Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tham vọng của Mỹ trong thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.92 KB, 56 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
USD:………………………………...Đô la Mỹ.
ĐCS:…………………………………Đảng Cộng Sản.
WB:…………………………………Ngân hàng thế giới.
WTO:……………………………….Tổ chức thương mai quốc tế
IMF:………………………………...Quỹ tiền tệ quốc tế.
GDP:………………………………..Tổng giá trị quốc nội.
TBCN……………………………….Tư bản chủ nghĩa.
XHCN……………………………….Xã hội chủ nghĩa.
CHDCND……………………………Cộng hòa dân chủ nhân dân
LHQ…………………………………Liên hợp quốc.
BRICs………......................................Các nước đang phát triển
(Brazin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên Bảng Trang
2.1 Quân số của Mỹ ở nước ngoài 35 – 36
MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1.1 Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên trong lịch sử nhân loài trở thành một
đế chế mang tính toàn cầu, nhờ có sức mạnh tổng hợp nên Hoa Kỳ đã trở
thành chủ nhân của thế kỷ XX, lãnh đạo một cách không tranh cãi trong thế
giới tư bản. Nhưng sang thế kỷ XXI tình hình thế giới có những biến động
không giống như thế kỷ XX, đó là sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống
XHCN ở Đông Âu đã làm cho trật tự thế giới bị phá sản, trong khi một trật
tự thế giới mới còn chưa kịp định hình thì các nước mới trỗi dậy cũng ra sức
gây khó dễ cho Mỹ trong việc muốn định đoạt toàn bộ thế giới và biến thế
giới trở thành khuôn mẫu của Mỹ, vậy sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ XXI
có còn đủ sức để tiếp tục lãnh đạo thế giới nữa hay không?
1.2 Sự vươn lên của Trung Quốc là điểm nhấn của lịch sử nhân loài
trong thế kỷ XXI và khiến người ta có những phán đoán về cuộc chuyển đổi
quyền lực thứ ba trong lịch sử 500 năm trở lại đây của loài người sẽ chuyển


từ Mỹ sang cho Trung Quốc. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự
đó khiên chúng ta cần phải nhìn nhận lại sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ mới
và cần phải làm sáng tỏ những tham vọng của chính quyền Hoa Kỳ trong thế
kỷ XXI. Do đó chúng tôi chọn vấn đề: Tham vọng của Mỹ trong thế kỷ XXI
làm vấn đề nghiên cứu.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
Mỹ là một siêu cường còn đang duy trì vai trò lãnh đạo của mình
trong thời đại ngày nay, sự phát triển của Mỹ cũng chính là một phần đóng
góp cho sự phát triển của thế giới, do đó nghiên cứu về Mỹ trong thế kỷ XXI
cũng là một phần của lịch sử nhân loại đương đại. Việc nghiên cứu về Mỹ
trong thế kỷ XXI được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau và còn nhiều
ý kiến trái chiều nhau xung quanh vấn đề quyền lực, sức mạnh và tham vọng
của Mỹ trong thế kỷ mới.
Đối với các học giả nước ngoài:
Tác giả Emmanuel Tood trong cuốn Hậu Đế Chế xuất bản 2004 đã đặt
ra câu hỏi trong “thế kỷ XXI, nước Mỹ tốt hay xấu, mạnh hay yếu, là siêu
cường duy nhất hay đang trên đà tan rã?” [5, tr. 5] với nhãn quan chính trị
sắc bén của mình tác giả khẳng định chiến lược của Mỹ tự cho mình là siêu
cường quốc duy nhất đã trở thành mối đe dọa cho nền hòa bình toàn thế giới,
đồng thời với việc đưa ra các bảng so sánh, các số liệu một cách khoa học,
tác giả đã tập trung phân tích các yếu tố làm tan rã đế chế Mỹ hiện nay và
tác giả còn đề ra một sô giải pháp nghiên cứu mang tính chiến lược có giá trị
nghiên cứu cao. Tuy nhiên tác giả Emmanuel Tood mới chỉ đưa ra các cơ sở
số liệu về các lĩnh vực của Mỹ và dựa vào sự trỗi dậy của các quốc gia như
Nga, Trung Quốc hay Ấn Độ, dựa vào tính bất ổn của nguồn lực ở Mỹ để
khẳng định sự tan ra của Mỹ, tác giả chưa thực sự đi sâu vào các vấn đề
chiến lược của Mỹ trong việc duy trì sức mạnh của mình, chưa tìm hiểu
những giải pháp của Mỹ trong tương lai, cũng như tác giả chưa thấy được
tính hai mặt, tính bất ổn của các đối thủ của Mỹ
Tác giả Merryl Wyn Davies trong cuốn: Người Mỹ tự hỏi vì sao người

ta gét nước mỹ?, xuất bản năm 2004 với việc đặt ra câu hỏi như trên tác giả
đã đi vào khai thác tình hình nước Mỹ kể từ sau khi nổ ra vụ khủng bố ngày
11 – 9 – 2001 và bằng các lập luận của mình, ông đã xây dựng lại hình ảnh
một nước Mỹ nhiều tiền bạc và quyền uy nhưng tiềm ẩn không ít những bất
ổn, hình ảnh một nước Mỹ với âm mưu thôn tính và là bá chủ toàn cầu, đồng
thời ông cũng cho rằng những tham vọng của Mỹ cũng như những uy quyền
mà Mỹ có được đã dẫn đến người ta ghét nước Mỹ. Tuy nhiên thông qua câu
hỏi Người Mỹ tự hỏi vì sao người ta ghét nước Mỹ cũng làm sáng tỏ hơn
những tham vọng bá quyền của Mỹ.
Tác giả Fareed Zakari trong cuốn Thế giới hậu Mỹ xuất bản năm 2009
đã có cái nhìn toàn diện hơn về sức mạnh cũng như quyền lực của nước Mỹ
trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở phân tích các nguồn lực của Mỹ, cũng
như thấy được triển vọng của các nước đang phát triển, cạnh tranh với Mỹ,
ông đã khẳng định hiện nay, nước Mỹ vẫn là siêu cường quốc tế, thế nhưng
vị trí độc tôn này đang bị lung lay bởi sự trỗi dậy của các quốc gia thuộc
phần còn lại của thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ…, tuy nhiên ông cũng
khẳng định cuộc chuyển giao quyền lực này còn phải kéo dài trong tương lai
vì tính bất ổn của các quốc gia mới trỗi dậy đó.
Đối với các học giả trong nước:
Việc tập trung nghiên cứu về Mỹ chủ yếu là các công trình khoa học,
các bài báo khoa học được đăng trên tạp chính Châu Mỹ ngày nay, các tác
giả như: Nguyễn Vũ Tùng trong bài viết, “Chiến lược toàn cầu của Mỹ sau
chiến tranh lạnh”, (số 04, năm 2008), hay bài “Cuộc thảo luận về sức mạnh
khôn ngoan và ảnh hưởng của nó tới chính sách đối ngoại của Mỹ dưới
chính quyền Obama”, đã phân tích các chiến lược cũng như các tham vọng
của Mỹ trong đường lối ngoại giao của Mỹ với mưu đồ duy trì sự thống thế
giới của Mỹ, tác giả Đỗ Trọng Quang trong bài, “Chiến lược hải quân Mỹ
trong thời đại mới”, Châu Mỹ ngày nay, (số 08) năm 2009 cũng nói lên
những tham vong vè quân sự của Mỹ trong thế kỷ mới.
Trên cơ sở những công trình đã được công bố như trên là một phần

