Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.39 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc Cách mạng Khoa học và Công nghệ đang phát triển với những bước
tiến nhảy vọt nhằm đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ
nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức. Nó biến đổi nhanh chóng và sâu sắc
đến tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, trong đó có giáo dục. Vấn đề toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế vừa tạo ra quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình
đấu tranh gay gắt của các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. bảo tồn bản sắc văn hoá
và truyền thống dân tộc.
Những xu thế chung nêu trên đã tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong giáo dục
mà nổi bật nhất là vấn đề đổi mới giáo dục đang diễn ra trên toàn cầu.
Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ của giáo
dục và đào tạo "Giáo dục và đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển biến
nhanh chóng về hiệu quả và chất lượng đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo
nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường nhằm nhanh chóng đưa giáo dục -
đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của đất nước".
Ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Song bên cạnh những thuận lợi và cơ hội thì chúng ta
cũng gặp không ít khó khăn và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng
và Nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển, đó là
"Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển".
Để đi tắt và đón đầu về phát triển kinh tế - xã hội nhằm theo kịp các nước
phát triển thì vai trò của giáo dục ngày càng được khẳng định. Năng lực của đội
ngũ ngành giáo dục quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục; chất lượng và
hiệu quả giáo dục sẽ quyết định năng lực đội ngũ nhân lực thực hiện mục tiêu
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững.
1
Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW được thành lập tháng 5/2006 trên
cơ sở trường Cao đẳng Sư phạm Nhạc - Họa TW, một cơ sở giáo dục hàng đầu
của cả nước trong việc đào tạo đội ngũ giáo viên Âm nhạc và Mỹ thuật cho các


trường phổ thông. Cùng chung sức vì sự nghiệp chấn hưng giáo dục nước nhà,
trên tinh thần tiếp thu và thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về
giáo dục - đào tạo, song song với việc xây dựng, đầu tư tài lực, vật lực, xây dựng
môi trường giáo dục; phát triển hệ thống thông tin giáo dục và phát triển đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý, trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW đặc biệt chú
trọng tới việc xây dựng và phát triển chất lượng đào tạo.
Công tác đào tạo trong trường đại học có vị trí rất quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, góp phần xây dựng chiến lược con người, cung cấp
nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước. Đào tạo và quản lý hoạt động đào tạo
là những chức năng chính trong nhà trường. Chúng tồn tại song song, hỗ trợ và bổ
sung cho nhau trong suốt quá trình đào tạo. Trong công tác đào tạo thì việc quản
lý hoạt động dạy học là nhân tố vô cùng quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo
của nhà trường.
Phòng Đào tạo là đơn vị được Đảng uỷ, Ban Giám hiệu trường Đại học Sư
phạm Nghệ thuật TW giao trọng trách thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động dạy
học của đội ngũ giảng viên.Việc nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động dạy
học là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết đối với phòng Đào tạo nói riêng và
trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW nói chung nhằm đáp ứng nhiệm vụ được
giao và mục tiêu lâu dài của Nhà trường cũng như yêu cầu thực tiễn của xã hội
hiện nay.
Chính vì vậy, với tư cách là một chuyên viên phòng Đào tạo, tôi chọn
nghiên cứu vấn đề "Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo
trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW " làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao
học chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá lý luận khoa học về quản lý giáo dục và phân tích
thực trạng quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật TW, đề xuất một số biện pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý hoạt động dạy học ở trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý giáo dục trong trường đại học
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo trường Đại học Sư
phạm Nghệ thuật TW.
4. Giới hạn nghiên cứu
4.1 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy học trong nhà trường Đại học bao gồm hoạt động dạy của
giảng viên và hoạt động học của sinh viên. Do thời gian thực hiện luận văn có giới
hạn, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục, chúng tôi tập
trung nghiên cứu công tác quản lý của phòng Đào tạo về hoạt động dạy của giảng
viên trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW.
4.2 Giới hạn khách thể điều tra
Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, Trưởng phòng Ban, Khoa, Tổ trưởng
chuyên môn và một số cán bộ giảng viên của trường.
5. Giả thuyết khoa học
Xuất phát từ cơ sở lý luận và nghiên cứu thực tiễn, đề tài đề xuất các biện
pháp quản lý hoạt động dạy học cho phòng Đào tạo một cách khoa học, hiệu quả
và khả thi thì chất lượng dạy học nói riêng và chất lượng quản lý đào tạo nói
chung của Nhà trường sẽ đảm bảo được tính chuyên nghiệp, phát triển và hiện đại,
đáp ứng yêu cầu giáo dục - đào tạo của nhà trường và yêu cầu xã hội trong xu thế
hội nhập hiện nay.
3
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1 Hệ thống hóa, phân tích các vấn đề lý luận về quản lý, quản lý giáo dục và
quản lý hoạt động dạy học trong trường Đại học.
6.2 Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học của phòng
Đào tạo trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW.
6.3 Đề xuất và lý giải các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy

