Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh hưởng của phật giáo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.02 KB, 18 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Đạo Phật một trong những học thuyết triết học – tôn giáo lớn nhất, và lâu
đời nhất trên thế giới. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng Phật tử khổng
lồ và phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta từ thế kỷ thứ hai
sau công nguyên và nó đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống tinh thần Việt Nam. Sau 20 thế kỷ gắn bó đạo Phật và văn hóa
của Việt Nam có sự gắn bó đặc biệt không thể tách rời.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay chúng ta đã xác định lấy chủ nghĩa Mác
– Lênin làm tư tưởng chủ đạo, là vũ khí chủ yếu, nhưng chúng ta cũng không thể
phủ nhận sự tồn tại của các triết lý khác ví dụ như đạo Phật. Sau một thời gian dài
gắn bó thì đạo Phật đã có một vị trí vững chắc, in sâu trong tư tưởng của một bộ
phận không nhỏ ngươi dân. Việc xóa bỏ nó là một điều hoàn toàn không tưởng,
không thể thực hiện được. Vì vậy chúng ta phải nghiên cứu nó thật kỹ để có cách
sử dụng nó sao cho đúng với định hướng của đảng và nhà nước đã đề ra. Do yêu
cầu đó hiện nay nên việc nghiên cứu, đánh giá các giá trị, hạn chế và các ảnh
hưởng của đạo Phật hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Do đó em chọn đề tài:
"Những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh hưởng của phật giáo ở nước ta
hiện nay"
Trong phạm vi bài tiểu luận này tôi đã cố gắng tìm kiếm và phân tích những
ưu, nhược điểm và những ảnh hưởng của đạo Phật đến Việt Nam. Bài viết được
thực hiện trong khoảng thời gian ngắn nên không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết rất mong được sự đóng góp ý kiến của thày và các ban.
Chân thành cảm ơn!
Vũ Thị Thúy Hằng

Vò ThÞ Thóy H»ng 1 Líp: Marketing 49A
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I.Giá trị của phật giáo
1. Phật giáo con đường trí tuệ
Giá trị của đạo Phật là con đường trí tuệ, là hiểu rõ nhân, quả, duyên. Do đó


chúng ta không mê tín sợ hãi, không tham vọng, không cần cầu cạnh, ước mơ điều
gì mà chính ta nổ lực để nắm lấy hạnh phúc trong tay. Đạo Phật nhận thức rằng tất
cả các pháp do duyên sanh thì nhân quả tùy theo duyên đó mà ứng dụng. Khi đủ
duyên thì hợp, hết duyên thì tan rã. Đạo Phật nhìn cuộc sống bằng pháp như thị.
Trí tuệ có nghĩa là sự nhận thức rằng các pháp do duyên sanh và căn cứ vào nhân
quả để sống một đời sống thánh thiện, giúp mình và người, không có sự sợ hãi vào
thần linh. Câu: “Đức trọng quỉ thần kinh” là người nào có đức thì quỉ thần cũng
phải tôn trọng. Khi ta có đức, có tu hành đàng hoàng thì có chư thiên thường hộ
vệ có nghĩa là có những người thích gần gũi với thiện hữu thì hay đi theo mình và
giúp đỡ, hổ trợ khi mình gặp khó khăn, trở ngại cho nên gọi là hộ vệ. Câu: “Chở
che nhờ đức cao dầy, tu sao thế mấy không bằng tu tâm” có nghĩa là cái đức của
mình che chở cho mình chứ không phải thần linh nào.
2. Giá trị nhận thức
Trong Phật giáo: tôn giáo, triết học, đạo đức học, tâm lý học và xã hội học
được thể hiện như một hệ thống tư tưởng tổng hợp nhất có liên hệ trực tiếp đến
những khát vọng của xã hội hôm nay. Tóm lại, đạo Phật là một hệ thống minh triết
có thể áp dụng vào mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Một trong những mục tiêu
của Phật giáo là giúp đỡ con người thông qua việc phát triển sự tỉnh thức nội tại và
những nỗ lực hành trì cao cả của mỗi cá nhân để trực nhận và phát triển tiềm năng
kỳ diệu nhất của mỗi người. Mục tiêu này không hề tạo nên một tương phản nào
đối với mục tiêu của nền giáo dục hiện đại. Mục tiêu của nền giáo dục hiện đại là
phát triển các năng khiếu, năng lực, sở trường của mỗi người thông qua việc cung
cấp tri thức và những kinh nghiệm hữu ích cho học sinh. Trong khi các nhà giáo
dục và tâm lý chưa thể giải thích tại sao con người có những năng khiếu và khả
năng riêng biệt thì Phật giáo đã đưa ra lời giải thích thông tuệ rằng: những yếu tố
riêng biệt đó chính là kết quả của những nghiệp nhân trong đời trước. Đức Phật đã
xác chứng rằng Duyên khởi là giáo lý nền tảng trong giáo pháp của Ngài: "Khi cái
này sinh thì cái kia sinh; khi cái này diệt thì cái kia diệt".
Phật giáo luôn nỗ lực xây dựng những mối quan hệ của nhân loại bằng
cách khơi nguồn những giá trị luân lý đạo đức cao đẹp của loài người. Phật giáo