đóng góp không nhỏ cho quá trình hoàn thành đề tài: Tham vọng của Mỹ
trong thế kỷ XXI.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi xuất phát từ những mục đích sau:
Thứ nhất: nghiên cứu tài liệu để từ đó khôi phục lại bức tranh toàn
cảnh về nước Mỹ trong thế kỷ XX và thập niên đầu thế kỷ XXI, từ đó chứng
minh được tiềm lực siêu cường của Mỹ.
Thứ hai: Thông qua nghiên cứu tài liệu chúng tôi tập trung làm rõ
tham vọng của Mỹ trong thế kỷ XXI trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế,
quân sự, chính trị, văn hóa… Từ đó có nhận định khách quan hơn về những
chính sách cho việc bảo vệ ngôi bá quyền của Mỹ.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Đề tài chọn đối tượng nghiên cứu đó là những chính sách thể hiện cho
tham vọng bá quyền của Mỹ ở thể kỷ XXI, trên cơ sở các chủ trương hay các
chiến lược của Mỹ về các mặt kinh tế, chính trị quân sự để từ đó khái quát,
làm sáng tỏ những tham vọng của Mỹ.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Về nội dung: Nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực cụ thế của Mỹ như:
chính sách ngoại giao, kinh tế, quân sự, văn hóa và những chủ trương mở
rộng tầm ảnh hưởng của Mỹ.
Về thời gian: Đế làm sáng tỏ tham vọng của Mỹ trong thế kỷ XXI,
chúng tôi tập trung vào nghiên cứu những nền tảng của Mỹ từ thế kỷ XX,
trên cơ sở đó tập trung nghiên cứu tình hình nước Mỹ trong 10 năm đầu của
thế kỷ XXI.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử.
Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp của hai phương
pháp ấy đươc xem là phương pháp chủ đạo trong quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu tư liệu,

thu thập và sử lý tư liệu, khái quát, phân tích, tổng hợp tư liệu.
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
Về mặt khoa học: Đề tài đã khôi phục một cách khoa học, chính xác
về các chính sách biểu hiện cho tham vọng của chính quyền Hoa Kỳ trong
việc duy trì ngôi vị đứng đầu thế giới, thông qua các chính sách cụ thể đó
của Mỹ để có cái nhìn khách quan hơn về tiềm lực của Mỹ và thấy được chủ
nhân thực sự của thế giới trong giai đoạn hiện nay, góp phần giải quyết
những tranh cãi xung quanh vấn đề thế kỷ 21 là thế kỷ của Mỹ hay của
Trung Quốc?
Về mặt thực tiễn: đề tài là cơ sở khoa học khi đánh giá về nước Mỹ
trong thế kỷ XXI, thông qua đây cũng là tài liệu học tập và giảng dạy các
chuyên đề, học phần lịch sử thế giới ở các bậc học cao và là tài liệu học tập
và giảng dạy cho thầy và trò ở trường phổ thông khi nghiên cứu về cường
quốc Hoa Kỳ.
8. CÂU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI.
Ngoài phần mở đầu, kết luân và tài liệu tham khảo, để tài được chia là
ban chườn với nội dụng:
Chương 1
NƯỚC MỸ TRÊN CON ĐƯỜNG XÁC LẬP QUYỀN LÃNH ĐẠO KHÔNG
TRANH CÃI TRONG THẾ KỶ XX.
Chương 2
NƯỚC MỸ VỚI NHỮNG THAM VỌNG TRONG THẾ KỶ XXI.
Chương 3
NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI MỸ TRONG THẾ KỶ XXI.
Chương 1
NƯỚC MỸ TRÊN CON ĐƯỜNG XÁC LẬP QUYỀN LÃNH
ĐẠO KHÔNG TRANH CÃI TRONG THẾ KỶ XX
1.1Chính sách ngoại giao của Mỹ, từ chủ nghĩa “biệt lập” đến
“chiến lược ngoại giao toàn cầu”.
Ngay từ ngày lập quốc nước Mỹ đã lựa chọn và trung thành với đường

lối ngoại giao biệt lập của tổng thống G.Oasinhtơn, theo đường lối này
người Mỹ tự bó hẹp mình trong khuôn khổ nước Mỹ và châu Mỹ, không ký
bất cứ một hiệp ước nào đối với các nước phương Tây trên tất cả các lĩnh
vực. Nhưng cùng với quá trình mở rộng đất đai về phía Tây và hoàn thành
cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ, quốc gia này đã trỗi dậy một cách mạnh mẽ và
đầy tiềm lực, với tính ưu việt của một thể chế nhà nước Cộng Hòa, một cơ
chế quyền lực mang tính kiềm chế và đối trọng đã giúp Mỹ trở thành kiểu
mẫu của thế giới lúc đương thời. Với sự vươn lên đó làm cho Mỹ không tự
bằng lòng với những gì mình đã có, tham vọng muốn mở rộng ảnh hưởng
của Mỹ ngày càng được biểu hiện rõ nét, trước hết là khu vực Mỹ - latinh
vào tháng 2 năm 1823 Mỹ đưa ra học thuyết Mơnrô với khẩu hiệu “Châu Mỹ
của người Mỹ”, đây là mộc đánh dấu cho sự chấm dứt hoàn toàn đường lối
ngoại giao “biệt lập” của chính phủ Hoa Kỳ.
Học thuyết Mơn rô được ban hành với mục đích tranh giành quyền
thống trị của thực dân Tây Ban Nha trên các thuộc địa ở khu vực châu Mỹ -
latinh, sự tranh chấp đó đã dẫn đến cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban
Nha vào năm 1840, đây là cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên của Mỹ và cũng
là tiếng súng đầu tiên báo hiệu chiến tranh đế quốc chia lại thế giới, kết thúc
chiến tranh Mỹ đã xác lập được quyền thống trị của mình trên các thuộc địa
như Cu Ba, Puectô Riccô. Để tiếp tục đặt quyền thống trị lên toàn bộ châu
Mỹ - latinh, năm 1893 Mỹ đặt quyền bảo hộ đối với Ha Oai và đưa ra học
thuyết liên Mỹ với mục đích: Tách Panama ra khỏi Côlômpia và thành lập
nhà nước cộng hòa Panama, chính phủ Panama phải cho Mỹ quyền sở hữu
vĩnh viễn kênh đào này, cho quyền xây dựng đường sắt và thiết lập công sự.
Không chỉ dừng lại ở những chính sách đó, Mỹ tiếp tục thực hiên các
chính sách ngoại giao “Cây gậy lớn và củ cà rốt” và “chính sách ngoại giao
đồng đôla” đối với các nước châu Mỹ - latinh và thống trị toàn bộ khu vực
tây bán cầu này.
Vươn ra khỏi khuôn khổ nước Mỹ và châu Mỹ, tham vọng mở rộng và
tranh giành ảnh hưởng với các nước thực dân già cũng được Mỹ biểu hiện