học cho phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu, đọc, phân tích, khái quát hóa, so sánh, tổng
hợp các thông tin, tư liệu để xác định cơ sở lý luận và những vấn đề chung có liên
quan đến đề tài:
- Các văn kiện, tài liệu lý luận của Đảng, Nhà nước về công tác quản lý
giáo dục.
- Các văn bản pháp quy như: Chỉ thị, thông tư, quy chế, hướng dẫn của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về công tác quản lý hoạt động dạy học.
- Các cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tế của các nhà nghiên cứu khoa
học, các nhà quản lý giáo dục đề cập tới những vấn đề chung của quản lý hoạt
động dạy học trong nước, từ đó đề tài rút ra các vấn đề có liên quan đến việc nâng
cao hiệu quả hoạt động dạy học cho phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật TW.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát việc chỉ đạo, điều hành hoạt
động dạy học của phòng Đào tạo, việc thực hiện hoạt động dạy của giảng viên, sự
quan tâm của cấp lãnh đạo tới việc quản lý hoạt động dạy học trong trường…
- Phương pháp phỏng vấn: Hỏi trực tiếp CBQL, cán bộ phòng Đào tạo,
giảng viên về tình hình dạy học và việc thực hiện công tác QL hoạt động dạy học.
4
- Phương pháp điều tra bằng Anket: Xây dựng các mẫu phiếu điều tra
nhằm thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu, điều tra xã hội học đối với lãnh
đạo, cán bộ quản lý và một số giảng viên trong trường.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia : Tiếp xúc với một số chuyên gia, cán
bộ quản lý giáo dục, nhà nghiên cứu khoa học giáo dục và giảng viên giỏi để tìm
ra những kết luận thỏa đáng trong việc đánh giá thực trạng và xin ý kiến đóng góp
chỉnh sửa về việc đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy
học cho phòng Đào tạo trường ĐHSP Nghệ thuật TW.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Phân tích các văn bản hướng dẫn
hoạt động dạy học, tổng hợp các tư liệu, tài liệu minh chứng, những thuận lợi, khó
khăn về quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo, qua đó rút ra những kết
luận làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp nhằm cải tiến công tác quản lý này.
7.3 Nhóm phương pháp nghiên cứu bổ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục, hệ số
tương quan thứ bậc Spiếcman… xử lý, đánh giá số liệu thu được
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung cơ bản của luận văn thể hiện 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo
trong các trường đại học
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo
trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo
trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA PHÒNG
ĐÀO TẠO TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO)
năm 1994 đã từng nhận định “Không có một sự tiến bộ nào, sự thành đạt nào có
thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó.Và
những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết
tiến hành sự nghiệp giáo dục một cách hiệu quả thì số phận quốc gia đó xem như
đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản”.
Trong thế kỷ XXI, sự nghiệp phát triển giáo dục của bất kỳ quốc gia nào
trên thế giới cũng chịu sự tác động của nền kinh tế tri thức, sự phát triển như vũ
bão của khoa học và công nghệ, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế

và cơ chế thị trường. Điều đó tạo ra sự đổi mới sâu sắc, đặc biệt là tư duy và quản
lý trong giáo dục toàn cầu.
1.1.1 Trên thế giới
Nguyên tổng thống Mỹ G. Bush trong chiến dịch tranh cử đã tự xưng mình
là “Tổng thống giáo dục” và cuộc thăm dò dư luận mới đây của Viện Gallup đã
đặt giáo dục cao hơn cả công nghiệp và quân đội. Đó là một nhân tố chủ yếu của
sự hùng mạnh và sự phồn vinh của đất nước. Để khẳng định Hoa Kỳ luôn là một
cường quốc về tiềm lực kinh tế - khoa học công nghệ, cựu Tổng thống Mỹ Bin
Clinton trong Thông điệp Liên Bang ngày 4/2/1997 đã đề ra những ý tưởng về
một nền giáo dục tương lai cho nước Mỹ khi bước sang thế kỷ XXI “…Một đứa
trẻ chào đời tối hôm nay (1997) sẽ không có ký ức gì về thế kỷ 20. Tất cả những
gì đứa trẻ sẽ biết đến về nước Mỹ sẽ là do những gì chúng ta giờ đây đang làm để
xây dựng một thế kỷ mới, một nền giáo dục mới…Ông cho rằng “Giáo dục là vấn
đề an ninh quốc gia tối quan trọng đối với tương lai chúng ta…” [1]
6
Ngay cả nguyên Tổng thống Pháp Francois Mitterrand – trong chính sách
của mình cũng đặt ví trí của giáo dục theo ý kiến của nhà hoạt động nhà nước của
thế kỷ trước (người Mỹ - La tinh)- D.F Samiento “Goveruar – Educar” “Cai trị là
giáo dục” (To govern – To educate) [1].
Ở Nga, Hiến pháp và Luật Giáo dục Liên Bang Nga được cải cách, sửa đổi,
điều chỉnh cho phù hợp với xu thế phát triển giáo dục và hội nhập quốc tế.
Trung Quốc trong quá trình cải cách mở cửa đã thiết lập mối quan hệ “Giáo
dục - Nhân lực - Nhân tài - Hiện đại hóa”. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIV đã nêu “Sự phát triển tương lai của Trung
Quốc, sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa suy cho cùng phải dựa vào
nhân lực, mà nền tảng của việc đào tạo nhân lực là giáo dục”[1]. Quốc gia khổng
lồ này đang đặt cho giáo dục sứ mệnh “Chuyển gánh nặng dân số thành cường
quốc nhân lực - nhân tài để cả nước bước vào giai đoạn mới”. Hiện nay Trung
Quốc đang cố gắng nâng cao chất lượng giáo dục nhằm thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế tri thức, chấn hưng đất nước bằng khoa học và giáo dục.