giúp chúng ta khám phá ra bản chất đặc trưng của thế giới là vô thường, vô ngã và
khổ đau. Một khi con người chưa nhận thức đúng đắn ba nguyên lý này của thế
giới thì họ vẫn còn khao khát về một đời sống vĩnh cửu ảo tưởng tách biệt bởi bản
chất của sự vật. Khát vọng mông muội đó không những tạo nên khổ đau cho người
ấy mà còn khiến người khác cũng bị đau khổ theo. Làm sao khổ đau của nhân loại
Vò ThÞ Thóy H»ng 2 Líp: Marketing 49A
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có thể tan biến? Làm sao có thể mang lại nền hòa bình và niềm hạnh phúc trường
cữu cho xã hội hôm nay? Những câu hỏi muôn thuở này chính là những thao thức
của Phật giáo. Phật giáo đã đưa ra lời giải đáp thỏa đáng cho những vấn đề này
qua tám vạn bốn ngàn pháp môn được giảng dạy trong các kinh điển, các pháp
thoại, các thi kệ. Chúng ta có thể biết rằng trong 84.000 pháp môn đó thì phần lớn
do Đức Phật giảng dạy và một phần nhỏ còn lại do các đệ tử kiệt xuất của Ngài
đưa ra.
3. Giá trị giáo dục của Phật Giáo – một giá trị nhân bản sâu sắc
Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền văn minh Ấn
Độ, xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch, để san bằng những
ngăn cách xã hội giữa các đẳng cấp. Rồi từ những căn bản đó, Phật giáo đã duỗi
dài nguyên lý vào cuộc sống con người khắp mọi nơi. Trong cội rễ sâu xa, ngay từ
khởi thủy tư tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo đã mang trong mình những giá
trị nhân bản chung toàn nhân loại. Đặc trưng cơ bản nhất đó là tính toàn vũ trụ,
toàn diện, tổng hợp. Với triết lý cơ bản là việc hướng con người đến những hành
động đúng đắn, hướng con người ta đến cái chân, thiện, mỹ. Phật giáo kêu gọi mọi
người hãy chấm dứt các việc làm ác mà hãy hành thiện, khuyên con người dang
rộng vòng tay ôm vũ trụ vào lòng đừng bao giờ khép kín tâm tư lại. Hãy phát triển
nhân đạo và từ bi quên đi những cái ta ích kỷ, hẹp hòi để được yêu vũ trụ rộng lớn.
Vì thế tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân loại với tinh thần khoan dung
kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo góp phần hình thành nên nền đạo đức xã
hội. Đức Phật đã từng dạy: “Một hạnh phúc vĩnh cửu chỉ sống mạnh trong tâm hồn
giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể thực hiện một khi cá nhân chịu nhường