khá rõ nét. Đó là việc Mỹ muốn đặt chân vào thị trường Trung Quốc, Mỹ đã
đưa ra cái gọi là “chính sách mở cửa” vào năm 1889 nhằm mục đích:
Các nước thừa nhận chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc,
các nước đều bình đẳng đối với các đặc quyền ở Trung Quốc không xâm
phạm vào những khu vực của nhau. Ở các khu vực ảnh hưởng của các nước
thì đều đánh thuế ngang nhau với hàng hóa nước khác nhập vào. Thực chất
của chính sách này là Mỹ muốn hàng hóa của Mỹ có chân trong thị trường
rộng lớn này, với sự tràn ngập hàng hóa của người Mỹ, dần dần Mỹ sẽ vươn
lên trên hết về sự cạnh tranh với các nước khác, từ đó biến Trung Quốc trở
thành đắc địa cho Mỹ.
Có thể nói từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Mỹ đã bộc lộ tham
vọng vươn ra thế giới, nhưng trong giai đoạn này Mỹ mới chỉ là một cường
quốc phát triển mạnh về kinh tế mà chưa thực sự trở thành một đế quốc hùng
mạnh về quân sự và vị thế của Mỹ trên trường quốc tế còn quá mờ nhạt, đặc
quyền ấy vẫn còn nằm trong tay các nước thực dân có nhiều thuộc địa trong
khi Mỹ chỉ mới bắt đầu đặt tầm ảnh hưởng của mình lên khu vực châu Mỹ
mà thôi.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ thực hiện đường lối ngoại
giao toàn cầu phản cách mạng với âm mưu thống trị toàn thế giới, tiêu diệt
các đối trọng của Mỹ một cách khồng thương tiếc đó chính là chủ nghĩa
cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc:
“Mỹ đề ra ba mục tiêu cho chiến lược toàn cầu, ngăn chặn, đẩy lùi,
tiến tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, đàn áp phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ thế giới, nô dịch các nước đồng
minh, tập hợp các lực lượng phản động quốc tế đặt dưới sự lạnh đạo của
Mỹ” [13, tr. 290], để thực hiện âm mưu trên, Mỹ đã dựa trên các cơ sở chiến
tranh và các thế mạnh của mình để khuất phục các dân tộc khác, đồng thời
Mỹ còn chia thê giới ra thành các khu vực ưu tiên bao gồm:
 Châu Âu: Đây là khu vực quan trọng nhất vì vừa có các đồng
minh Tây Âu, lại vừa có Liên Xô, Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ

nghĩa, do đó phải tập trung chống phá.
 Trung Đông: Được coi là mái nhà của thế giới, với nguồn năng
lượng dầu mỏ tập trung nhiều hơn so với các khu vực khác trên thế giới, do
đó nó được coi là trái tim của thế giới, nếu ai chiếm được Trung Đông thì sẽ
làm chủ thế giới.
 Đông Bắc Á: Nơi đây điển hình với sự vươn lên một cách thần
kỳ của Nhật Bản, một cường quốc trong thế giới tư bản và là nguy cơ đối
trọng gay gắt nhất của Mỹ, là đối thủ có khả năng nhất trong cuộc chay đua
tranh giành ngôi vị đứng đầu thế giới với Mỹ trong thế kỷ XX, do đó cần
phải kiềm chế Nhật Bản.
 Mỹ - latinh và Đông Nam Á: cũng được coi là mục tiêu tiêu diệt
của Mỹ, đặc biệt trong chiến tranh lạnh Việt Nam – Đông Dương được xem
là nơi đụng đầu của hai phe chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở chiến lược toàn cầu phản cách mạng này, dưới các đời tổng
thống Mỹ đã xây dựng lên các học thuyết mang tên mình để đạt những mục
tiêu cụ thể, như thời kỳ tổng thống Tơrumam, Aixenhao trong các học thuyết
của mình, họ tập trung xây dựng các căn cứ quân sự trên toàn cầu và ngoại
giao nguyên tử được xem là nền tảng, đến thời Kenơđi, Giônxơn lại tập
trung thi hành các học thuyết như “mở rộng biên giới” và chiến lược “hòa
bình” để nô dịch các quốc gia mới giải phóng bằng cách xây dựng các nhà
nước theo mô hình tư bản chủ nghĩa kiểu Mỹ. Đến năm 1992 Mỹ lại thực
hiện chính sách “vượt lên ngăn chặn” chủ động tiến công hoặc thực hiên
chiêu bài diễn biến hòa bình tấn công vào Đông Âu, Liên Xô, tiêu diệt một
mảng lớn các nước xã hội chủ nghĩa trên lãnh thổ châu Âu.
Những chính sách ngoại giao này cho thấy Mỹ thực sự là quốc gia
hùng mạnh nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối trong phe tư bản chủ nghĩa. Dựa
trên ưu thế đó giới cầm quyền Mỹ luôn chủ quan cho rằng sau chiến tranh sẽ
là thời đại của Mỹ, thời đại mà Mỹ có thể dùng sức mạnh của mình để buộc
các dân tộc khác phải phục tùng. Điều này cũng đồng nghĩa với sự suy yếu
của các nước tư bản Tây Âu trước sự vươn lên của Mỹ và trước sự bùng nổ

mạnh mẽ của phong phào giải phóng dân tộc trên thế giới, sự vươn lên của
các nước xã hội chủ nghĩa đã khiến cho Mỹ phải lo sợ và Mỹ tự gán cho
mình trách nhiệm cầm đầu các nước tư bản bảo vệ “thế giới tự do”.
1.2 Nước Mỹ và sự xác lập quyền lực trong thế kỷ XX.
1.2.1 Sự xác lập quyền lực kinh tế của Mỹ.
Cuộc cách mạng công nghiệp diên ra vào thế kỷ XVII ở Anh và Châu
Âu đã đưa vương quốc Anh vươn lên đứng đầu thế giới về mọi mặt, và nắm
giữ ngôi vị lãnh đạo thế giới tư bản lúc đương thời, vị thế đứng đầu thế giới
của nước Anh còn được duy trì vào nhiều thập niên của thế kỷ XIX. Nhưng
bước sang thế kỷ XX, vị thế ấy của Anh không còn được duy trì nữa, dấu
mốc chính thức đánh dấu cho cuộc chuyển giao quyền lực này là: “chiến
tranh thế giới thứ hai chính là chiếc đinh cái đóng chết vào cái quan tài của
quyền lực kinh tế Anh quốc” [5, tr. 242]. Cuộc chuyển giao quyền lực kinh tế
ấy đã được đặt lên vai người Mỹ, nhưng ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ
nhất Mỹ đã trở thành chủ nợ đối với các nước Châu Âu, sự tổn thất sau chiến
tranh đã khiến châu Âu phải vay Mỹ 10 tỷ USD để giải quyết khó khăn và
khôi phục đất nước, sự túng thiếu của châu Âu đã là cơ hội lớn cho Mỹ đầu
tư tư bản của mình ra nước ngoài và trở thành ông chủ của những kẻ trước
đây đã từng thống trị mình:
“Sau hai năm chiến tranh do châu Âu cần hàng hóa Mỹ, đã tạo điều
kiện cho công nghiệp Mỹ phát triển mạnh mẽ. Năm 1919 hàng Mỹ xuất sang
châu Âu lên tới gần 8 tỷ đô la, vốn đầu tư dài hạn của Mỹ ra nước ngoài đạt
6,4 tỷ đô la. Mỹ cũng trở thành nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới, chiếm
1/3 số vàng thế giới” [13, tr.92]. Không tham gia vào cuộc chiến tranh thế
giới thứ nhất, nhưng Mỹ với tư cách là ông chủ buôn vũ khí cho cả hai bên
tham chiến đã khiến Mỹ giàu lên nhanh chóng, Mỹ đã trở thành trung tâm
kinh tế, thương mại tài chính quốc tế, trong khi các nước Tây Âu còn đang
phải oằn mình vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh thì Mỹ đã: “khẳng
định vị trí số một của mình và ngày càng vượt trội các đối thủ. Năm 1922 ở
hội nghị Giơ ne vơ đồng đô la đã được công nhận là đồng tiền quốc tế cùng

