Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trong các trường THPT ngoài công lập Thành phố Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.25 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển
của mỗi cá nhân và xã hội loài người. Đồng thời giáo dục là điều kiện cơ bản,
là động lực quan trọng bậc nhất thúc đẩy sản xuất, quyết định tới sự phát triển
kinh tế - xã hội và sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia. Giáo dục có vai trò
rất to lớn trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát
triển của mỗi nước.
Nhận thức rõ điều đó, ngay từ khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (3/9/1945). Bắt đầu nghị quyết
của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về cải
cách giáo dục với tư tưởng: xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc
cách mạng tư tưởng, thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ
đến lúc trưởng thành, thực hiện tốt nguyên lí giáo dục đi đôi với thực hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo về giáo dục được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với
yêu cầu thực tế qua các kì đại hội VI, VII,VIII, IX và X của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1992), Luật giáo dục (2005), Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 luôn
coi: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn
nhân lực chất lượng cao, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp CNH, HĐH là yếu tố cơ bản phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững”.
Để giáo dục đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về nhân lực trong
công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc thì cần phải
tăng cường quản lý hoạt động giáo dục, quản lý nhà trường để nâng cao chất
lượng dạy học. Bởi nhà trường là tế bào trong hệ thống giáo dục quốc dân.
1
Nhà trường không chỉ là nơi hiện thực hoá mọi chủ trương, chính sách giáo
dục của Đảng và Nhà nước mà còn là nơi trực tiếp diễn ra hoạt động dạy học,
kiểm chứng những vấn đề lý luận khoa học giáo dục nói chung và khoa học


quản lý giáo dục nói riêng. Trong nhà trường, hoạt động dạy học là hoạt động
trung tâm và đặc trưng. Quản lý hoạt động dạy học là mục tiêu trung tâm của
quản lý nhà trường. Có thể khẳng định, hoạt động dạy học là hoạt động giáo
dục cơ bản nhất, có vai trò chủ đạo trong những hoạt động giáo dục của nhà
trường, nó quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Hoạt
động đó quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi nhà trường nói riêng và
của cả hệ thống giáo dục nói chung. Vì vậy quản lý hoạt động dạy học nhà
trường trong giai đoạn hiện nay ở nước ta có một vị trí vô cùng quan trọng.
Người quản lý và lãnh đạo nhà trường phải nhận thức được vai trò, ý nghĩa
của hoạt động dạy học và có ý thức đầy đủ về quản lý hoạt động dạy học.
Về dự Hội nghị tổng kết năm học 2009-2010 và triển khai nhiệm vụ
năm học 2010-2011 do Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Dương tổ chức ngày
25/8/2010, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển khẳng định: Năm học
này lấy chủ đề tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục thì có
rất nhiều việc tiếp tục phải làm. Quản lý giáo dục phải làm thế nào để tăng
tính dân chủ, nâng cao chất lượng giảng dạy hơn nữa, thông qua đó phát huy
được sự chủ động sáng tạo của từng cơ sở giáo dục, của từng cán bộ giáo
viên, của các em học sinh.
Sự nghiệp giáo dục của Thành phố Hải Dương- Tỉnh Hải Dương đã có
những thành tựu đáng kể: đa dạng hoá các loại hình nhà trường, cơ sở vật chất
được trang bị khá đồng đều, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục các trường công lập và ngoài công lập trong
thành phố chưa đồng đều. Hoạt động dạy học của các trường Dân lập, tư thục
tuy đã đi vào nền nếp song hiệu quả chưa cao. Một phần do học sinh tuyển
2
vào còn nhiều bất cập, năng lực học tập yếu, ý thức học tập và rèn luyện chưa
được tốt, đội ngũ giáo viên thiếu đồng bộ: một phần giáo viên cơ hữu của nhà
trường, phần còn lại thì hợp đồng ngắn hạn với giáo viên các trường ngoài, do
đó không ổn định và khó khăn trong việc quản lý, chỉ đạo hoạt động dạy học
của Hiệu trưởng.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt
động dạy học của Hiệu trưởng trong các trường THPT ngoài công lập Thành
phố Hải Dương” với hi vọng tìm kiếm các biện pháp quản lý hoạt động dạy
học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và nâng cao chất lượng dạy
học trong các trường THPT ngoài công lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý hoạt động dạy học
của Hiệu trưởng các trường ngoài công lập đề xuất một số biện pháp quản lý
hoạt động dạy học của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các
trường THPT ngoài công lập.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học của Hiệu
trưởng ở các trường THPT ngoài công lập.
3.2. Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học của Hiệu
trưởng ở các trường ngoài công lập thành phố Hải Dương
3.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng
nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT ngoài công lập thành
phố Hải Dương.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng các
trường THPT ngoài công lập thành phố Hải Dương.
3
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của
Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT ngoài
công lập thành phố Hải Dương.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý
hoạt động dạy học của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong
các trường THPT ngoài công lập thành phố Hải Dương.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: Các trường THPT ngoài công lập ở thành phố Hải