bước. Một bản ngã đứng riêng ngoài không thể tồn tại được. Đó là mục đích giáo
dục con người hoàn thiện cả về tài lẫn đức trong một xã hội văn minh.
Vì vậy nội dung giáo dục của triết lý Phật giáo chẳng khác gì lời kêu gọi
hòa bình – một nhu cầu luôn cần cho mọi người, mọi nhà, và là tài sản quý báu
nhất của toàn nhân loại. Đây là giá trị nhân đạo nhất và khác với mọi tôn giáo
khác, trong suốt lịch sử tồn tại và phát triển thì Phật giáo luôn xuất hiện, thâm
nhập vào các đân tộc như sứ giả của hòa bình và an lạc.
4. Giá trị của Phật giáo với mỗi cá nhân
Phật giáo chỉ cho ta nguồn gốc của sự khổ Đối với những người đã biết rõ
về khổ và thật sự muốn thoát khổ thì cần phải hiểu rằng Đức Phật chỉ dạy một
chân lý duy nhất là Diệt Đế, sự diệt khổ, chứng Niết bàn, thành Phật. Ngài đã dạy:
“Ta chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, đó là chỉ cho chúng sanh tri
kiến Phật để ngộ nhập”(kinh Pháp Hoa), đó là thấy rõ chỉ có một cái duy nhất chân
thật là Niết Bàn, ngoài ra đều là giả dối. Diệt Đế, Niết Bàn có nghĩa là thấy rõ
Khổ, thấy rõ đây là thấy rõ nó không thật, chỉ hiện hữu một cách huyễn hoá, không
thật. Vì khổ không thật có nên mới có thể đoạn trừ dễ dàng, nếu khổ là thật thì
Vò ThÞ Thóy H»ng 3 Líp: Marketing 49A
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đoạn trừ cũng uổng công vô ích mà thôi. Khổ không thật có, nhưng ta vẫn thấy rõ
ràng có khổ là vì sao? Tìm nguyên nhân, ta được biết cái sai lầm căn để là do ở lối
nhìn của ta về thân, tâm, vũ trụ, một lối nhìn lệch lạc, bệnh hoạn đã thành tập quán
nhiều đời nhiều kiếp. Vậy chỉ cần sửa cái nhìn lại cho đúng, cũng như hư không
vốn không có hoa đốm mà người tự thấy ra có hoa đốm là vì mắt bị bệnh. “Tập
đế” nguyên nhân của khổ là nói về lối nhìn sai lạc ấy, căn để là thấy thật có cái tôi,
sở hữu của tôi, thấy có một tự ngã tiếp tục. Muốn đoạn trừ lối nhìn sai lạc ấy cần
chữa cái bệnh của con mắt, theo phương pháp của Phật dạy là Bát Chánh Đạo, đó
phần thứ tư trong Tứ Diêu Đế. Vì lối nhìn quan trọng như thế nên đứng đầu Bát
Chánh Đạo là Chánh Kiến tức là thấy cho đúng như thật. Thấy đúng như thật thì
Niết Bàn chân thật được hiển lộ, Khổ, Tập tự tiêu tan, như khi mắt đã được chữa
lành lặn bình thường thì bệnh mắt hết, mắt hết bệnh thì không còn thấy hoa đốm

lăng xăng giữa hư không.”
5. Giá trị của Phật giáo trong thời đại ngày nay
Trong thời đại ngày nay, hình như chúng ta có thể thụ hưởng tất cả mọi
điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng làm việc và có tiền, tiền bạc chắc
chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện nghi văn minh, có thể giúp chúng ta thu
ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều thú vui trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên,
chúng ta cũng thấy rằng những tiện nghi sang trọng đó không giải quyết được
những vấn đề thiết yếu cho đời sống chúng ta. Sự có một chiếc xe hơi hay một
gian nhà không bù đắp được niềm lo âu và sợ hãi ở nội tâm chúng ta, một số đông
người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật chất cũng như tinh thần đã làm lay
chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời sống chúng ta còn luôn bị đe dọa không dứt
bởi những làn sóng bất an và sợ hãi: người hôm qua chúng ta gặp có thể bị tai nạn
và chết hôm nay và ngày mai, một trận thế chiến khác biết đâu lại chẳng xảy ra để
tận diệt toàn thể chúng ta. Nhu cầu vật chất là thiết yếu, nhưng không phải là
phương tiện tuyệt hảo có thể làm cho cuộc sống chúng ta phong phú. Chúng ta nên
nhận thức rằng chúng ta phải làm chủ bản thân, chứ không là những kẻ nô lệ cho
mọi nếp sống thường tình trong bản thân chúng ta.
Ðức Phật đã giác ngộ sâu xa rằng tất cả chúng sinh hữu tình đều có chung ý
muốn ham sống và sự thể hiện nó trong những hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Mọi người đều gắn liền với thực tại và họ chỉ có thể sống còn nhờ nương vào sự
sống của những kẻ khác. Đức Phật tin tưởng rằng con đường duy nhất chúng ta có
thể áp dụng mà không làm hại lẫn nhau là thực hiện sự đồng nhất căn bản của mọi
cuộc sống. Thế giới chúng ta không gì khác hơn ngoài sự thể hiện một cánh đồng
nhất của cuộc sống trong đó mọi chúng sinh, hữu tình cũng như vô tình đều mật
thiết tương quan sinh tồn.
Trên căn bản này sự cuộc sống, con người phải xóa bỏ mọi sự phân biệt và
chấm dứt cái ý tưởng gọi là “Của Ta” hoặc “Không Phải Của Ta”. Sự phân biệt
này phát sinh bởi lòng dục vọng vô minh, nguồn gốc sâu xa từ vô thỉ đã buộc ràng
con người. Cũng bởi lòng tham mù quáng này đã dẫn đến sự chấp ngã “cái Ta”
Vò ThÞ Thóy H»ng 4 Líp: Marketing 49A