với đồng bảng của Anh” [13, tr.92], quy chế này đã khẳng định vị thế của
Mỹ trong thế giới tư bản, chính thức xác lập được giá trị của đồng tiền Mỹ
và biến nó trở thành đồng tiền giao dịch quốc tế với mệnh giá lớn.
Trong những năm tiếp theo nửa đầu thế kỷ XX, Mỹ đã tiếp tục thể
hiện vai trò của một cường quốc kinh tế, với tính năng động của một nền
kinh tế trẻ , quá trình tích lũy tư bản ở Mỹ đã diễn ra mạnh mẽ và bằng nhiều
biện pháp khác nhau, quy mô sản xuất được mở rộng, phương tức sản xuất
tư bản ngày càng được cải biến, áp dụng lối sản xuất theo dây chuyền kiểu
Taylor và For làm cho năng suất lao động tăng lên đột biến:
“việc cải tiến kỹ thuật và phương pháp sản xuất như vậy đã làm cho
nền kinh tế Mỹ, vốn đã có lợi thế hơn các nước khác đã phát triển hết sức
mạnh mẽ trong thời kỷ ổn định của chủ nghĩa tư bản. Từ năm 1923 đến 1929
sản lượng công nghiệp của Mỹ đã vượt quá 9% so với sản lượng của năm
cường quốc, Đức, Pháp, Anh, Nhật, Italia cộng lại, Mỹ sản xuất 57% máy
móc; 49% gang; 51,5% thép và 70% dầu hỏa thế giới, số tư bản xuất khẩu
của Mỹ từ 6 tỉ 456 triêu đô la (năm 1919) tăng lên 14 tỉ 416 triệu đô la (năm
1929)” [13, tr.94]. Sự phát triển nhanh và ổn định của nền kinh tế Mỹ đã tạo
ra cả một thời kỳ thịnh vượng tưởng chừng không bao giờ chấm dứt được,
những người lãnh đạo nước Mỹ đã lạc quan khẳng định rằng nước Mỹ đang
đi tới xóa mức nghèo nàn, lạc hậu nhất thế giới.
Trong giai đoạn 1929 – 1933 nước Mỹ cũng chịu tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế thừa, tình trạng sản xuất có bị đình đốn, và giảm xuống,
nhưng vị trí số một về kinh tế của Mỹ vẫn chưa có quốc gia nào vượt qua.
Mỹ đã mau chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và tranh thủ làm giàu
trong thế chiến thứ hai, kết thúc thế chiến Mỹ đã chiếm 3/4 khối lượng vàng
của thế giới tư bản, sau chiến tranh Mỹ là nước chủ nợ duy nhất trên thế
giới, sản lượng công nghiệp của Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng của thế
giới tư bản (56,4% năm 1948). Sản lượng nông nghiệp bằng hai lần sản
lượng của năm nước Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Nhật Bản cộng lại (năm
1949). Nước Mỹ đã tìm ra cho mình con đường riêng để phát triển kinh tế

đất nước, chính phủ đã tạo điều kiện để tập trung tư bản vào sản xuất với
quy mô lớn, hình thành lên những công ty, tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia
và phát triển một nền kinh tế quân sự hóa, làm giàu từ chiến tranh, do đó mà
ngành công nghiệp quân sự của Mỹ chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp,
chiếm tới 1/3 số công nhân lao động trong các ngành công nghiệp, chính sự
lựa chọn con đường riêng đó đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền
vững và ổn định, GDP của Mỹ luôn ở mức cao so với các quốc gia khác trên
thế giơi: “đây còn là một ngoại lệ hiếm hoi…nước Mỹ đã ghi dấu của mình
trong khoảng 1/4 tổng sản lượng toàn thế giới trong gần một thế kỷ (32% vào
năm 1913, 26% vào năm 1960, 22% vào năm 1980, 27% vào năm 2000)” [5,
tr.254]. Thời kỳ hoàng kim của nền kinh tế Mỹ là vào những năm 1950,
trong khi tổng giá trị quốc dân của Mỹ đạt con số 349 tỉ USD thì các nước tư
bản khác như: Nhât Bản đạt 20 tỉ USD, Đức đạt 33 tỉ USD, Anh đạt 59 tỉ
USD, Pháp đạt 39 tỉ USD, điều này cho thấy Mỹ đã vượt xa so với các đôi
thủ tư bản khác, Mỹ đã có đủ tiềm lực để thống trị nền kinh tế thế giới, biểu
hiện kinh tế Mỹ là khuôn mẫu và là thước đo cho tiêu chuẩn kinh tế thế giới
đương thời.
Từ sức mạnh của nền kinh tế đó mà Mỹ đã xác lập được những quyền
lực của mình trong nền tài chính thế giới, trong thập niên 60, Mỹ đã tiến
hành viện trợ cho các quốc gia đang phát triển hay các quốc gia mới giải
phóng với mục đích xây dựng mô hình tư bản kiểu Mỹ, trong đó điển hình là
Thái Lan được Mỹ cung cấp cho 10 tỉ USD, Mỹ đưa các chuyên gia, cố vấn
sang giúp Thái Lan xây dựng mô hình nhà nước mới, nhưng đổi lại Mỹ cũng
yêu cầu chính phủ Thái Lan phải mở cửa để cho hàng hóa của Mỹ thâm
nhập vào thị trường Thái. Quyền lực kinh tế của Mỹ còn được thể hiện sau
khi kết thúc chiến tranh, Mỹ đã tiến hành thành lập ra các tổ chức kinh tế
quốc tế như: tổ chức thương mại quốc tế WTO, ngân hàng thế giới WB, tổ
chức quỹ tiền tệ thế giới IMF, thông qua các tổ chức này Mỹ gây sức ép với
các đối thủ của mình, đặc biệt là các nước đang phát triển, ví dụ thông qua
WTO với những chiêu bài đe dọa ngừng xuất khẩu, chống bán phá giá, an

toàn thực phẩm đều là những luật chơi mà Mỹ luôn là người giành chiến
thắng, còn IMF thì luôn đưa ra các điều kiện cho vay rất ngặt nghèo, ngăn
cản sự chia se với các quốc gia khác. Thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế
này Mỹ đã thực hiện quyền lực của mình trong việc điều khiển các nước
đang phát triển, hỗ trợ các công ty quốc tế của mình, dẹp bỏ mọi rào cản trên
đường đi xâm chiếm thị trường. Mỹ cũng cho mình những siêu quyền lực về
kinh tế mà không một quốc gia nào khác trên thế giới có được, đó là việc
chính phủ Hoa Kỳ đơn phương áp dụng những biện pháp kinh tế áp đặt, cái
mà người Mỹ gọi là lệnh trừng phạt. Trong 80 năm qua lệnh trừng phạt đó
đã áp dụng cho 120 trường hợp, 104 trường hợp trừng phạt vào sau Đại
chiến thế giới thứ hai. Chỉ trong năm 1998 Hoa Kỳ đã áp dụng lệnh trừng
phạt đối với 75 quốc gia, chiếm 52% dân số thế giới.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, kinh tế Mỹ đã lâm vào tình trạng
suy thoái tương đối, biểu hiện là sự suy giảm về năng suất lao động như:
trong lĩnh vực công nghiệp giảm 8%/năm, có những ngành giảm tới 12%,
11% và 10% (vật liệu xây dựng, khai khoáng), để cải thiện tình hình tổng
thống Rigân đã đưa ra chương trình “phục hồi sức mạnh kinh tế Mỹ” bao
gồm cải cách cơ cấu kinh tế, cải cách tài chính, và thuế khóa, ổn định tiền tệ,
củng cố vị trí kinh tế trên trường quốc tế, những học tuyết kinh tế mới như
“chủ nghĩa trọng cung”, “chủ nghĩa tiền tê” kết hợp với chuyển dich cơ
cấu kinh tế một cách triệt để, giảm mạnh lĩnh vực nông nghiệp từ 4,2 % thu
nhập quốc dân vào năm 1988 xuống còn 2% năm 1991, những áp dụng rộng
rãi các thành tựu khoa học, kĩ thuật đã mau chóng giúp nền kinh tế Mỹ khôi
phục lại tốc độ phát triển năng động vốn có của nó: “về máy tính cỡ lớn Mỹ
chiếm 65%, Nhật Bản chiếm 26%, Tây Âu chiếm 9%, máy tính cá nhân Mỹ
chiếm 64%, Nhật Bản 18% , Tây Âu chiếm 12%” [13, tr. 429].
Từ sức mạnh của nền kinh tế Mỹ đã xác lập được quyền lãnh đạo nền
kinh tế thê giới của Mỹ, sự thắng thế tuyệt đối của Mỹ đã bỏ xa các nước
đồng minh hay các nước tư bản khác, sự vươn lên của Nhật Bản không phải
là môi lo lớn đối với Mỹ trong cuộc chạy đua giành ngôi bá chủ nền kinh tế