Dương năm học 2009-2010.
6. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng
dạy học trong các trường ngoài công lập đã có những kết quả nhất định, song
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện nay. Nếu áp dụng hợp lý
các biện pháp quản lý hoạt động dạy học do tác giả đề xuất thì chất lượng dạy
học ở các trường THPT ngoài công lập sẽ được nâng cao hơn.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu các nghị quyết của Đảng, văn bản của Nhà nước về GD&ĐT.
- Tham khảo các tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp khảo nghiệm
7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ
- Thống kê toán học
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
CỦA HIỆU TRƯỞNG CÁC TRƯỜNG THPT NGOÀI CÔNG LẬP
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới.
Dạy học và quản lý hoạt động dạy học là vấn đề được nhiều nhà triết
học, nhà khoa học ở các nước nghiên cứu và tổng kết qua các thời kỳ.
Nhà triết học cổ đại Hy Lạp Xôcrat (469 - 399 TCN) tuyên bố câu
châm ngôn nổi tiếng: “Hãy tự biết mình”, có nghĩa là: con người có thể và cần
phải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta…Do đó, dạy học cần

phải có phương pháp giúp thế hệ trẻ từng bước tự khẳng định, tự phát hiện tri
thức mới phù hợp với chân lý.
Platon (427 - 348 TCN) đã khẳng định được vai trò tất yếu của giáo
dục trong xã hội, tính quyết định của chính trị đối với giáo dục. Các tư tưởng
đó đã phần nào nói lên tầm quan trọng của thể chế xã hội đối với giáo dục nói
chung và dạy học nói riêng.
Ở phương Đông, tư tưởng giáo dục của Khổng Tử (551 - 479 TCN) đã
có những đóng góp quý báu vào kho tàng lí luận giáo dục của dân tộc Trung
Hoa nói riêng và kho tàng giáo dục của nhân loại nói chung. Ông đã nêu lên
quan điểm về phương pháp dạy học là dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ
đơn giản đến phức tạp, đồng thời đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ,
phải luyện tập, hình thành nền nếp, thói quen trong học tập, học không biết
chán, dạy không biết mỏi. Trong dạy học, ông coi trọng việc tự học, tự rèn
luyện, tu thân phát huy mặt tích cực sáng tạo, năng lực nội sinh, dạy học sát
đối tượng, cá biệt hóa đối tượng. Kết hợp học với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn, phát triển động cơ học tập đúng đắn, tạo hứng thú và ý chí quyết tâm của
người học.
5
Với nhiều công trình nghiên cứu, Jêm Amôt Cômenxki (1592 - 1670)
đã đóng một cái mốc quan trọng trong quá trình phát triển lí luận và hoạt
động giáo dục của nhân loại. Theo ông, quá trình dạy học để truyền thụ và
tiếp nhận tri thức là phải dựa vào sự vật, hiện tượng do học sinh tự quan sát,
tự suy nghĩ mà hiểu biết, không nên dùng uy quyền bắt buộc, gò ép người
khác chấp nhận bất cứ điều gì. Ông là người đầu tiên trong lịch sử đã nêu lên
được một hệ thống các nguyên tắc trong dạy học mà đến nay hầu như các
nguyên tắc đó về cơ bản vẫn có ý nghĩa trong hệ thống các nguyên tắc dạy
học hiện đại như: nguyên tắc trực quan; nguyên tắc phát huy tính tích cực, tự
giác của học sinh; nguyên tắc hệ thống và liên tục; nguyên tắc củng cố kiến
thức; nguyên tắc dạy theo khả năng tiếp thu của học sinh; dạy học phải thiết
thực; dạy học theo nguyên tắc cá biệt.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác-Lênin với những tác
phẩm kinh điển đã định hướng cho hoạt động giáo dục. Trên cơ sở lí luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, nhiều nhà khoa học của Liên Xô cũ đã có được những
thành tựu khoa học đáng trân trọng về quản lý giáo dục và quản lý dạy học.
1.1.2. Việt Nam
Các tư tưởng về dạy học đã được đề cập đến trong các tác phẩm của
các nhà giáo dục thời phong kiến như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê
Quý Đôn. Trong thời kỳ cách mạng, đặc biệt phải nói đến tư tưởng, quan
điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã để lại cho chúng ta nền
tảng lý luận về: vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội, phát triển con
người; định hướng phát triển dạy học; mục đích dạy học; các nguyên lý dạy
học, các phương thức dạy học; vai trò của quản lý và cán bộ quản lý giáo dục.
Hệ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị quan trọng trong quá trình
phát triển lý luận dạy học, lý luận giáo dục của nền giáo dục Việt Nam.
6
Những năm gần đây, vấn đề quản lý giáo dục được đặc biệt quan tâm
với sự xuất hiện của những công trình nghiên cứu khoa học, những bài viết
trên báo, tạp chí, những tài liệu được dịch từ nước ngoài, những tài liệu được
xuất bản của những nhà nghiên cứu về công tác quản lý giáo dục như: Đặng
Quốc Bảo, Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Văn Lê, Trần Kiểm…Các tác giả
đã nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về vị trí, vai trò của việc tổ chức
quá trình dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, các yếu tố liên quan đến quá
trình dạy học, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng dạy học. Vấn đề quản lý
hoạt động dạy học được các nhà nghiên cứu giáo dục đề cập trong các công
trình nghiên cứu của mình. Bên cạnh đó, trong một số giáo trình của Học viện
quản lý giáo dục, trường Đại học sư phạm Hà Nội cũng đã trình bày những
vấn đề cơ bản của quản lý hoạt động dạy học. Chương trình đào tạo thạc sỹ
quản lý giáo dục cũng có nhiều luận văn của một số tác giả đã nghiên cứu trực
tiếp về quản lý hoạt động dạy học như:
Phạm Thị Mỹ Quyên (2006) - Biện pháp tăng cường quản lý dạy học

