BIỂU HIỆN CỦA TÍNH QUY PHẠM VÀ TÍNH
BẤT QUY PHẠM TRONG TÁC PHẨM
“Cảnh ngày hè” - Nguyễn Trãi
(SGK lớp 10 – Nâng cao)
♫ ♥ ♫
A. PHẦN LÍ THUYẾT
I) KHÁI NIỆM QUY PHẠM - BẤT QUY PHẠM
Quy phạm là tính chất mẫu mực, khuôn sáo được thể hiện qua một số
hệ thống phức tạp và phương pháp các quy ước về nội dung và hình thức của
tác phẩm, các cách thức miêu tả, biểu hiện mà người viết phải tuân thủ
nghiêm ngặt trong quá trình sáng tác. Hay nói một cách nôm na rằng tính chất
quy phạm chính là biểu hiện của chữ “Lễ”, là những khuôn phép mang tính
chất quy ước.
Tính quy phạm văn học trung đại có nguồn gốc sâu xa từ ý thức sùng
cổ, tập cổ, tôn trọng các chuẩn mực mà xã hội đã quy định. Điều này còn
được thể hiện qua ý thức phục tùng các nguyên tắc, luật lệ nghiêm ngặt của xã
hội trọng lễ. Không chỉ dừng lại ở đó, tính quy phạm trong văn học trung đại
còn bắt nguồn từ ý thức tuân thủ những quy định chặt chẽ trong nội dung và
hình thức thi cử.
Bất quy phạm là việc phá vỡ các tính chất quy phạm đã được quy ước
do tư tưởng phóng túng và năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ. Nguyên nhân
sâu sa dẫn đến việc bứt phá những chuẩn mực này là do xã hội phong kiến
suy thoái, mỗi một nho sĩ có một cách nhìn khác nhau dưới những góc độ
khác nhau. Nhưng điểm chung nhất là họ muốn thoát khỏi những gì ràng buộc
mang tính lỗi thời. Con người có nhu cầu giải phóng. Điều này rất phù hợp
với quá trình vận động và quan điểm của con người.
II) NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TÍNH QUY PHẠM - BẤT
QUY PHẠM TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
1. Quy phạm - bất quy phạm về đề tài
Tính chất cao quý từ nguồn gốc, quan niệm sáng tác và sinh hoạt thơ
văn xưa cũng sinh ra tính quy phạm. Đề tài phải phù hợp với tính chất cao
quý. Nó có thể được lựa chọn từ những đề tài công thức. Mục đích chính của
loại đề tài này là bàn bạc về nội dung tác phẩm kinh điển Nho gia, phát biểu
những quan niệm về chính trị, đạo đức, triết học, thẩm mĩ dựa trên nền tảng
học thuyết Nho giáo. Phải là chuyện quốc gia đại sự, là thế thái nhân tình, là
thành tích lớn lao của vua này chúa nọ, là quan hệ vua tôi, cha con, quân dân,
là đạo lí làm người theo lí tưởng cao cả…Tư tưởng Nho gia trong những tác
phẩm của Nguyễn Đình Chiểu minh hoạ rất rõ cho tính chất quy phạm. Đó là
những mẫu hình Nho gia với những biểu hiện của con người như: đi, đứng, ăn
nói, ứng xử…đúng theo chuẩn mực của xã hội phong kiến quy định.
Cũng có khi các thi sĩ sử dụng loại đề tài có tính chất tập cổ tức là
những đề tài được lấy từ các tác phẩm văn chương mang tính mẫu mực của
người Trung Quốc. Chẳng hạn như: “Kinh thi”, “Li tao”, “thơ Đường”…Loại
đề tài này thường đề cập tới cảnh núi sông hùng vĩ, chùa chiền u tịch, đêm
trăng chiều gió, tài tử giai nhân…Do đó văn chương trung đại sử dụng không
mòn những loại đề tài ít di dịch: cảm, thuật, hoài, hứng, vịnh, ngâm, tặng, đề,
tán, tiễn, tống, biệt, điếu, vãn. Cùng là đề tài “thuật hoài” nhưng nội dung và
hình thức thể hiện thật khác nhau giữa Phạm Ngũ Lão và Đặng Dung. Điều
này minh chứng rằng tác phẩm tuy cùng có chung một đề tài nhưng khía
cạnh, góc độ khai thác nội dung và hình thức thì không thể giống nhau được.