thế giới trong thế kỷ XX. Mỹ thực sự đã trở thành bá chủ nền kinh tế toàn
cầu, tiêu chuẩn, chất lượng của nền kinh tế Mỹ đã là thước đo cho nhân loài
trong thời đại ngày nay.
1.2.2 Sự xác lập quyền lực của Mỹ trên lĩnh vực quân sự trong thế
kỷ XX.
Trong lịch sử nhân loài, các đế quốc thường sử dụng các căn cứ quân
sự ở bên ngoài để áp đặt sự thống trị của mình lên các quốc gia đó, vì vậy
vào thế kỷ XIX sau khi đế chế Anh đã thiết lập được một hệ thống thuộc địa
lớn trên toàn cầu đã thiết lập trên đó các căn cứ quân sự có chức năng bảo hộ
và áp đặt:
“người Anh đã thành lập 4 mạng lưới dọc hành lang đường biển nằm
dưới sự thống trị của đế chế Anh: (1) từ Địa Trung Hải đến Ấn Độ thông qua
kênh đào suêz, (2) Nam Á; Viễn Đông và Thái Bình Dương; (3) Bắc Mỹ và
Caribê; (4) Tây Phi và nam Thái Bình Dương, vào giai đoạn này căn cứ quân
sự của đế chế Anh trải dài trên 35 quốc gia trên các thuộc địa” [18, tr. 34].
Nhưng kể từ sau thế chiến thứ hai kết thúc đế chế Anh đã chấm dứt vai trò
người đứng đầu thế giới thì sức mạnh quân sự mà trước hết là các căn cứ
quân sự của Anh trên khắp thế giới hoặc là bị bỏ roi hoặc là bị phá sản,
quyền lực đó được chuyển sang cho Mỹ:
“sau thế chiến hai sự xuất hiện của Mỹ với vai trò của một đế chế mới
trỗi dậy, Mỹ đã sử dụng hệ thống những căn cứ quân sự rộng lớn chưa từng
có, cho đến cuối chiến tranh thế giới thứ hai hệ thống các căn cứ quân sự
nước ngoài của Mỹ lên đến hơn 30 nghìn căn cứ được phân bố tại hai nghìn
địa điểm và được xây dựng tại khoảng 100 quôc gia và khu vực, mở rộng
vành đai từ Bắc cưc đến Nam cực” [18, tr 35]. Không chỉ dừng lại ở việc
thiết lập các căn cứ quân sự, để thực hiện âm mưu tiêu diệt các nước xã hội
chủ nghĩa và đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Mỹ đã tiến
hành thành lập các tổ chức quân sự xâm lược nhằm tập hợp các lực lượng
phản cách mạng dưới sự chỉ huy của Mỹ để bao vây Liên Xô và các nước
Đông Âu xã hội chủ nghĩa, để thực hiện mục đích đó chính phủ Mỹ một mặt

ra sức vận động Quốc hội Mỹ, mặt khác thương lượng với các nước Tây Âu
để thực hiện mục đích, kết quả là ngày 11 – 6 – 1948 Quốc hội Mỹ đã thông
qua quyết định Vanđenbơ cho phép chính phủ Mỹ lần đầu tiên trong lịch sử
có quyền được ký kết những liên minh quân sự với các nước ngoài Châu Mỹ
trong thời bình, quyết định này như là sự cởi trói cho chính phủ Mỹ được tự
do thực hiện những âm mưu quân sự của mình để vươn tới ngôi vị bá chủ
thế giới về sức mạnh quân sự, ngày 4 – 4 – 1949 hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương đã được ký kết quyết định thành lập ủy ban phòng thủ và ủy ban
quân sự (NATO) gồm 12 nước trong đó Mỹ đứng đầu (Mỹ, Anh, Pháp,
Italia, Canađa, Hà Lan, Na uy, Đan Mạch, Bỉ, Lúcxembua, Bồ Đào Nha,
Airơlen).
Với mục đích bao vây và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và lấy lý do
biện minh cho sự cần thiết phải đưa sức mạnh ra bên ngoài và bảo vệ những
lợi ích của Mỹ ở bên ngoài, do đó Mỹ thành lập các khối quân sự và liên
minh quân sự cùng hỗ trợ cho NATO đạt mục đích tối cao của mình:
“hiệp định an ninh Mỹ - Nhật (9 – 1951), khối ANZUS (Mỹ - Ôxtraylia
– Niudilen 9 – 1951), khối SEATO ở Đông Nam Á (9 – 1954), khối CENTO ở
Trung Cận Đông (1959)…Mỹ đã có 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài trong
tổng số 3.477.000 quân thường trực của Mỹ, trong đó có 60 vạn quân ở Đông
Dương, 32 vạn quân ở Châu Âu, 28 vạn ở Nhật Bản” [13, tr .242]. Chính
phủ Mỹ ra sức thúc đẩy phát triển công nghiệp quốc phòng, phát huy tối đa
nền kinh tế quân sự hóa, hàng năm Mỹ bỏ tiền ra để mua các nhà khoa học
giỏi, các bằng phát minh, sáng chế trên thế giới để phát triển ngành công
nghiệp quân sự, mức đầu tư cho quốc phòng của Mỹ luôn cao hơn bất cứ
nước nào trên thế giới, năm 1990 ngân sách quốc phòng của Mỹ là 385 tỉ
USD chiếm 5,2 % tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ, năm 1998 Mỹ đầu tư
280 tỉ USD cho quốc phòng, chiếm 3% tổng sản phẩm quốc dân của nước
này. Chính sự đầu tư đó đã làm cho tiềm lực quân sự hùng mạnh nhất thế
giới.
Với sự phô trương sức mạnh ra bên ngoài thông qua lập các căn cứ

quân sự, thiết lập các khối liên minh quân sự với các nước đồng minh và tiến
hành đưa quân ra bên ngoài quốc gia của Mỹ không chỉ đơn thuần vì mục
tiêu quân sự, mà đằng sau đó còn là mục đích chính trị và kinh tế, chẳng hạn
một công ty của Mỹ muốn xây dựng một đường dẫn dầu và khí đốt tự nhiên
đặt dưới sự kiểm soát của Mỹ từ biển Caspian qua Trung Á đến biển Ôman,
đi qua Apghanistan và Pakistan phải dựa vào sức mạnh quân sự của Mỹ để
làm điều đó. Nhờ vào sức mạnh quân sự hùng hậu của mình, Mỹ luôn tự cho
mình những đặc quyền lãnh đạo cả thế giới, chỉ tính từ năm 1945 – 2000 Mỹ
đã hơn 70 lần đưa quân can thiệp vào các quốc gia khác.
1.2.3 Quyền lực chính trị của Mỹ trong thế kỷ XX.
Trong những thập niên đầu thế kỷ XX Mỹ thực sự đã trở thành một
cường quốc về kinh tế, tổng sản lượng toàn nền kinh tế của Mỹ luôn chiếm
quá nửa sản lượng của toàn thế giới. Tuy nhiên Mỹ lại là một người lùn về
chính trị, trước năm 1919 Mỹ chưa có vị thế trong nền chính trị quốc tế, một
phần đây là quốc gia mới trỗi dậy, và suốt một thời gian dài theo đuổi chính
sách ngoại giao biệt lập, mặt khác những tiêu chí để được coi là ông lớn
trong nền chính trị thế giới phải là những cường quốc có nhiều thuộc địa,
chính thuộc địa là thước đo cho sức mạnh của quốc gia đó về mọi mặt,
nhưng đối với Mỹ, thuộc địa dường như chưa có. Quân đội của Mỹ đầu thế
kỷ XX thì quá non yếu, chưa thực sự tương xứng với nền kinh tế của Mỹ,
chỉ với 1,3 triệu quân trong khi chính sách ngoại giao lại quá ngờ nghệch,
chưa có những thủ đoạn chính trị khôn ngoan như các nước phương Tây, do
vậy Anh, Pháp luôn là những chủ thể có lợi nhất trong các hội nghị quốc tế.
Sự thay đổi vị thế đó của Mỹ chỉ thực sự bắt đầu vào năm 1922, khi
Mỹ chủ động triệu tập hội nghị Oansinhtơn để lôi kéo những quốc gia không
có quyền lợi trong Hòa ước Véc sai bao gồn 8 nước: Mỹ, Anh, Pháp, Ý,
Nhật Bản, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc. Mục đích chia lại lợi ích
mà Mỹ chưa được hưởng trong Hòa ước Véc sai, với tư cách là chủ trì Hội
nghị, Mỹ đã giành được ảnh hưởng của mình ở Đại Tây Dương, Thái Bình
Dương, tạo điều kiện cho Mỹ xâm nhập vào châu Á, châu Âu. Kể từ sau hội