“Hai trăm tri thức hàng đầu đã làm cho nước Pháp nổi lên ở Châu Âu. Kinh
tế Hàn Quốc cất cánh được là dựa vào hơn 100 tri thức cao cấp” (Nhận xét của
Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc) [1]. Từ một đất nước nghèo về tài nguyên, chịu sự
tàn phá nặng nề bởi cuộc chiến tranh thập niên 50 thế kỷ trước, tuy vậy Hàn Quốc
đã có những cố gắng vượt bậc trong kinh tế và trở thành thành viên thứ 29 của tổ
chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), có nền kinh tế và công nghệ đứng thứ
11 trên thế giới. Hàn Quốc có được như ngày hôm nay đã trải qua hơn 20 năm đầu
tư mạnh mẽ cho giáo dục - đào tạo. Từ năm 2001, Hàn Quốc cơ cấu lại bộ máy
quản lý nhà nước về giáo dục, lập Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực, năm
2003 thành lập Hội đồng canh tân giáo dục trực thuộc Tổng thống với khẩu hiệu
“Những cuộc cải cách giáo dục và sự sáng tạo nhà máy năng lượng sản sinh tri
thức và văn hóa”. [1]
7
Những quốc gia phát triển Nhật Bản, Singapore, Canađa, Ôtxtrâylia… đã
và đang luôn quan tâm đến giáo dục phải là ở hàng đầu và đóng vai trò chủ chốt
trong phát triển xã hội tương lai.
1.1.2 Tại Việt Nam
Nhận thức được vai trò giáo dục đối với sự phát triển của đất nước, Đảng,
Nhà nước, Chính phủ và toàn dân Việt Nam coi giáo dục là quốc sách hàng đầu,
phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy
sự nghiệp CNH - HĐH, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người -
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam các kỳ VIII, IX, X đều nhấn mạnh đổi mới toàn diện,
sâu sắc, triệt để có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo trong đó đề xuất các
giải pháp đổi mới quản lý giáo dục (QLGD) luôn được coi là khâu đột phá. Nghĩa
là tập trung giải quyết tốt việc đổi mới QLGD sẽ tạo cú hích làm chuyển động
toàn hệ thống. Bộ GD&ĐT, các Trường, Viện nghiên cứu, các Tổ chức xã hội…
đã có nhiều cuộc hội thảo, đề tài nghiên cứu khoa học, bài viết về QLGD nói
chung, chiến lược phát triển giáo dục, chất lượng quản lý Nhà nước về giáo dục,
quản lý dạy học, đổi mới phương pháp dạy học… như : Hệ thống giáo dục hiện

đại trong những năm đầu thế kỷ XXI (Việt Nam và thế giới) do GS.TSKH Vũ
Ngọc Hải, PGS.TS Trần Khánh Đức đồng chủ biên. NXB giáo dục, Hà Nội,
2003. Quản lý giáo dục do PGS.TS Bùi Minh Hiền chủ biên, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2006.
Các công trình về quản lý hoạt động dạy học, đổi mới nội dung và phương
pháp dạy học của các GS Trần Bá Hoành, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, PGS.TS
Trần Kiểm, PGS.TS Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Cảnh Toàn…
Các kiến nghị của nhóm Giáo sư Hoàng Tụy (2004), nhóm Tri thức Việt
kiều (2005, 2008), Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (2006), của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2007), nhóm của Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn
Thị Bình (2008)
8
Bên cạnh các bài viết, công trình, đề tài nghiên cứu vấn đề giáo dục nói
chung, nổi lên xu thế nghiên cứu về quản lý giáo dục. “Đổi mới quản lý giáo dục”
chính là một trong những giải pháp chiến lược mang tính quyết định, đột phá của
Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam đến năm 2020. Nhiều luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã thể hiện mạnh mẽ xu hướng nghiên cứu này như:
Các biện pháp QL dành cho Hiệu trưởng, Giám đốc các Viện, Trung tâm,
các cấp lãnh đạo quản lý về QL dạy học, QL nâng cao chất lượng đào tạo, chất
lượng dạy học. QL theo yêu cầu đổi mới GD, QL nâng cao chất lượng đào tạo
nghề như : Biện pháp QL HĐDH đáp ứng yêu cầu đổi mới GD của Hiệu trưởng
các trường THPT Thành phố Ninh Bình của Nguyễn Hữu Tính; Đổi mới công tác
bồi dưỡng năng lực QL trường học cho Hiệu trưởng các trường THCS ở trường
Cán bộ QLGD và Đào tạo tỉnh Phú Thọ của Hà Xuân Hùng; Quản lý nâng cao
chất lượng dạy học tiếng Anh cho cán bộ công chức khối hành chính sự nghiệp
của thành phố Hải phòng trong thời kỳ hội nhập của Nguyễn Thị Ngân v.v
Các đề tài về QLGD dành cho các tổ chức, đơn vị làm chức năng quản lý
khác như phòng Giáo dục, phòng Đào tạo, Khoa, tổ Chuyên môn: Biện pháp QL
của phòng giáo dục đào tạo về hoạt động dạy học theo yêu cầu đổi mới phương
pháp Tiểu học ở Thị xã Cao Bằng của Sầm Thu Oanh; Biện pháp QL hoạt động

dạy học ngoại ngữ của chủ nhiệm bộ môn trường CĐSP Trung Ương của Bùi Phi
Yến; Biện pháp QL hoạt động dạy học của phòng Đào tạo trường Cao đẳng Sư
phạm Thái Nguyên của Nguyễn Thị Thu Thơm v.v
Đặc biệt, những đề tài QLGD dành cho các trường cao đẳng, đại học thể
hiện nhận thức sâu sắc của các tác giả khi có cùng quan điểm rằng cần phải đổi
mới toàn diện, mạnh mẽ QLGD đại học để có được nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình CNH - HĐH đất nước,
bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập quốc tế. Có thể kể đến những đề tài về
giải pháp (biện pháp) QL nâng cao (tăng cường) chất lượng đào tạo, đổi mới QL
9
hoạt động dạy học… của các tác giả Lê Thị Thu Huyền, Hoàng Thu Hoài, Thái
Thị Bích Vân ở Hải Phòng; Tạ Thị Bích Liên, Nguyễn Thị Minh ở Hà Nội; Lê
Minh Hiến, Trần Văn Hùng ở Tây Nguyên; Nguyễn Trường ở Đắk Lắk; Trần
Văn Cường ở Quảng Ninh v.v
Quán triệt tinh thần của Chỉ thị 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ
tướng chính phủ và Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/1/2010 của Ban cán sự
Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn
2010-2012 và xây dựng chiến lược 2011-2015 hướng tới năm 2020, Trường
ĐHSP Nghệ thuật TW đã, đang thực hiện công tác đổi mới hoạt động giáo dục về
mọi mặt, đặc biệt chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy chúng
tôi đã chọn đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo
trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW " làm hướng nghiên cứu và đề xuất
một số biện pháp quản lý giáo dục nhằm góp chung tinh thần đổi mới, nâng cao
công tác quản lý giáo dục đối với Nhà trường.
1.2 Những vấn đề chung
1.2.1 Quản lý, chức năng của quản lý
Trong toàn tập Các Mác - Ănghen toàn tập chỉ rõ “Quản lý xã hội một cách
khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những
hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng
đắn những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho nó hoạt động và

phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”[6]. Ngày nay, có rất nhiều cách hiểu và
giải thích thuật ngữ quản lý. Kinh tế học, hành chính học, luật học, điều khiển học,
xã hội học v.v… đều sử dụng thuật ngữ quản lý với nội dung phù hợp với đối
tượng nghiên cứu của mình.
F.V. Taylor (1856- 1915) người Mỹ cho rằng : Quản lý là một nghệ thuật,
biết rõ chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt
nhất, rẻ nhất.
10
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động hệ thống
nhằm đạt được mục tiêu nhất định” [19]
Theo tác giả Trần Kiểm “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn
lực (nhân lực, vật lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu
nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [21]
Tác giả Hồ Văn Vĩnh và Trần Quốc Thành có cùng quan niệm : Quản lý là
sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
nhằm đạt tới mục tiêu, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách
quan.
Như vậy có thể nói quản lý là phương thức tốt nhất đề đạt mục tiêu chung
của một nhóm người, một tổ chức, nói rộng hơn là một quốc gia hay toàn thế giới.
Khi đề cập vai trò của quản lý, Các Mác đã viết: “Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự
điều khiển bản thân, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” [6]. Hoạt động quản lý bắt
nguồn từ sự phân công hợp tác lao động. Quản lý – đó là hoạt động chăm sóc, giữ
gìn, sửa sang và sắp xếp để cho cộng đồng theo sự phân công hợp tác lao động
được ổn định và phát triển.
Quản lý là một loại lao động đặc biệt, vừa có tính khoa học vừa có tính
nghệ thuật. Quản lý được xem là một nghề nhằm dẫn dắt trong một hoàn cảnh
nhất định, một nhóm người để đạt được các mục tiêu phù hợp với mục đích của tổ
chức. Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy. Có tổ chức thì mới phân

định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mỗi quan hệ của những người
tham gia hoạt động chung. Đó là cơ sở hình thành các chức năng quản lý. Từng
chức năng có tính độc lập tương đối nhưng chúng được liên kết hữu cơ trong một
hệ thống nhất quán.
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục, quản lý bao gồm 4 chức năng cơ bản
liên quan mật thiết với nhau. Đó là kế hoạch, tổ chức, kiểm tra, đánh giá và thông
11
tin là trung tâm của quản lý. Có thể mô hình hoá mối quan hệ giữa các chức năng
như sau:
Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa các chức năng của quản lý
1.2.2 Quản lý giáo dục
Cũng như khái niệm quản lý, quản lý giáo dục được hiểu theo nhiều góc
độ, nhiều quan niệm khác nhau. Trong cuốn cơ sở lý luận của khoa học quản lý
giáo dục, tác giả M.L. Konđacốp đã định nghĩa “QLGD là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt
xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung
của xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục” [26].
Tác giả Nguyễn Quốc Chí cho rằng “QLGD thực hiện chức năng ổn định,
duy trì đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành của nền kinh tế - xã hội. QLGD nhằm
phối hợp với các ngành, các lực lượng xã hội tiến hành công tác xã hội hóa giáo
dục, huy động các nguồn lực và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
QLGD thực hiện nhiệm vụ này thông qua việc thực hiện 4 chức năng: Lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra” [8].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “QLGD thực chất là tác động một cách
khoa học đến nhà trường nhằm tổ chức tối ưu các quá trình dạy học, giáo dục thể
chất, theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, tiến tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái chất lượng mới” [27].
Sự thực thuật ngữ QLGD được xem xét dưới 2 cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô
và cấp vi mô. QLGD cấp vĩ mô là quản lý một nền/hệ thống giáo dục. Ở cấp độ

12
Kế hoạch hoá Tổ chức hoá Chỉ đạo thực hiện
Thông tin phục vụ quản lý
Kiểm tra
này, QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống và hợp quy luật.…) của chủ thể quản lý giáo dục đến tất cả các
mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả việc tổ
chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh các nguồn lực (nhân lực, vật
lực, tài lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận hành đạt mục tiêu phát triển
giáo dục.
QLGD cấp vi mô xem như quản lý trường học/tổ chức giáo dục cơ sở. Ở
cấp độ này QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật.…) của chủ thể QLGD một
cơ sở giáo dục đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể người học và các lực
lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục.
Như vậy, QLGD thực chất là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch hợp quy luật của những người làm công tác QLGD nhằm làm cho hệ thống
giáo dục vận hành theo đường lối và nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong đó quản lý công tác đào tạo
mà hạt nhân là quản lý hoạt động dạy học, giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, nhằm
thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng
yêu cầu về số lượng - chất lượng con người cho sự vận hành tối ưu xã hội - kinh tế
và sự phát triển của đất nước.
QLGD có đặc điểm là bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối
tượng bị quản lý (gọi tắt là đối tượng quản lý). QLGD trước hết và thực chất là
quản lý con người. Do đặc thù riêng của ngành quản lý, quản lý con người có
nghĩa là đào tạo, bồi dưỡng, chăm sóc việc hình thành, thực hiện nhân cách và tái
sản xuất nguồn lực con người. Đối tượng quản lý ở đây là những ai nhận được sự
giáo dục và đào tạo. Quản lý việc giáo dục và đào tạo con người là loại hình quản