của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông dân lập trong thành phố
Nam Định.
Trịnh Quang Thắng (2006) - Đổi mới biện pháp quản lý dạy học của
hiệu trưởng các trường THPT huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Hoàng Đình Mạnh (2008) - Biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy của
hiệu trưởng các trường trung học phổ thông ngoài công lập huyện Lương Tài
tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Thị Loan (2009) - Quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng
nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường THPT tỉnh Hưng Yên.
Quản lý hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm của người hiệu
trưởng trong nhà trường, đồng thời cũng là mục tiêu trung tâm và quan trọng
nhất của quản lý trường học. Vì vậy, nó là vấn đề được nhiều người quan tâm
7
nghiên cứu. Tuy nhiên, tại thành phố Hải Dương chưa có tác giả nào nghiên
cứu về vấn đề quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng trong các trường
trung học phổ thông ngoài công lập. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này
với hy vọng tìm chọn được một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các
trường ngoài công lập phù hợp và khả thi góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả quản lý hoạt động dạy học.
1.2. Cơ sở lí luận của quản lý hoạt động dạy học
1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Quản lý.
Quản lý là hoạt động tất yếu nảy sinh khi có lao động chung của nhiều
người cùng theo đuổi một mục đích. Quản lý là dạng hoạt động đặc thù của
con người và là một thuộc tính có trong xã hội ở bất cứ trình độ phát triển
nào. Theo C.Mác: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hoặc là lao động chung
nào mà tiến hành trên quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để
điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là chức năng chung,
tức là những chức năng phát triển từ sự khác nhau giữa sự vận động chung
của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự

điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”
[3, 123].
F.W.Taylor cho rằng: quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái
gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là quá trình gây tác động của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung”[2, 16].
Theo tác giả Bùi Trọng Tuân, nếu xét trên phương diện hoạt động của
một tổ chức thì: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất tiềm năng,
8
các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường” [29, 2].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức” [15, 5].
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội.
- Quản lý là những tác động có tính hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý là những tác động nhằm phát huy, phối hợp mọi nỗ lực của cá
nhân nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
luôn có tác động qua lại và chịu tác động của môi trường.
- Quản lý vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật. Vì vậy người quản lý
ngoài những yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất còn phải nhạy cảm, linh
hoạt trong công tác của mình.
Từ đó ta có thể hiểu: quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng
của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm sử dụng tối ưu các nguồn lực
và phối hợp mọi nỗ lực của cá nhân để đạt được mục tiêu đặt ra.
Ngày nay, quản lý được coi là một trong năm nhân tố cho phát triển
kinh tế - xã hội: vốn, tài nguyên, nguồn lực lao động, khoa học kỹ thuật và
quản lý. Trong đó, quản lý có vai trò hết sực quan trọng mang tính quyết định

đến sự thành công hay thất bại.
1.2.1.2. Chức năng quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu.
9
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình
tự các công việc của quá trình quản lý, mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ
thể, là quá trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện.
Nhiều công trình nghiên cứu về khoa học quản lý cho thấy quản lý phải
thực hiện nhiều chức năng khác nhau, từng chức năng có tính độc lập tương
đối nhưng chúng lại được liên kết hữu cơ trong một hệ nhất quán. Tuy nhiên
về cơ bản thống nhất, bốn chức năng liên quan mật thiết với nhau: kế hoạch
hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra nhưng trong đó thông tin vừa là điều kiện, vừa
là phương tiện thực hiện các chức năng quản lý.
- Kế hoạch hóa: là chức năng cơ bản đầu tiên trong số các chức năng
quản lý, bao gồm xác định mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng
bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định
của cả hệ thống quản lý và bị quản lý.
- Tổ chức: là xác định cơ cấu chủ định về vai trò nhiệm vụ hay chức vụ
được hợp thức hóa. Tổ chức là thiết kế cơ cấu các bộ phận sao cho phù hợp
với mục tiêu của tổ chức.
Giáo trình khoa học quản lý của khoa quản lý kinh tế - Đại học quốc
gia Hồ Chí Minh có viết: Tổ chức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn
đến thành công hay thất bại trong hoạt động của một hệ thống và giữ vai trò
to lớn trong quản lý bởi: thứ nhất, tổ chức làm cho các chức năng khác của
hoạt động quản lý thực hiện có hiệu quả; thứ hai, từ khối lượng công việc của
quản lý mà xác định biên chế, sắp xếp con người; thứ ba, tạo điều kiện cho
hoạt động tự giác và sáng tạo của các thành viên trong tổ chức, tạo nên sự
phối hợp ăn khớp nhịp nhàng trong cơ quan quản lý và đối tượng quản lý; thứ