nghị Véc sai – Oansinhtơn, một trật tự thế giới mới đã được thiết lập, chủ thể
của trật tự này là 3 cường quốc Anh – Pháp – Mỹ có quyền phán quyết vận
mệnh quốc tế, cũng từ đây vị thế của Mỹ cũng nâng lên ngang bằng với các
quốc gia đế quốc thực dân truyền thống Anh, Pháp.
Sự lớn mạnh về kinh tế, sự hùng hậu về quân sự là những động lực
cho vị thế chính trị quốc tế của Mỹ ngày càng vững chắc hớn, trong thế
chiến lần thứ hai Mỹ cùng các nước trong phe Đồng minh đứng ra tổ chức
hội nghị Ianta phân chia quyền lợi sau chiến tranh, từ sau hội nghị này thế
giới đã hình thành lên một trật tự mới – trật tự thế giới hai cực, mà Mỹ là
người đứng đầu một cực đại diện cho phe TBCN.
Quyền lực kinh tế của Mỹ còn được thể hiện trong các tổ chức quốc tế
nữa, Mỹ là một trong năm quốc gia thường trực tại Liên Hợp Quốc, là quốc
gia có số đóng góp lớn nhất cho hoạt động của tổ chức này, do đó quan điểm
của Mỹ cũng phần nào tác động đến quyết định của tổ chức lớn nhất thế giới
này:
“Liên hợp quốc là tài sản riêng của một cường quốc duy nhất là Hoa
Kỳ, họ đã dùng hăm dọa, răn đe và quyền phủ quyết để điều hành thế giới và
quyền lợi của mình” [8, tr.75]. Dựa vào Liên Hợp Quốc để hợp pháp hóa
hành động của mình, xây dựng liên minh, áp dụng lệnh trừng phạt lên các
quốc gia khác mà Mỹ không ưa, Mỹ đã đưa ra các sáng kiến cho Liên Hợp
Quốc như tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới nhằm củng cố nền tự do và
dân chủ trên toàn thế giới theo kiểu phương Tây.
Mỹ luôn dùng sức mạnh của mình để phủ quyết bất cứ nghị quyết hay
tuyên ngôn nào không thể hiện sự ưu tiên về chính trị - kinh tế cho Hoa Kỳ,
tại hội nghị Giơnevơ năm 1954 bàn về việc ngừng bắn ở Triều Tiên và chấm
dứt chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ với tư cách là một trong 5 nước lớn triệu tập
hội nghị và giải quyết vấn đề quốc tế đã gây khó khăn và không chịu ký vào
các văn bản tuyên bố chung để hòng mục đích quay lại chiếm Việt Nam là
một ví dụ.
Tiểu kết: Sự vươn lên của Mỹ một cách mau chóng và bằng con

đường đi riêng của mình đã giúp cho Mỹ không chỉ là một cường quốc về
kinh tế mà thực sự đã trở thành một siêu cường quốc toàn diện, một đế chế
Mỹ nắm quyền định đoạt vận mệnh của thế giới trong nhiều thập niên của
thế kỷ XX. Từ việc thay đổi trong đường lối ngoại giao cho đến vươn lên
xác lập các vị thế về kinh tế, chính trị, quân sự cho thấy Mỹ thực sự là chủ
nhân của thế kỷ XX – thế kỷ Mỹ.
Chương 2
NƯỚC MỸ VỚI NHỮNG THAM VỌNG TRONG THẾ KỶ XXI
2.1 Bối cảnh thế giới sau chiến tranh lạnh và vai trò của Mỹ sau
sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết.
Trải qua hơn 40 năm với gánh nặng của cuộc chạy đua vũ trang khiến
cho Liên Xô và Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái tương đối, trong khi cả Liên
Xô và Mỹ ra sức tập trung và phát triển nền kinh tế quân sự, phát triển khoa
học quân sự để tăng cường sức đề kháng thì các nước tư bản trẻ như Đức,
Nhật Bản đã mau chóng hồi phục sau chiến tranh và trở thành những đối thủ
cạnh tranh khốc liệt với Mỹ, trong thời điểm thập niên 70 của thế kỷ trước
cuộc khủng hoảng năng lượng bùng nổ các quốc gia tư bản trẻ đi đầu là Nhật
Bản đã khởi xướng cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và mau chóng
thoát ra khỏi khủng hoảng về năng lượng 1973.
Chính sự vươn lên này đã khiến cho cả Mỹ và Liên Xô nhận thức
được rằng việc kéo dài chiến tranh lạnh thực sự không có lợi cho cả hai bên,
trong những năm 80, đặc biệt là sau khi Goocbachôp trở thành lãnh đạo Liên
bang Xô Viết thì quan hệ Xô – Mỹ đã có những chuyển biến từ đối đầu sang
đối thoại để giải quyết các vấn đề tranh chấp, những cuộc gặp gỡ cấp cao
giữa Rigân và Goocbachôp, giữa Busơ và Goocbachôp đã có nhiều văn kiện
hợp tác về các lĩnh vực kinh tế, buôn bán, văn hóa và khoa học kĩ thuật được
ký kết, hai bên cùng nhau thỏa thuận từng bước chấm dứt chiến tranh lạnh,
cắt giảm vũ khí và hạn chế chạy đua vũ trang. Năm 1989 trong cuộc gặp gỡ
chính thức giữa Busơ và Goocbachôp tại Manta hai bên đã tuyên bố chính
thức chấm dứt chiên tranh lạnh, quan hệ hai bên bước sang một giai đoạn