Website: Email : Tel : 0918.775.368
của con người và do đó sinh ra tính xấu vị kỷ, vì dục vọng vô minh con người đã
chống lại bản thể đồng nhất của sự sống để tạo nên một thế giới giả dối với muôn
ngàn cuộc sống sai biệt, một thế giới không thật có, mà chỉ do những vọng tưởng
điên đảo của con người tạo ra.
Cho nên, bản ngã đồng nhất này là một chân lý cao siêu nhất và đức Phật
được tôn xưng là bậc Toàn Giác, đấng đã giác ngộ thấu suốt tận cùng bản thể của
sự sống muôn loài. Giáo lý đức Phật không phải tìm thấy bởi sự suy luận hay tranh
biện mà do ở kinh nghiệm trực tiếp được xây dựng trên chân lý của những luật
nhân qủa. Ðức Phật dạy: “Giáo lý của Như Lai không gì khác ngoài lời dạy cuộc
sống là khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ” Tạp chí Tiếng Nói Phật Giáo”
(Voice of Buddhism) số tháng 7 năm 1964 phát hành tại Kuala Lumpur (Mã
Lai)lời dạy đó của Ðức Phật rất thực dụng và khoa học cùng luôn luôn liên hệ đến
những vấn đề sự sống và năng lực phát triển tinh thần của chúng ta.
6. Đạo Phật hướng con người tới việc xây dựng một xã hội văn minh và
tự do
Thế giới này đang sôi sục chiến tranh, mọi bảng giá trị hầu như được con
người quy chiếu bằng thước đo đồng tiền. Thái độ “chấp thủ” của từng cá nhân
ngày càng nhân lên, thay vì “xả ly” họ lại tự trói mình bằng gông cùm trong hiện
hữu. Con người hiện đại ít nhiều đã tự đánh mất phẩm chất cao quý của mình để
chạy theo lợi nhuận.
Dù vậy, Đạo Phật đã dạy một đời sống tốt đẹp không chỉ tạo bằng thức ăn
ngon, áo mặc đẹp, mái nhà xinh xắn, mà còn được sinh động bởi ý định trong
sạch, một lòng từ bi không giáo điều cũng không triết lí bác học. Mà đó là lòng
kính trọng phẩm giá quyền lợi của mọi người. Để hết chiến tranh, xây dựng xã hội
văn minh, con người phải hết tham lam, thù hận cố chấp. Muốn sống hòa bình an
lạc, con người phải có tình thương và hiểu biết. Hòa bình không thể có được chỉ
bằng cầu nguyện, ký tên, hay hội thảo kêu gọi suông mà phải làm sao cho mọi
người tỉnh thức và chuyển hóa. Những lời kêu gọi đó hết sức có giá trị và nhắc
nhở cảnh tỉnh nhân loại hãy đoàn kết góp phần tích cực vào công cuộc giữ gìn hòa