tư, dễ dàng cho việc kiểm tra, đánh giá. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn cho những
tiềm năng, những động lực khác. Tổ chức không tốt sẽ triệt tiêu động lực và
làm giảm sút hiệu quả quản lý.
10
- Chỉ đạo: là điều hành và lãnh đạo, là quá trình tác động của người
quản lý đến đối tượng bị quản lý một cách có chủ đích nhằm phát huy hết
tiềm năng của họ hướng vào việc đạt mục tiêu chung của hệ thống. Trong
quản lý, chức năng chỉ đạo có ý nghĩa quan trọng đòi hỏi người quản lý phải
có năng lực, phẩm chất và nghệ thuật quản lý để chỉ đạo đối tượng bị quản lý
là những người có trình độ năng lực và phong cách đặc trưng riêng.
- Kiểm tra: là chức năng quan trọng của nhà quản lý và là chức năng
của mọi cấp quản lý. Kiểm tra là công cụ sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý, kiểm tra nhằm đảm bảo các kế hoạch đặt ra, phát hiện kịp thời sai
sót, tìm ra nguyên nhân, biện pháp sửa chữa kịp thời các sai sót đó. Thông
qua kiểm tra mà người quản lý đánh giá được kết quả công việc của mọi
thành viên trong tổ chức, đánh giá được thực trạng, kết quả vận hành của tổ
chức, nhằm phát huy những mặt tốt, đồng thời phát hiện những sai lệch để
uốn nắn, điều chỉnh một cách kịp thời, đúng hướng nhằm đạt mục tiêu đặt ra.
Kiểm tra không chỉ là điều chỉnh mà còn là phát triển.
Tóm lại, việc phân chia các chức năng quản lý chỉ là tương đối cốt để
nhà quản lý không bỏ sót. Khi thực hiện một chức năng nào đó phải phát huy
hết thế ưu trội của nó trong chừng mực có thể phối hợp với các chức năng
khác, bởi vì các chức năng quản lý liên quan chặt chẽ với nhau, đan xen nhau,
được thực hiện theo trình tự khác nhau. Mặt khác, đối với nhà quản lý có kinh
nghiệm, không nhất thiết phải thực hiện tuần tự các chức năng nêu trên mà họ
có thể bỏ qua một chức năng nào đó trước khi thực hiện chức năng khác.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chức năng quản lý đều dựa vào thông tin
quản lý. Thông tin là huyết mạch của quản lý, không có thông tin thì nhà quản
lý không thể đưa ra quyết định kịp thời và đúng đắn. Căn cứ 4 chức năng và
vai trò thông tin trong quản lý, chúng ta có thể biểu diễn chu trình quản lý như

sau:
11

Sơ đồ 1: Mối quan hệ của các chức năng quản lý
1.2.1.3. Quản lý giáo dục.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, vĩnh hằng. Giáo dục ra đời cùng với
sự xuất hiện của xã hội loài người nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để thế hệ
sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội và
bản thân con người phát triển không ngừng. Để thực hiện được vai trò đó thì
quản lý giáo dục là nhân tố tổ chức, chỉ đạo.
Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý giáo dục:
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất” [24, 35].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “ Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát
là hoạt động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy
mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội” [1 ,31].
Theo tác giả Trần Kiểm, quản lý giáo dục có nhiều cấp độ. Ít nhất có
hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Đối với cấp vĩ mô: “Quản lý giáo
dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều
12
Kế hoạch
Thông tin quản lý Tổ chứcKiểm tra
Chỉ đạo
phối, điều chỉnh, giám sát,… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục
(nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội” [14, 10].
Đối với cấp vi mô: “quản lý giáo dục là những tác động của chủ thể
quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường” [14,
12].
Từ những định nghĩa trên có thể hiểu về quản lý giáo dục như sau:
- Quản lý giáo dục là một hệ thống tác động có mục đích, kế hoạch,
phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý.
- Quản lý giáo dục là sự tác động lên tập thể giáo viên, học sinh và các
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng tham
gia vào các hoạt động giáo dục của nhà trường để đạt mục tiêu đã đặt ra.
Từ đó ta có thể hiểu: quản lý giáo dục là những tác động có định
hướng, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm sử dụng
tối ưu các nguồn lực và phối hợp mọi nỗ lực của cán bộ, giáo viên và học sinh
cùng sự hỗ trợ của các lực lượng xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục theo
mục tiêu, quan điểm giáo dục của Đảng.
1.2.1.4. Quản lý nhà trường.
Nhà trường là một thiết chế tổ chức chuyên biệt trong hệ thống tổ chức
xã hội thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và
phát triển của xã hội.
Trường học là tổ chức giáo dục, là một đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ
thống giáo dục quốc dân. Xét về bản chất, trường học là tổ chức mang tính
nhà nước - xã hội - sư phạm thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội, bản
chất sư phạm. Đã có nhiều quan niệm về quản lý nhà trường:
13
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là
tổ chức hoạt động dạy học…Có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện
được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới
quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến

đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước”
[13, 34].
Theo tác giả Trần Hồng Quân: “Quản lý nhà trường phổ thông là quản
lý dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác, để dần tới mục tiêu giáo dục” [26, 43].
Theo tác giả Nguyễn Phúc Châu: “Quản lý nhà trường (một cơ sở giáo
dục) là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ
thống và hợp quy luật) của chủ thể quản lý nhà trường (hiệu trưởng) đến
khách thể quản lý nhà trường (giáo viên, nhân viên và người học,…) nhằm
đưa các hoạt động giáo dục và dạy học của nhà trường đạt tới mục tiêu giáo
dục” [7, 14].
Từ những cách tiếp cận trên, các tác giả đã xác định trường học là cơ sở
dạy học, giáo dục học sinh và thực hiện mục tiêu của nền giáo dục. Thực chất
của quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy của giáo viên, quản lý hoạt
động học của học sinh, quản lý các hoạt động khác trong nhà trường như: cơ
sở vật chất, nguồn tài chính,…nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
đích của giáo dục.
Như vậy, quản lý nhà trường là những tác động sư phạm có hướng
đích của chủ thể quản lý nhà trường đến đối tượng quản lý nhằm huy động và
phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường để
hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra.
1.2.1.5. Hoạt động dạy học.
Dạy học là một bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách, là
quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh
14
hội tri thức khoa học, những kỹ năng và kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực
tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và
xây dựng các phẩm chất của nhân cách người học.
Hoạt động dạy học bao gồm:
- Hoạt động dạy: giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng tổ

chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động truyền thụ tri thức, kỹ năng và kỹ
xảo đến học sinh một cách khoa học.
- Hoạt động học: Học sinh lĩnh hội và tổ chức quá trình tiếp thu một
cách tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo hệ thống những kiến thức, kỹ năng
và kỹ xảo nhằm hình thành năng lực, thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho
việc học và hình thành nhân cách cho bản thân.
Mỗi hoạt động có mục đích, chức năng, nội dung và phương pháp
riêng, nhưng chúng có quan hệ hữu cơ, quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau,
tồn tại cho nhau và vì nhau.
Quá trình dạy học là quá trình hoạt động tương tác và thống nhất giữa
giáo viên và học sinh trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ chức, điều khiển)
của giáo viên, học sinh chủ động tự giác, tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển
hoạt động học để thực hiện các nhiệm vụ dạy học (dạy học kiến thức, dạy học
kỹ năng, dạy học thái độ).
Quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn, cân bằng động gồm các
thành tố: mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, hoạt
động của giáo viên, hoạt động của học sinh, các điều kiện dạy học, các mối
liên hệ dạy học và kết quả dạy học.
15
Sơ đồ 2: Sơ đồ cấu trúc của quá trình dạy học
Trong đó có ba thành tố cơ bản nhất là: khái niệm khoa học (nội dung
kiến thức), hoạt động dạy và hoạt động học, chúng tương tác với nhau, thâm
nhập vào nhau, quy định lẫn nhau tạo nên cấu trúc chức năng của quá trình
dạy học toàn vẹn nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.


Sơ đồ 3: Cấu trúc - chức năng của quá trình dạy học
16
KHÁI NIỆM KHOA HỌC
HỌC

Lĩnh hội
Tự điều khiển
DẠY
Truyền đạt
Điều khiển
CỘNG
TÁC
Môi trường
KT, XH
KH, CN
M
P
HS
ĐK
GV
N
KQ
M: Mục tiêu dạy học
N: Nội dung dạy học
P: Phương pháp dạy
học
HS: Học sinh
GV: Giáo viên
ĐK: Điều kiện
(CSVC - thiết bị
dạy học).
KQ: Kết quả.
1.2.1.6. Chất lượng dạy học.
- Chất lượng:
Theo người Anh: chất lưng có thể hiểu là những cái chuẩn của một vấn

đề nào đó khi con người quan tâm (suy nghĩ) đến nó và hiểu được vấn đề mà
con người quan tâm đến thể hiện như thế nào là tốt hoặc xấu.
Đứng ở góc độ triết học: “Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương
đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là thuộc tính khách
quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính, nó là
cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một
tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật” [7, 154]
Theo Jones G.A (Canada): Chất lượng được đánh giá bằng đầu vào,
chất lượng được đánh giá bằng đầu ra, chất lượng được đánh giá bằng giá trị
gia tăng, chất lượng được đánh giá bằng giá trị học thuật, chất lượng được
đánh giá bằng văn hóa tổ chức, chất lượng được đánh giá bằng kiểm toán.
Chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn quy định; chất lượng là sự
phù hợp với mục đích; chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục
đích; chất lượng là sự đáp ứng của nhu cầu khách hàng.
Từ những quan điểm nêu trên ta thấy chất lượng là một khái niệm được
nhiều người sử dụng, nhưng khó nắm bắt. Tuy nhiên, chất lượng đều được
dùng để chỉ những giá trị vật chất, giá trị sử dụng của một sản phẩm trong hệ
quy chiếu với chuẩn đánh giá nào đó, có tính chất quy ước, mang tính chủ
quan, khách quan và có tính chất xã hội.
- Chất lượng dạy học:
Theo tác giả Nguyễn Gia Cốc: “Chất lượng dạy học chính là chất lượng
của người học hay tri thức phổ thông mà người học lĩnh hội được. Vốn học
17
vấn phổ thông, toàn diện và vững chắc ở mỗi người là chất lượng đích thực
của dạy học” [8, 10]
Chất lượng dạy học liên quan chặt chẽ đến yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Sản phẩm của dạy học được xem là có chất lượng cao
nếu nó đáp ứng tốt nhất mục tiêu giáo dục mà yêu cầu xã hội đặt ra đối với
giáo dục phổ thông. Như vậy, chất lượng dạy học thực chất là chất lượng của