lý khó khăn, phức tạp, đòi hòi tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Ngày nay,
QLGD đã phát triển thành một ngành khoa học có hệ thống lí luận riêng của nó.
13
1.2.3 Quản lý Nhà trường, quản lý trường Đại học
1.2.3.1 Quản lý Nhà trường
Nhà trường là một thiết chế tổ chức chuyên biệt trong hệ thống tổ chức xã
hội thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát
triển của xã hội. Đó là một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác đào tạo,
giáo dục thế hệ trẻ và được coi là “tế bào của hệ thống giáo dục quốc dân”. Nhà
trường là một khách thể cơ bản của tất cả các cấp QLGD và là một hệ thống độc
lập tự quản của xã hội. Các cấp QLGD tồn tại trước hết cốt lõi là vì chất lượng
hiệu quả hoạt động của nhà trường mà trung tâm là hoạt động dạy học. Nhà
trường là nơi thực hiện hóa mọi chủ trương, đường lối, chính sách giáo dục của
Đảng, Nhà nước các cấp, đồng thời cũng là nơi kiểm chứng những vấn đề lý luận
Khoa học giáo dục nói chung, Khoa học quản lý giáo dục nói riêng. Đó là trung
tâm giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật của cộng đồng và xã hội. Vì thế, người
ta coi Nhà trường là vầng trán của cộng đồng và xã hội, là bộ mặt phản ánh nền
giáo dục của một đất nước.
Xét về bản chất, Nhà trường là tổ chức mang tính Nhà nước - xã hội - sư
phạm, thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội, bản chất sư phạm. Cho nên, một
cách khác, có thể hiểu:
Quản lý Nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này
đòi hòi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý
lên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội -
kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên.
Hoặc: Quản lý nhà trường là tổ chức hoạt động dạy học…Có tổ chức được hoạt
động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường Việt Nam xã hội chủ
nghĩa mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng
và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất
nước. Mặt khác, quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người. Điều đó tạo

cho các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt
14
chẽ không chỉ bởi cơ chế hoạt động theo những quy luật/tính quy luật khách quan
của một tổ chức xã hội - nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động
quản lý của chính bản thân người dạy và người học.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát : Quản lý nhà trường (một cơ sở
giáo dục) là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ
thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên, người
học…) và các lực lượng xã hội trong, ngoài nhà trường nhằm đưa các hoạt động
giáo dục và dạy học của nhà trường đạt tới mục tiêu giáo dục.
1.2.3.2 Quản lý trường Đại học
Tại điều 4 điều lệ trường Đại học việc quản lý nhà nước đối với trường đại
học: trường đại học chịu sự quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của Ủy ban Nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nơi Trường đặt trụ sở.
Mục tiêu đào tạo của trường đại học là đào tạo nhân lực có phẩm chất
chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng
với trình độ đào tạo, có sức khỏe, có năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội,
tự tạo việc làm cho mình và cho những người khác, có khả năng hợp tác bình
đẳng trong quan hệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc quản lý trường đại học cũng như quản lý các trường, các cơ sở giáo
dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, về tổng thể là:
+ Quản lý việc tham gia thiết lập và thực hiện các chế định giáo dục và đào
tạo (nội quy, quy định …trong nhà trường);
+ Quản lý đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên và người học (bộ
máy tổ chức và nhân lực dạy học);
+ Quản lý hoạt động huy động, phân bổ và sử dụng nguồn tài lực, vật lực
giáo dục;
+ Quản lý hoạt động xây dựng và phát huy tác dụng của môi trường giáo
dục (còn gọi là quản lý các mối quan hệ nhà trường);

15
+ Quản lý hệ thống thông tin giáo dục (quản lý hoạt động ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục)
1.3 Hoạt động dạy học
1.3.1 Hoạt động dạy học
Tri thức nhân loại luôn luôn phát triển và mỗi ngày một hoàn thiện hơn.
Khái niệm dạy học cũng dần dần được mở rộng về nội hàm để thích ứng với
những yêu cầu về tiêu chuẩn nhân cách người học do mỗi hình thái xã hội quy
định và để phù hợp với sự phát triển của các phương thức dạy học. Trên cơ sở lý
luận triết học Mác Lê nin về hoạt động nhận thức của con người, nhiều nhà khoa
học đã tiếp cận khái niệm dạy học từ cơ sở lý luận của quá trình giáo dục tổng thể.
Dạy học – một bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn – là
quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội
tri thức khoa học, những kỹ năng và kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, để
trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng
các phẩm chất của nhân cách người học. Như vậy dạy học là khái niệm chỉ quá
trình hoạt động chung của người dạy và học. Quá trình này là một bộ phận hữu
cơ của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó:
+ Hai hoạt động dạy và học tồn tại song song và phát triển trong cùng một
quá trình thống nhất, chúng bổ sung cho nhau, chế ước nhau và là đối tượng tác
động chủ yếu của nhau, nhằm kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể để
cùng phát triển;
+ Người dạy luôn luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng tổ chức,
điều khiển và thực hiện các hoạt động truyền thụ tri thức, kỹ năng và kỹ xảo đến
người học một cách có khoa học;
+ Người học sẽ ý thức và tổ chức quá trình tiếp thu một cách tự giác, tích
cực, độc lập và sáng tạo hệ thống những kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo nhằm hình
thành năng lực, thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc học (với tư cách là chủ
thể sáng tạo) và hình thành nhân cách cho bản thân.
16