mới mà lịch sử gọi là thời kỳ “hậu chiến tranh lạnh”.
Trong khoảng thời gian từ 1989 – 1991, tình hình chính trị thế giới có
những biến động phức tạp, hệ thống XHCN đang lâm vào tình trạng khủng
hoảng và đi đến sụp đổ hầu hết các nhà nước XHCN ở Đông Âu, dẫn đến
tình trạng thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô trên lãnh thổ châu Âu,
quyền lợi và sức mạnh của Liên Xô cũng bị giảm sút sau sự sụp đổ ấy.
Công cuộc cải tổ của Liên Xô không giúp được tình trạng khó khăn đó mà
ngược lại nó còn đẩy cuộc khủng hoảng ở Liên Xô đi đến đích sụp đổ nhanh
hơn, với chủ trương tập trung vào cải tổ chính trị là trọng tâm, Liên Xô thực
hiện hình thức đa nguyên đa đảng về chính trị, đã dẫn đến nguy cơ mất sức
chiến đấu và lãnh đạo của Đảng cộng sản, không những thế trong những
thỏa thuận với Mỹ thì Liên Xô đã có những thỏa thuận không có lợi cho
cách mạng thế giới như thực hiện chính sách “không can thiệp” vào Đức và
các nước Đông Âu, không thực hiện các cam kết với các đồng minh trong
phe XHCN… những sai lầm đó của Liên Xô đã dẫn đến sự sụp đổ của của
nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô Viết ngày 25 – 12 – 1991. Sự sụp
đổ của Liên Xô đã làm thay đổi cục diện trật tự thế giới hai cực, một cục
diện thế giới mới chưa định hình trong khi Mỹ là quốc gia có tiềm lực và sức
mạnh nhất thế giới muốn vươn lên lãnh đạo toàn thế giới, biến trật tự thế
giới từ hai cực chuyển sang đơn cực, tuy nhiên siêu cường này gặp không ít
khó khăn từ sự cạnh tranh khốc kiệt của các đối thủ mới nổi, do vậy Mỹ phải
định hình những chiến lược mới để thực hiện tham vọng bá chủ thế giới của
Mỹ.
Những chiến lược gia ở Oasinhtơn mong muốn Hoa Kỳ sẽ trở thành
một nước có vai trò lãnh đạo hệ thống thế giới, đặt ra luật chơi cho cả thế
giới, Mỹ là người có khả năng ban thưởng cho những nước nào đi theo Mỹ
và phạt các nước nào làm Mỹ không hài lòng, những tham vọng đó được Mỹ
theo đuổi trong suốt thời kỳ hậu chiến tranh lạnh bằng một loạt các chiến
lược như thời tổng thống Bush (cha) (1989 – 1992) “chiến lược ngăn chặn –
một chiến lược đã được Mỹ triển khai từ sau chiến tranh thế giới thứ hai để

chống chủ nghĩa xã hội vẫn là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ
dưới thời Bush cha” [15, tr.40], Trong bối cảnh Liên Xô đang lâm vào
khủng hoảng, Bush cha chỉ là người hoàn tất một cách thành cồng chiến
lược ngăn chặn do các tổng thống tiền nhiệm xây dựng lên, với chính sách
này công lao của Bush cha được đánh giá rất lớn về tính hiệu quả của việc
thực hiện chính sách này:
“Thứ nhất: Bush cha với chiến lược này đã “khuyến khích” và “phối
hợp” với Goocbachôp trong việc đưa Liên Xô vào con đường giảm căng
thẳng quốc tế, cắt giảm viện trợ cho đồng minh tức là gián tiếp tiếp tay cho
Liên Xô bỏ đi những mặt mạnh và thế mặc cả trong quan hệ với Mỹ và Tây
Âu, nói cách khác Bush cha đã dùng cách hòa hoàn để giảm đi sức mạnh của
Liên Xô trong quan hệ với Mỹ
Thứ hai: Chính sách của Bush cha được coi là “có công” trong việc
tạo ra môi trường bên ngoài hòa hoãn cho Liên Xô thực hiện chương trình
cải tổ không đi quá xa, nhượng bộ Mỹ và buông Đông Âu về đối ngoại, làm
xáo trộn hệ thống chính trị về đối nội. Có thể nói, chính sách hòa hoãn với
Liên Xô của Bush cha là mũi tên bắn trúng nhiều đích làm Liên Xô sụp đổ từ
bên trong mà không mất một viên đạn nào” [15, tr. 40 – 41].
Đối với các nước Đồng minh, Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện theo chiến
lược toàn cầu hóa phản cách mạng, thông qua viện trợ để thiết lập mô hình
kiểu Mỹ khống chế các nước bạn đồng minh.
Những chính sách của Mỹ cho thấy những tham vọng vươn lên nắm
quyền định đoạt thế giới, tuy nhiên trật tự thế giới cũ mất đi, Liên Xô sụp đổ
nhưng Mỹ còn phải đối mặt với nhiều thách thức và cần phải có những chiến
lược lâu dài phục vụ cho mục đích bá chủ thế giới của mình.
2.2 Chính sách ngoại giao của Mỹ - bản chất cho sự lựa chon
trong thế kỷ XXI.
Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa sụp
đổ cũng có nghĩa là trật tự thế giới đã có sự thay đổi, do đó trong chính sách
ngoại giao của chính phủ Hoa Kỳ cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với

thời cuộc. Nhưng các nhà chiến lược gia của Mỹ lúc này gặp rất nhiều khó
khăn trong việc hoạch định một chiến lược trong thời kỳ mới, khó khăn đó là
vì:
“Mỹ đã sống với chiến tranh lạnh, và chính sách ngăn chặn hơn 40
năm. Trong quãng thời gian đó, nhiều thế hệ quan chức, chính khách và học
giả của Mỹ đã kế tiếp nhau để hoàn thiện chính sách ngăn chặn. Như vậy Mỹ
thiếu đi kinh nhiệm và kiến thức cho việc xây dựng chính sách cho viêc đối
ngoại trong một giai đoạn mới” [15, tr. 40], mỗi đời tổng thống Mỹ lại đưa
ra một chính sách mới để thực hiện những mục tiêu trước mắt mà nước Mỹ
cần phải thực hiện, thời tổng thống Bill Clintơn với chủ trương tập trung vào
đối nội và đưa ra khẩu hiệu: “Sự quan tâm của tôi đối với các vấn đề kinh tế
như luồng ánh sáng Lazer” [dẫn theo 15, tr.42]. Với khẩu hiệu đó đã đưa
ông vào nhà Trắng, vượt qua những trở ngại trong tranh cử chức tổng thống
của Bush cha với chính sách đối ngoại và chiến tranh vùng vịnh. Nhưng điều
đó không có nghĩa là giới chiến lược gia dưới thời cầm quyền của tổng
thống Bill Clintơn lại không tiếp tục hình dung chiến lược toàn cầu của Mỹ
cho thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, đó chính là bản chất cho sự lựa chọn con
đường của Mỹ vào thế kỷ XXI.
Trong nhiệm kỳ đầu của tổng thống Bill Clinton, các chính trị gia đã
có những cuộc thảo luận sôi nổi xung quanh vấn đề mục tiêu mới và đôi
tượng mới của chiến lược toàn cầu, theo quan điểm của Joshep Nye cho rằng
Mỹ vẫn là số một sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản trước chủ nghĩa xã hội
dường như đã khẳng định thuyết “quyền lực mềm” của ông đã trở thành
điểm tựa mới, theo ông Mỹ dù có suy yếu về một số chỉ số “sức mạnh cứng”
nhưng vẫn dư sức về “sức mạnh mềm” đủ để cho các nước khác phải đi theo
một cách tâm phục khẩu phục mà nhờ đó Mỹ vẫn giữ được vị trí siêu cường
số một trên thế giới.
Còn theo Fukugama cho rằng cần có một đối thủ làm cho Mỹ mạnh
hơn, đúng như nguyên tăc “kiềm chế và đối trọng” vì theo ông nếu không có
lực lượng đối trọng thì sẽ không thể kiềm chế được và sẽ trở thành “bệnh