việc dạy và việc học. Sự phát huy tối đa nội lực dạy của thầy và năng lực học
của học sinh để sau khi ra trường học sinh có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng
được yêu cầu của xã hội và thực tế cuộc sống.
1.2.2. Quản lý hoạt động dạy học.
Quản lý hoạt động dạy học là điều khiển hoạt động dạy học vận hành
một cách có kế hoạch, có tổ chức và được chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thường
xuyên nhằm từng bước hướng vào thực hiện các nhiệm vụ dạy học để đạt mục
đích dạy học.
Quản lý hoạt động dạy học có những đặc điểm sau:
- Mang tính chất quản lý hành chính, sư phạm: tính hành chính thể hiện
ở việc quản lý theo pháp luật và những quy chế, nội quy, quy định có tính
chất bắt buộc đối với hoạt động dạy học. Tính sư phạm là việc quản lý chịu sự
quy định của các quy luật của quá trình dạy học diễn ra trong môi trường sư
phạm lấy hoạt động và quan hệ dạy - học của thầy và trò làm đối tượng quản
lý.
- Mang tính đặc trưng của khoa học quản lý: vận dụng có hiệu quả các
chức năng quản lý, sử dụng sáng tạo các nguyên tắc và phương pháp trong
quản hoạt động dạy học.
Có tính xã hội hóa cao: quản lý hoạt động dạy học chịu sự chi phối của
các điều kiện kinh tế xã hội và có mối quan hệ tương tác thường xuyên với
đời sống xã hội.
18
- Hiệu quả của quản lý hoạt động dạy học được tích hợp trong kết quả
đào tạo thể hiện qua các chỉ số: số lượng học sinh đạt được mục đích học tập,
chất lượng dạy học, hiệu quả dạy học (hiệu quả trong và hiệu quả ngoài).
Quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường có tính đặc thù so với
quản lý xã hội khác bởi nó là quản lý con người, là quá trình tổ chức một cách
hợp lý lao động của người dạy và người học để đáp ứng được yêu cầu đào tạo
con người. Công tác quản lý này có tính mềm dẻo, linh hoạt khác với việc
quản lý công việc, máy móc. Chủ thể quản lý là người Hiệu trưởng nhà

trường không chỉ quản lý bằng mệnh lệnh mà phải cần tôn trọng tính tự chủ,
phát huy sở trường và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm cấp dưới. Thực tiễn
quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường hiện nay đang có nhiều vấn đề
mới nảy sinh đòi hỏi người Hiệu trưởng cần thường xuyên nâng cao sự hiểu
biết về nhu cầu, năng lực, phẩm chất, về môi trường quản lý của mình để thực
hiện có hiệu quả công tác quản lý.
Nội dung cơ bản quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng trong
nhà trường.
1.2.2.1. Quản lý hoạt động dạy của giáo viên.
- Quản lý thực hiện nội dung chương trình:
Trường trung học thực hiện chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học
do Bộ GD&ĐT ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học
quy định cho mỗi năm học, là căn cứ pháp lý để các cấp quản lý giáo dục chỉ
đạo, giám sát hoạt động dạy học của nhà trường.
Hiệu trưởng cần nắm vững và tổ chức cho toàn thể giáo viên nghiên
cứu nắm vững mục tiêu, chương trình dạy học của cấp học, của từng môn học
và phạm vi kiến thức.
Để quản lý việc thực hiện chương trình, Hiệu trưởng chỉ đạo:
19
+ Tổ trưởng chuyên môn thống nhất chủ đề tự chọn nâng cao, chủ đề tự
chọn bám sát, thời lượng, thời gian thực hiện sao cho phù hợp với điều kiện
của trường.
+ Xây dựng thời khóa biểu để điều khiển và kiểm soát tiến độ thực hiện
chương trình dạy học.
Ban giám hiệu theo dõi nắm tình hình thực hiện chương trình hàng
tuần, hàng tháng thông qua các sổ theo dõi hoạt động chuyên môn, đồng thời
đưa ra các biện pháp để giáo viên thực hiện đúng và đủ tiến độ chương trình.
- Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp của giáo viên:
Kết quả hoạt động dạy học phụ thuộc vào sự chuẩn bị từng bài, từng
phần, từng chương của giáo viên. Do đó, Hiệu trưởng cần thực hiện:

+ Yêu cầu các tổ, nhóm chuyên môn nghiên cứu kỹ nội dung, chương
trình phải thực hiện. Trao đổi để đi đến thống nhất về mục tiêu, nội dung,
phương pháp, phương tiện của từng tiết học cũng như từng chương.
+ Yêu cầu giáo viên sử dụng sách giáo khoa, sách hướng dẫn, sách
tham khảo và thiết bị phục vụ chuyên môn.
+ Yêu cầu giáo viên chuẩn bị cho từng tiết lên lớp: có giáo án thể hiện
đầy đủ nội dung, phương pháp, kiến thức, đồ dùng dạy học, dự kiến các hoạt
động của thầy và trò.
+ Giám sát, theo dõi, nắm tình hình soạn bài của giáo viên qua kiểm tra
các bài soạn, sổ báo giảng, dự giờ dạy trên lớp.
+Tổ chức kiểm tra giáo án thường xuyên và đột xuất để giúp giáo viên
thực hiện nghiêm túc các yêu cầu quy định của môn học.
- Quản lý việc xây dựng và thực hiện nền nếp dạy học.
Nền nếp dạy học là trạng thái vận động của hoạt động dạy học dược
diễn ra theo quy trình vận động khớp nhịp, có tổ chức, có kế hoạch theo một trật
tự kỷ cương nhất định mang tính chất hành chính sư phạm trong nhà trường.
20
Quản lý việc xây dựng và thực hiện nền nếp dạy học là quá trình tổ
chức, tác động điều phối nhằm chuyển hóa những yêu cầu khách quan mang
tính hành chính của hoạt động dạy học thành ý thức tự giác, tự chủ và tự
quản, tinh thần trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng, trách nhiệm trong tập
thể, hình thành thói quen làm việc có tổ chức, kỷ luật theo pháp luật và luật lệ
đã được quy định trong nhà trường.
Quản lý việc xây dựng và thực hiện nền nếp dạy học còn bao hàm cả
quản lý việc xây dựng khung cảnh nhà trường xanh, sạch, đẹp có tính giáo
dục và thẩm mỹ cao.
Quản lý việc xây dựng và thực hiện nền nếp dạy học phải gắn liền với
việc nâng cao chất lượng dạy học, đặt nền tảng cho việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả dạy học.
Để quản lý việc xây dựng và thực hiện nền nếp dạy học Hiệu trưởng

cần thực hiện:
+ Tổ chức nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện các văn bản pháp quy, quy
chế Nhà nước, ngành về nền nếp dạy học.
+ Tổ chức, chỉ đạo xây dựng và thực hiện nội quy Nhà trường về nền
nếp dạy học.
+ Tổ chức, chỉ đạo thực hiện các kế hoạch đã được xây dựng, đặc biệt
quan tâm đến các kế hoạch về: thực hiện chương trình, kế hoạch các môn học,
thời khóa biểu lên lớp, nền nếp ra vào lớp của thầy và trò.
+ Chỉ đạo thực hiện hồ sơ, sổ sách chuyên môn: các hồ sơ, sổ sách theo
quy định; nền nếp soạn giáo án, ghi sổ đầu bài, sổ điểm theo quy định…
+ Tổ chức, chỉ đạo nền nếp chuyên môn: sinh hoạt của các hội đồng tư
vấn, sinh hoạt các tổ chuyên môn.
+ Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tổ chức sinh hoạt các tổ chức,
đoàn thể theo kế hoạch, quan tâm đến việc xây dựng tập thể sư phạm vững
mạnh, đoàn kết, thống nhất.
21
+ Xây dựng khuôn viên nhà trường xanh, sạch, đẹp tạo khung cảnh và
môi trường sư phạm thuận lợi cho hoạt động dạy học.
+ Xử lý tốt các vụ việc, tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học.
+ Tổ chức tốt việc kiểm tra đánh giá việc thực hiện nền nếp dạy học.
- Quản lý việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học:
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của
giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ
đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính chủ động, tích cực, sáng
tạo của học sinh trong học tập. Rèn luyện khả năng tự nghiên cứu, vận dụng
kiến thức đã học vào thực tiễn.
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay cái cũ bằng cái mới
mà là kế thừa có chọn lọc một cách sáng tạo các phương pháp dạy học truyền
thống, loại trừ các phương pháp dạy học lạc hậu: truyền thụ một chiều, nhồi

nhét thụ động, bình quân, đồng loạt… Mạnh dạn vận dụng những thành tựu
mới của khoa học, kỹ thuật, công nghê, tin học trong việc đổi mới phương
pháp dạy học, tổ chức chỉ đạo một cách có hệ thống, khoa học, đồng bộ và có
tính khả thi.
Đổi mới phương pháp dạy học là quy luật phát triển tất yếu của dạy
học, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của giáo dục nhà trường của mọi
quốc gia ở mọi thời đại nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học. Do đó,
người Hiệu trưởng cần quan tâm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thông
qua:
+ Tổ chức hoạt động nghiên cứu học tập, tổ chức hội thảo trao đổi kinh
nghiệm.
+ Quy định thực hiện quy chế, đảm bảo chất lượng sinh hoạt tổ chuyên
môn, trao đổi soạn giáo án, tổ chức dự giờ rút kinh nghiệm các tiết học.
22
+ Thức đẩy việc tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nhằm nâng cao trình
độ cho đội ngũ giáo viên.
- Quản lý cơ sở vật chất-thiết bị dạy học:
Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu của quá
trình dạy học. Muốn quản lý tốt hoạt động này Hiệu trưởng cần có các yếu tố
sau:
+ Có cán bộ chuyên trách.
+ Có đầy đủ hồ sơ và sổ sách quản lý.
+ Kiểm kê định kỳ hoặc đột xuất .
+ Hàng năm có kế hoạch xây dựng cải tạo, sửa chữa, mua sắm trang
thiết bị dạy học, chú ý đảm bảo chế độ tiêu hao trong công tác thực nghiệm.
+ Khuyến khích, động viên khen thưởng giáo viên tích cực sử dụng
thiết bị dạy học và tự làm thiết bị dạy học.
1.2.2.2. Quản lý hoạt động học của học sinh.
Dạy và học là hai hoạt động tác động và phối hợp với nhau, nếu thiếu
một trong hai hoạt động đó thì quá trình dạy học không diễn ra. Quá trình dạy