1.3.2 Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học là sự tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý
dạy học đến chủ thể dạy học (người dạy và người học) bằng các giải pháp phát
huy tác dụng của các phương tiện quản lý dạy học như chế định GD&ĐT, bộ máy
tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn tài lực và vật lực dạy học, môi trường dạy học
và thông tin dạy học nhằm đạt được mục đích quản lý dạy học.
Cũng có thể hiểu: QLDH là những tác động hợp quy luật của chủ thể quản
lý dạy học (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý dạy học (đội ngũ giáo viên, nhân
viên, người học và các lực lượng khác) nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực giáo
dục của nhà trường, của cộng đồng và xã hội để đưa hoạt động dạy học đến mục
tiêu (xây dựng và phát triển nhân cách người học)
1.3.3 Mối quan hệ giữa HĐDH và Quản lý HĐDH
Để đạt được mục đích dạy học, người dạy và người học phải cộng tác
trong việc phát huy các yếu tố chủ quan của họ (phẩm chất và năng lực cá
nhân) nhằm xác định mục đích nội dung, lựa chọn phương pháp, tìm kiếm các
hình thức, tận dụng các phương tiện và điều kiện, đánh giá kết quả thu
được…Các công việc trên của họ được thực hiện theo một kế hoạch, có sự tổ
chức, tuân thủ sự chỉ đạo và được sự kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý
dạy học. Cụ thể hơn, trong quá trình dạy học xuất hiện đồng thời các hoạt
động của chủ thể quản lý dạy học, của người dạy và của người học như sau:
+ Chủ thể quản lý dạy học tác động đến người dạy và người học thông
qua việc thực hiện các chức năng: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra;
+ Người dạy: vừa chịu sự tác động của chủ thể quản lý dạy học; vừa tự
kế hoạch hóa HĐDH, tự tổ chức việc dạy và tổ chức việc học cho người học,
tự chỉ đạo hoạt động dạy của mình và chỉ đạo hoạt động học của người học.
đồng thời tự kiểm tra đánh giá kết quả dạy của mình và kiểm tra đánh giá kết
quả học của người học;
17
+ Người học: tự xây dựng kế hoạch, tự tổ chức, tự chỉ đạo và tự kiểm tra
hoạt động học của mình theo kế hoạch, cách thức tổ chức, sự chỉ đạo và

phương thức kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý dạy học và của người dạy.
Chủ thể quản lý dạy học cần sử dụng những phương tiện chủ yếu gồm
chế định GD &ĐT đối với dạy học, bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học,
nguồn tài lực và vật lực dạy học, môi trường và hệ thống thông tin dạy học để
thực hiện mục đích dạy học. Các phương tiện chủ yếu nói trên là các yếu tố
khách quan đối với người dạy và người học. Các yếu tố đó chỉ có thể có được
nhờ hoạt động quản lý của chủ thể quản lý cấp vĩ mô và cấp vi mô.
Bằng các luận cứ nêu trên, ta nhận thấy mỗi quan hệ giữa quản lý dạy
học và hoạt động dạy học là:
+ Chủ thể dạy học đặt ra yêu cầu cho chủ thể quản lý phải tạo ra các
phương tiện thực hiện mục đích dạy học để họ cộng tác tối ưu trong việc phát
huy các yếu tố chủ quan nhằm quản lý và tự quản lý dạy học.
+ Chủ thể quản lý dạy học vừa có trách nhiệm tạo ra các phương tiện
thực hiện mục đích dạy học vừa phải coi chúng là các phương tiện quản lý
của chính mình để sử dụng trong quản lý HĐDH.
Có thể mô tả trực quan mối quan hệ giữa HĐDH với quản lý HĐDH
bằng mô hình sau:
18
Sơ đồ 1.2 Mối quan hệ giữa HĐDH với quản lý HĐDH
1.3.4 Hoạt động dạy học trong trường đại học.
Nhiệm vụ dạy học ở đại học quy định những yêu cầu về bồi dưỡng hệ
thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo gắn với nghề nghiệp tương lai của sinh viên; phát
triển ở họ năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy nghề nghiệp;
trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học, lý tưởng, ước mơ, hoài bão nghề
nghiệp và những phẩm chất đạo đức, tác phong của người cán bộ khoa học, kỹ
thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, hành chính…
19
MỤC ĐÍCH DẠY HỌC
(TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH NGƯỜI HỌC)
SDCASCDS

YẾU TỐ CHỦ
QUAN: NĂNG LỰC
VÀ PHẨM CHẤT
NGƯỜI DẠY
CỘNG TÁC TỐI ƯU TRONG VIỆC
QUẢN LÝ VÀ TỰ QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG TRUYỀN ĐẠT VÀ LĨNH HỘI
TRI THỨC NHẬN LOẠI
YẾU TỐ CHỦ
QUAN: NĂNG LỰC
VÀ PHẨM CHẤT
NGƯỜI HỌC
CÁC YẾU TỐ KHÁCH QUAN DO CHỦ THỂ QUẢN LÝ DẠY HỌC TẠO RA
NGUỒN
TL & VL
DẠY HỌC
(ĐẦY ĐỦ VÀ
HIỆN ĐẠI)
HỆ THỐNG
THÔNG TIN
DẠY HỌC
(ĐẦY ĐỦ,
MỚI NHẤT)
CHẾ ĐỊNH
GD & ĐT
DẠY HỌC
(HOÀN CHỈNH)
BỘ MÁY
TC & NL
DẠY HỌC

