 là 7.3%. Những thành công này gắn
liền với những đột phá về lí luận kinh tế mà trong đó những đột phá về lĩnh vực phân
phối thu nhập đóng vai trò quan trọng có tác dụng khuyến khích, là động lực và giải
quyết công bằng xã hội cho ngời lao động nó đợc thể hiện trên bốn phơng diện
chính:
- Trung Quốc đã đột phá vào quan niệm bình quân chủ nghĩa, xây dựng lí luận cho
phép một số vùng, một số ngời đợc giàu lên trớc khuyến khích ngời giàu trớc giúp đỡ
20

×