và học liên hệ mật thiết với nhau, diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ sẽ
tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học, từ đó sẽ tạo nên
hiệu quả cho quá trình dạy học.
Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự
tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thu nhận, xử
lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người học
thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.
Hiệu trưởng quản lý học sinh thông qua đội ngũ giáo viên chủ nhiệm,
giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy, hoạt động của các đoàn thể về kết quả
học tập và rèn luyện của học sinh. Để quản lý tốt hoạt động học của học sinh,
hiệu trưởng cần: xây dựng và quản lý nền nếp học tập cho học sinh; bồi
23
dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu-kém; phối hợp với cha mẹ học
sinh trong việc quản lý hoạt động học của học sinh; kiểm tra đánh giá học
sinh trong quá trình học.
Việc kiểm tra-đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh là khâu
quan trọng của quá trình dạy học. Kết quả học tập của học sinh chính là kết
quả giảng dạy của giáo viên, nó là căn cứ để điều chỉnh thực trạng hoạt động
dạy học. Hiệu trưởng phải có kế hoạch cụ thể để quản lý việc kiểm tra-đánh
giá kết quả học tập của học sinh.
Hiệu trưởng có hình thức động viên, khen thưởng kịp thời đối với
những học sinh có cố gắng vươn lên và những học sinh đạt kết quả cao trong
học tập. Phê bình nhắc nhở những học sinh chưa chăm chỉ học tập, phối hợp
với các lực lượng giáo dục và cha mẹ học sinh để có biện pháp khắc phục.
Hiệu trưởng chỉ đạo các tổ chuyên môn và giáo viên chủ nhiệm sớm
phân loại học sinh để có hướng phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học
sinh khá giỏi, phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có nhiều khả năng đặc
biệt.
2.2.2.3. Quản lý việc kiểm tra-đánh giá hoạt động dạy học.
Kiểm tra-đánh giá trong giáo dục diễn ra thường xuyên nhằm đảm bảo

cho việc thực hiện giáo dục đúng pháp luật, đồng thời phát huy nhân rộng
những yếu tố tích cực, phát hiện và ngăn chặn những vi phạm sai trái, bảo vệ
được lợi ích cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động giáo dục.
Kiểm tra-đánh giá là một nội dung thể hiện rõ nhất công tác quản lý.
Trong quản lý giáo dục nói chung, quản lý hoạt động dạy học nói riêng, kiểm
tra-đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển,
hoàn thiện công tác quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục.
Kiểm tra-đánh giá hoạt động dạy học của Hiệu trưởng luôn gắn liền với
hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Kiểm tra-đánh
24
giá kết quả học tập của học sinh là nhiệm vụ của giáo viên và là một yếu tố
của quá trình dạy học. Thông qua kết quả học tập của học sinh mà Hiệu
trưởng đánh giá được chất lượng dạy của giáo viên. Bên cạnh đó Hiệu trưởng
còn kiểm tra việc thực hiện chương trình, thực hiện nền nếp dạy học, đổi mới
phương pháp dạy học ….của giáo viên . Hiệu trưởng phân công, phân cấp
hoặc trực tiếp kiểm tra-đánh giá.
1.2.2.4. Mối quan hệ giữa dạy học và quản lý hoạt động dạy học.
Để đạt được được mục đích dạy học, người dạy và người học phải cộng
tác trong việc phát huy các yếu tố chủ quan của học (phẩm chất và năng lực
cá nhân) nhằm xác định nội dung, lựa chọn phương pháp, tìm kiếm các hình thức,
tận dụng các phương tiện và điều kiện dạy học, đánh giá kết quả thu được.
Các công việc trên được thực hiện theo một kế hoạch, có sự tổ chức
tuân thủ sự chỉ đạo và được sự kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý dạy học.
Nói cụ thể hơn, trong quá trình dạy học đã xuất hiện đồng thời các hoạt động
của chủ thể quản lý dạy học của người dạy và của người học như sau:
- Chủ thể quản lý dạy học tác động đến người dạy và người học thông
qua việc thực hiện các chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
- Người dạy vừa chịu sự tác động của chủ thể quản lý dạy học, vừa tự
kế hoạch hóa hoạt động dạy học, tự tổ chức việc dạy và tổ chức việc học cho
người học, tự chỉ đạo hoạt động dạy của mình và chỉ đạo hoạt động học của

người học, đồng thời tự kiểm tra đánh giá kết quả dạy của mình và kiểm tra
đánh giá kết quả học của người học.
- Người học tự xây dựng kế hoạch, tự tổ chức, tự chỉ đạo và tự kiểm tra
hoạt động học của mình theo kế hoạch, cách thức tổ chức, sự chỉ đạo và
phương thức kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý dạy học và người dạy.
Vấn đề của chủ thể quản lý là chủ thể dạy học cần sử dụng những
phương tiện nào để đạt mục đích dạy học và các phương tiện dạy học đó do ai
tạo ra cho họ? Có thể trả lời câu hỏi này như sau:
25

×