khó chữa”, theo chuyên gia Huntington cho rằng tương lai của loài người sẽ
đánh dấu bằng những cuộc đụng độ lớn, không phải giữa ý thức hệ như ở thế
kỷ XX, mà là sự đụng đầu giữa các quốc gia theo các nền văn minh khác
nhau, theo ông loài người sẽ xẩy ra cuộc đụng đầu giữa các văn minh
Phương Tây – Hồi giáo – Khổng giáo, do đó tâm điểm của chính chính sách
đối ngoại của Mỹ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh phải là quan hệ Mỹ -
Trung Quốc và ông đưa ra thuyết “mối đe dọa Trung Quốc” (china thereat
theory) như vậy Trung Quốc trở thành nước đầu tiên kể từ khi Liên Xô sụp
đổ có khả năng thách thức Mỹ trong việc kiểm soát hệ thống thế giới.
Trên cơ sở các hoạch định của các chiến lược gia, cũng như dựa vào
bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ vào tháng 2 năm 1995 chính quyền Bill Clintơn
đưa ra chiến lược toàn cầu có tên “chiến lược an ninh quốc gia cam kết và
mở rộng” với nội dung: Mỹ cam kết tiếp tục can dự vào công việc của thế
giới trên tư cách “người lãnh đạo thế giới” nhưng sẽ chú trọng hơn vai trò
trọng tài mà bớt dần đi vai trò vai trò sen đầm, mở rộng cộng đồng các quốc
gia dân chủ, tăng vai trò của các thể chế đa phương trong đó Mỹ là hạt nhân.
Đánh giá về chiến lược toàn cầu của Bill Clinton, học giả Stephen
Walt vào năm 1999 đã viết bài “Hai điều đáng khen cho chính sách đối
ngoại của Bill Clintơn” mà theo ông có hai luận điểm về chiến lược toàn cầu
của Clintơn thành công vì sau chiến tranh lạnh đã duy trì được vị thế lãnh
đạo thế giới của Mỹ và làm được việc đó với mức vừa phải, lại bắt các nước
đồng minh của Mỹ và các tổ chức quốc tế chia sẻ gánh nặng lãnh đạo của
Mỹ. Ông khẳng định bất cứ ai vào nhà Trắng đều không có thay đổi lớn
trong chính sách đối ngoại toàn cầu của Mỹ vươn tới lãnh đạo toàn thế giới.
Thời kỳ cầm quyền của tổng thống Bush con những chủ kiến về một
chiến lược ngoại giao mới là phải sử dụng thế mạnh vượt trội một cách
quyết liệt để chứng tỏ sự lãnh đạo của mình, dù việc đó dẫn đến chủ nghĩa
đơn phương, phiêu lưu về quân sự, làm mất lòng mọi người và tốn kém tiền
của, người Mỹ mơ ước về một đế chế Mỹ và muốn xác lập đế chế đó bằng
mọi giá, nhất là bằng biện pháp quân sự, muốn vậy yêu cầu đối với chính

quyền Bush con là phải xây dựng được một lực lượng quân đội mạnh và sẵn
sàng đáp ứng các thách thức trong hiện tại và tương lai, một chính sách đôi
ngoại mạnh dạn và có ý thức thúc đẩy các nguyên tắc Mỹ ở nước ngoài và
một bộ máy lãnh đạo quốc gia giám chấp nhận trách nhiệm. Sau vụ tấn công
khủng bố vào nước Mỹ ngày 11 – 9 – 2001 chiến lược ngoại giao toàn cầu
của chính quyền Bush con thực sự đã định hình với những biểu hiện “đơn
phương” và “đánh chặn” là những dấu nhấn của chiến lược an ninh quốc gia
“Chính sách ngoại giao cao bồi” và “đánh đòn phủ đầu”. Năm 2002 khi
tuyên bố chính sách này, tổng tống G.Bush đã khẳng định quyền tấn công
bằng vũ lực đối với bất kỳ nước nào và các nhóm khủng bố được coi là mối
đe dọa cho Mỹ, người ta gọi chính sách này là “học thuyết G.W.Bush” mà
thực chất là chấp nhận sử dụng quyền lực cứng để thực hiện mục tiêu của
chiến lược toàn cầu.
Không giống với các tổng thống tiền nhiệm như Bill Clintơn tập trung
vào đối nội và mục đích là sử dụng sức mạnh quyền lực mềm và G.Bush lại
tập trung sử dụng sức mạnh quyền lực cứng để mơ ước xây dựng một đế chế
Mỹ, thì tổng thống Ôbama đã có sự điều chỉnh về đường lối đối ngoại, việc
bầu thượng nghị sĩ Hillary Clintơn làm bộ trưởng ngoại giao đã được sự tán
đồng của nhiều người, các chuyên gia trong giới chính trị của Mỹ đã khẳng
định đây là một lựa chọn đáng giá của tổng thống Ôbama vì lẽ ngoại trưởng
Hillary Clintơn đã nhanh chóng làm sáng tỏ những cơ sở lý luận mới trong
chính sách ngoại giao mới của Mỹ, trong cuộc điều trần trước ủy ban đối
ngoại trung ương Mỹ trước khi bổ nhiệm chính thức, ngoại trưởng Hillary
Clintơn đã tuyên bố cần phải sử dụng sức mạnh khôn ngoan trong đó ngoại
giao là công cụ tiên phong:
“sức mạnh khôn ngoan được hiểu là sự pha trộn giữa sức mạnh mềm
dưới thời tổng thống Clintơn và sức mạnh cứng dưới thời Bush con, công cụ
ngoại giao sẽ được coi trọng hơn. Mỹ chỉ sử dụng công cụ quân sự khi các
biện pháp ngoại giao không còn tác dụng. Hơn nữa khi sử dụng các biện
pháp ngoại giao Mỹ sẽ tránh không sử dụng các biện pháp đơn phương, tức

coi trọng cách tiếp cận đa phương và quan tâm tới ý kiến và lợi ích của nước
khác…” [ 16, tr.44], trong báo cáo của tổng thống Ôbama về chiến lược an
ninh quốc gia mới đã tái khẳng định lại chủ trương sử dụng sức mạnh khôn
ngoan đã công bố từ đầu nhiệm kỳ, tuyên bố đoạn tuyệt với những hành
động quân sự đơn phương của chính quyền Bush con, trong chiến lươc an
ninh mới này Hoa Kỳ đã thừa nhận không thể hoạt động một mình trên thế
giới và cam kết hình thành lên một trật tự thế giới mới như là một phần của
chiến lược an ninh quốc gia mới, nhưng không vì thế mà từ bỏ vai trò lãnh
đạo và tham vọng đứng đầu trật tự mới, thừa nhận một cách thức về trật tự
mới đa cực nhưng Mỹ phải là hạt nhân trung tâm.
Như vậy kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các chiến lược toàn
cầu đã được thử nghiệm trên cơ sở sức mạnh vượt trội từ quyền lực mềm,
quyền lực cứng cho đến sức mạnh khôn ngoan, chính quyền Mỹ đều hướng
đến mục tiêu cuối cùng là khẳng định vị thế độc tôn của Mỹ trong thế giới,
những tham vọng xây dựng một đế chế Mỹ luôn được đặt ra trên cơ sở sức
mạnh to lớn về kinh tế và quân sự cũng như sự tự tin về sức hấp dẫn của mô
hình Mỹ, điều đó càng cho thấy tham vọng của Mỹ muốn lãnh đạo thế giới
chưa phải dừng lại ở thế kỷ XXI này.
2.3 Những tham vọng của Mỹ trong thế kỷ XXI.
2.3.1 Tham vọng về kinh tế.
Nếu như trong thập niên 80 của thế kỷ XX sự phát triển thần kỳ của
Nhật Bản đã đưa đến mức tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 9% trong suốt
23 năm liên tục, Nhật Bản đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Những con số tăng trưởng thần kỳ của Nhật Bản trong những năm 1960 –
1969 tốc độ tăng trưởng công nghiệp của Nhật Bản là 13,6% tăng gấp 6 lần
so với Mỹ, tăng 5 lần so với Anh, 3 lần so với Pháp và 2 lần so với Đức,
năm 1973 tổng giá trị quốc dân của Nhật Bản đạt 402 tỉ USD đã khiến,
người ta lo ngại rằng Nhật Bản sẽ đi đến thay thế vị trí đứng đầu của Mỹ về
kinh tế và là chủ nhân của thế giới trong tương lai. Nhưng trên thực tế không
xẩy ra điều đó, vì từ năm 1973 đến nay kinh tế Nhật Bản đi vào phát triển

×