(CHẤT LƯỢNG
CAO)
MÔI
TRƯỜNG
DẠY HỌC
(THUẬN
LỢI)
HĐDH ở đại học là quá trình tương tác và thống nhất của hai hoạt động của
giảng viên và sinh viên. Trong đó:
+ Dạy có vai trò chủ đạo; tổ chức, điều khiển hoạt động học tập, kích thích,
giáo dục sinh viên.
+ Học có vai trò chủ động: tự giác, tích cực, tự lực và sáng tạo trong việc
thu nhận, xử lý, gia công, lưu trữ thông tin học tập.
+ Hai hoạt động dạy, học là hai dạng hoạt động đặc biệt phản ánh tính hai
mặt của quá trình dạy học đại học, là sự cộng tác giữa các chủ thể: thầy - cá thể
sinh viên; thầy - nhóm sinh viên; sinh viên - sinh viên…
Hoạt động dạy học đại học là một hệ thống toàn vẹn, cân bằng động gồm
ba thành tố cơ bản: khái niệm khoa học (tri thức), dạy và học. Những thành tố này
tương tác với nhau theo một quy luật riêng, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn
nhau để thực hiện các nhiệm vụ dạy - học nhằm đạt được chất lượng và hiệu quả
dạy học.
Hoạt động dạy ở đại học phản ánh tập trung nhất những yêu cầu của xã hội
đối với quá trình dạy học ở đại học. Đặc biệt gắn liền với việc đào tạo cụ thể của
từng trường đại học. Ngoài việc dạy nghề cho sinh viên, trường đại học còn trang
bị cho sinh viên phương pháp luận khoa học, phương pháp nghiên cứu, phương
pháp tự học và xây dựng thái độ, niềm tin, lý tưởng về nhân sinh quan, thế giới
quan khoa học, phẩm chất đạo đức, nhân cách nghề nghiệp… Hoạt động học ở đại
học là quá trình nhận thức độc đáo của sinh viên, vì sinh viên vừa là chủ thể vừa là
sản phẩm của quá trình dạy học, tự biến những tri thức của nhân loại thành tri thức
của chính mình bằng con đường học và tư duy của bản thân.

Hoạt động dạy và học luôn luôn gắn bó, không tách rời nhau, thống nhất
biện chứng với nhau, tạo thành một hoạt động chung. Dạy điều khiển học, học
tuân thủ dạy. Việc học của sinh viên phải chủ động, tự giác, tích cực, năng động,
tác động trở lại với dạy, vì nó xem như là một yếu tố điều tiết đối với dạy. Có thể
20
nói, hiệu quả dạy học đạt tối ưu khi tác động của giảng viên kết hợp chặt chẽ với
sự tự học của sinh viên.
Một cách khái quát, về bản chất, hoạt động dạy học ở đại học là quá trình
nhận thức độc đáo có tính chất nghiên cứu của sinh viên được tiến hành dưới vai
trò tổ chức, điều khiển của người thầy nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học ở
đại học.
1.4 Quản lý hoạt động dạy học trong trường đại học
Quản lý hoạt động dạy học là sự tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý
dạy học đến chủ thể dạy học (người dạy và người học) bằng các giải pháp phát
huy tác dụng của các phương tiện quản lý dạy học như chế định GD &ĐT, bộ
máy tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn tài lực và vật lực dạy học, môi trường
dạy học và thông tin dạy học nhằm đạt được mục đích quản lý dạy học. Quản lý
hoạt động dạy học trong trường đại học là tổ chức chỉ đạo giảng viên thực hiện
quy trình dạy học theo quy luật khách quan nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo của
nhà trường; quản lý quá trình truyền thụ kiến thức của đội ngũ giảng viên. Quản lý
hoạt động học của sinh viên là quản lý quá trình lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo của sinh viên và quản lý việc kiểm tra đánh giá quá trình lĩnh hội, sự vận dụng
kiến thức đó của sinh viên.
1.4.1 Mục tiêu, nội dung quản lý dạy học trong trường đại học
Mục tiêu giáo dục theo Luật Giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, quy định tại Điều 2: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [28].

Mục tiêu giáo dục đại học cũng được thể hiện tại điều 39 luật Giáo dục:
“Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp
21
tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” [28].
Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo Việt Nam đến năm 2020 có nêu :
“Xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển bền vững của đất nước,
thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo cơ hội học
tập cho mọi người và có khả năng hội nhập với nền giáo dục thế giới; đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước bao gồm những người lao động Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe và thẩm mỹ, phát triển
được năng lực cá nhân, có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập thân, lập
nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3].
1.4.2 Nhà trường sư phạm
Điều 78 Luật Giáo dục 2005 đã quy định:
“1. Trường Sư phạm do Nhà nước thành lập để đào tạo, bồi dưỡng nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục;
2. Trường Sư phạm được ưu tiên trong việc tuyển dụng nhà giáo, bố trí cán
bộ quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, ký túc xá và bảo đảm kinh phí đào tạo;
3. Trường Sư phạm có trường thực hành hoặc cơ sở thực hành.” [28].
Đối với nhà trường sư phạm, có những mục tiêu chuyên biệt là đào tạo giáo
viên – nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục - đào tạo. Để đạt được mục tiêu đào
tạo nói chung và mục tiêu đào tạo giáo viên nói riêng, cần có sự kết hợp đồng bộ
trong tất cả các khâu của quá trình giáo dục, đặc biệt là khâu quản lý hoạt động
dạy học vì đó là cốt lõi, là trọng tâm của quá trình dạy học.
1.4.3 Nội dung quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo trong trường