bình.
Mặt khác trong điều kiện sản xuất chưa phát triển mạnh của xã hội, nhu cầu
vật chất ngày càng cao, nên cuộc sống con người gặp khó khăn, nên cái khổ vẫn là
điều tất yếu, đôi khi con người cảm thấy bi quan thất vọng. Do vậy, sự giải thích
cuộc đời con người chỉ quẩn quanh trong nổi khổ “nhân sinh là khổ” hết sức có ý
nghĩa. Việc đưa ra con đường diệt khổ, tự giải thoát mà không chờ bất kỳ cứu
nhân độ thế nào đã trở thành tư tưởng giáo dục đầy khích lệ hấp dẫn, mang tính
nhân văn sâu sắc.
Vò ThÞ Thóy H»ng 5 Líp: Marketing 49A
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Những hạn chế của Phật giáo
1. Hạn chế trong Tứ diệu đế
1.1. Hạn chế về cách tiếp cận
Bên cạnh mặt tích cực của đạo Phật là hỉ xả vô lượng vô biên thì cũng không
thể phủ nhận rằng cách tiếp cận của đạo Phật với thế giới và con người là góc nhìn
bi quan, thương cảm. Bản thân Tứ diệu đế là sự minh chứng rõ nhất cho điều này
khi tiền đề đầu tiên của Tứ diệu đế chính là Khổ đế. Chân lý này nói rằng: “mọi
dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn”. Nói như triết lý này thì
chúng ta ngay từ khi sinh ra đời đến khi mất đi, phải tiếp xúc, chịu đựng cái khổ.
1.2. Nguồn gốc của cái khổ
Đạo Phật đã có cái nhìn phiến diện về những nhu cầu của con người. Dưới
góc nhìn vô thường, vô ngã của Phật giáo thì tất cả mọi sự cố chấp, tham luyến
của con người đều là nguyên nhân hàng đầu của sự khổ cả. Song, với góc nhìn của
một con người, đang sống và đang tồn tại, đang ăn và hít thở không khí... thì
không phải lúc nào cũng cần tới sự tư duy thấu triệt và cực đoan như thế. Không
thể chối cãi rằng chúng ta tồn tại và phấn đấu không đơn thuần vì bản năng sinh
tồn, mà còn vì để cho sự tồn tại của mình, trong dòng chảy vô thường của sự sống
sao cho có ý nghĩa. Chúng ta phấn chấn, hạnh phúc, hồ hởi khi sự tồn tại của
chúng ta được ghi nhận và thừa nhận về ý nghĩa.
1.3. Hạn chế trong phương pháp giải quyết “cái khổ”

Phương thức giải quyết tất cả những nỗi khổ đó đều xuất phát từ ý thức,
tâm linh, từ sự tự rèn tập tính tình, từ sự tự diệt dục. Tức là, xét từ phía góc độ
sống tích cực, đã quay lưng lại với hiện thực và để cho con người tuyệt giao với
hiện thực bằng cách tự triệt tiêu tất cả lòng ham sống của bản thân. Đó là cách lựa
chọn của Phật giáo. Trong khi các triết thuyết khác, người ta lại cố gắng tìm cách
tích cực hóa mối quan hệ giữa con người với thế giới, như con người có khả năng
cải tạo thế giới theo những mong muốn của chính mình.
2. Hạn chế trong cơ cấu tổ chức
Tổ chức Phật Giáo không chặt chẽ: Phật Giáo không có giáo quyền, không
thống nhất cách tu hành, có nhiều tông phái và sơn môn. Vì vậy mà giữa các tông
phái, sơn môn giữa các nước cũng như trong cùng một nước không có sự thống
nhất về cách tu hành.
III. Ảnh hưởng của Phật giáo với nước ta hiện nay
Chúng ta đều biết, ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân tộc thực
là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân biệt được đâu là văn hóa
Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là một sự kiện không ai có thể phủ bác.
Sở dĩ như vậy là vì Phật Giáo đã đi vào dân tộc Việt Nam, không bằng con đường
giáo điều khô cứng, không bằng con đường ru ngủ dân chúng (có tác dụng như
Vò ThÞ Thóy H»ng 6 Líp: Marketing 49A
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuốc phiện) với những hứa hẹn hão huyền, mà bằng con đường trí thức, con
đường phát triển trí tuệ, tự lực tự cường, và nhất là không chống lại những truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Với những giáo lý nhân bản và những triết thuyết cao
siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp ứng được những đòi hỏi
suy luận trí thức của giới có học. Với bản chất hòa bình, bao dung, bình đẳng, và
những giáo lý giản dị, Phật Giáo cũng đã đáp ứng được khao khát của giới bình
dân, ít học. Từ đó, Phật Giáo đã đi vào dân gian, hội nhập trong dân gian, trên mọi
giới, đề tạo nên một tinh thần Phật Giáo dính liền với một tinh thần yêu nước cao
độ.
1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng triết học và đạo lý

1.1 Về mặt tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu
Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo,
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện
tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không
những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả
những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo
luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được phân
biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là
nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có
tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa.
Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ tư
là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát
sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh
mới có thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân
đơn độc không bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng
vai trò quả, cho một nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo
của Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở
thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có
suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả
tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân
mà còn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh
hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét
trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay
để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp
báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm
chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng phát biểu câu
rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối phương, hay "chạy trời không khỏi

Vò ThÞ Thóy H»ng 7 Líp: Marketing 49A

×