đại học
Theo điều lệ trường đại học ban hành theo quyết định số 153/2003/QĐ –
TTg ngày 30 tháng 7 năm 2003 của Thủ tướng chính phủ quy định chức năng của
22
phòng Đào tạo tham mưu và giúp việc Hiệu trưởng thực hiện quản lý nhà nước
trên lĩnh vực đào tạo. Cụ thể như:
- Xây dựng, quản lý thực hiện mục tiêu, chương trình và nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học. Tổ chức biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo.
- Quản lý và tổ chức các kỳ thi tuyển sinh; học phần và tốt nghiệp
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch đào tạo của các Khoa chuyên
môn thông qua tiến trình giảng dạy. Phối hợp với các đơn vị tính giờ dạy cho
giảng viên.
- Phối kết hợp quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học.
- Quản lý việc đánh giá kết quả đào tạo, văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp.
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ với cấp trên về các hoạt động tổ chức,
quản lý đào tạo
- Quản lý các công tác hành chính giáo vụ như lập thời khóa biểu dạy và
học, thực tập sư phạm, thực hành, kiểm tra nền nếp giảng dạy - học tập…
- Phối hợp cùng các đơn vị khác tổ chức những buổi hội thảo về công tác
chuyên môn, thi giảng hàng kỳ, hàng năm, giới thiệu cán bộ, giảng viên đi học,
tập huấn nghiệp vụ, chuyên môn…
Quản lý hoạt động dạy học nói riêng của phòng Đào tạo trường đại học chủ
yếu gồm các nội dung quản lý cụ thể như :
- Quản lý việc thực hiện chương trình và nội dung dạy học
- Quản lý khâu đổi mới cách sử dụng phương pháp dạy học
- Quản lý việc đề xuất và lựa chọn hình thức tổ chức dạy học
- Quản lý việc đánh giá kết quả dạy học và kết quả học tập
- Phối kết hợp quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học.
- Quản lý công tác hành chính giáo vụ
1.4.4 Các biện pháp quản lý HĐDH của phòng Đào tạo trong trường đại

học
Theo từ điển Tiếng Việt: “Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải
quyết một vấn đề cụ thể nào đó” [36].
23
Trong quản lý, biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của
chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết các vấn đề
trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản
lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan.
Như vậy, biện pháp quản lý là việc nhà quản lý sử dụng các chức năng -
công cụ - phương pháp - nguyên tắc quản lý và uy tín cá nhân vào đối tượng quản
lý trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thuộc đơn vị mình quản lý để đưa đối
tượng hoặc đơn vị đó đi đúng mục tiêu và đạt được mục tiêu mà nhà quản lý đề ra,
đưa chất lượng quản lý lên một mức mới, trạng thái mới tốt hơn hiện tại.
Biện pháp quản lý được xem là yếu tố linh hoạt, thường được thay đổi theo
đối tượng quản lý. Các nhà quản lý chỉ thực hiện tốt các chức năng của mình khi
nhận thức đúng và sử dụng tốt các biện pháp quản lý. Nhà quản lý phải thể hiện
được nghệ thuật quản lý, thúc đẩy mọi người trong tổ chức tham gia công việc
chung đạt hiệu quả cao nhất. Thực tế cho thấy, phần lớn kết quả của một quá trình
quản lý lại tùy thuộc vào sự lựa chọn và sử dụng hữu hiệu các biện pháp quản lý,
điều đó giúp cho chủ thể quản lý có thể tạo được động cơ, động lực thúc đẩy đối
tượng quản lý thực hiện tốt các nhiệm vụ.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu biện pháp quản lý là cách thức, con đường,
cách làm cụ thể để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình quản lý nhằm tiết
kiệm thời gian và vật lực và công sức của các thành phần tham gia quản lý.
Như vậy, các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của phòng Đào tạo thực
chất là các biện pháp cơ bản sau:
- Biện pháp quản lý thực hiện mục tiêu: quản lý làm sao để mục tiêu giáo
dục - đào tạo thể hiện trong từng môn học, từng chương trình, từng bài giảng và
đánh giá kết quả dạy học; đồng thời gắn kết mục tiêu dạy học với mục tiêu của
các hoạt động mang tính điều kiện và phương tiện cho HĐDH

- Biện pháp quản lý việc xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung dạy
học, kế hoạch đào tạo, thời khóa biểu, khối lượng giờ giảng
24
- Biện pháp quản lý việc đổi mới cách sử dụng phương pháp dạy học: Tổ
chức phong trào đổi mới phương pháp dạy học thông qua các hoạt động thao
giảng, rút kinh nghiệm và các hội nghị, hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học.
- Biện pháp quản lý việc đề xuất và lựa chọn hình thức tổ chức dạy học:
Nhấn mạnh tới việc “đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học“ trong nhà
trường đại học.
- Biện pháp quản lý hoạt động đánh giá kết quả dạy học và kết quả: Tổ
chức hoạt động đánh giá chất lượng và hiệu quả giảng dạy của người dạy; kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của người học.
- Biện pháp quản lý công tác hành chính giáo vụ: Xây dựng, tổ chức ban
hành các quy định, quy chế quản lý dạy học cụ thể của trường.
- Biện pháp quản lý việc sử dụng csvc, trang thiết bị dạy học : Xây dựng
nội quy sử dụng và khai thác có hiệu quả csvc, trang thiết bị dạy học.
- Biện pháp quản lý ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
HĐDH
Bên cạnh những biện pháp kể trên, chúng ta cũng cần lưu ý đến các biện
pháp quản lý khác như QL môi trường dạy học, QL hoạt động kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của sinh viên, QL việc tổ chức thi học phần…
1.5 Những yếu tố chính ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động dạy
học của Phòng Đào tạo trường đại học
1.5.1 Các yếu tố chủ quan
1.5.1.1 Phẩm chất chính trị của chủ thể quản lý phòng Đào tạo
Lãnh đạo phòng Đào tạo muốn thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt động
dạy học của mình thì bản thân phải là những người quản lý có nhân cách, có đạo
đức nghề nghiệp; phẩm chất và lập trường quan điểm chính trị vững vàng, đi đầu
trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhà trường, biết hy sinh cái riêng để cống hiến
cho sự nghiệp giáo GD&ĐT của nhà trường. Nắm vững đường lối, chủ trương

25

×