Vì đó chính là “chất” của từng thi sĩ. Phú, văn xuôi, truyện kí, tiểu thuyết
cũng chọn đề tài trang nghiêm. “Phú sông Bạch Đằng”, “Phú sen trong giếng
ngọc”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Hoàng Lê nhất thống chí”…là những tác
phẩm mà mới chỉ nghe tên mà ta có thể thấy chất cao quý, trang nghiêm của
đề tài. Các loại văn xuôi triều đình, tôn giáo, bia, minh, liễn đối trong hội
tang, chay đều mang tính nghiêm chỉnh, thanh nhã. Đề tài của tuồng thường
mang chất bi hùng. Riêng chèo đôi lúc lại có đề tài mang chất dân gian nơi
thôn xóm.
Tính chất quy phạm trong đề tài nhìn chung được đảm bảo. Tuy vậy, đó
chỉ là khi viết bằng chũ Hán. Còn khi viết bằng chữ Nôm, tiếng Việt thì
tính chất bất quy phạm xuất hiện. Nếu giai đoạn thượng kì, đề tài sáng
tác ngâm vịnh chủ yếu là vua quan, mai, lan, cúc, trúc hay ngư, tiều,
canh mục…thì đến giai đoạn hạ kì, đề tại được mở rộng thêm nhiều
theo hướng tự do, phóng khoáng, dần phá vỡ những gì quy định từ
trước. Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái là những tác giả có biểu
hiện phá cách rõ nhất. Những con người tầm thường, những sự vật tầm
thường được đưa vào văn học. Thiên nhiên không còn mang tính quy
phạm, hạn chế tính ước lệ khuôn mẫu mà thay vào đó là những gì gần
gũi với đời sống hàng ngày của người bình dân như mùng tơi, cà,
mướp, rau muống…Điều này được chứng minh trong “Hồng Đức quốc
âm thi tập”. Đề tài ngâm vịnh chẳng có gì là cao quý, ngược lại thơ
dùng ngâm vịnh đủ thứ đồ vật trong nàh từ cái hũ, cái vò, cái đầu rau,
cái cối xay, cái điếu…Phú Hán thanh nhã, cao sang còn phú Nôm lấy
đề tài thông tục: tổ tôm, cờ bạ, thầy đồ ngông…Kinh nghĩa là thể văn
trường thi, yêu cầu bình luận lời thánh hiền trong kinh điển thì Lê Quý
Đôn, một con người tưởng là nghiêm trang bậc nhất lại viết hai bài kinh
nghĩa lấy tựa đề là “Mẹ ơi, con muốn lấy chồng”, và “Ai ơi, chớ lấy
học trò” với giọng đầy hóm hỉnh, đùa cợt. Hồ Xuân Hương lại có
những nhận xét rất sắc về những vị quân vương, những kẻ tự cho mình
là kẻ quân tử. Bà đã đập thẳng vào những bộ mặt giả nhân giả nghĩa
của chúng “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt. Đi thì cũng dở ở không
xong”. Con người càng ngày càng chủ động hơn trong tình yêu đặc biệt
là tâm tư tình cảm thầm kín của người phụ nữ dần bộc lộ. Điều này
đáng được trân trọng biết bao!
2. Quy phạm - bất quy phạm trong việc xây dựng
hình tượng nghệ thuật
Một loạt đề tài quy thành công thức, những cảm tác, cảm hoài, tự thuật,
thuật hoài …đều nhằm vào đối tượng cụ thể nhất định trước mắt, ở ngoại giới
hay trong lòng thuộc nội tâm mà ngòi bút của nhà thơ đã dệt nên đoạn nên
gấm thì đối tượng đó đã trở thành hình tượng nghệ thuật.Thơ đứng đầu trong
các loại văn chương theo quy phạm trung đại, đáng được văn nhân ngâm,
vịnh, cảm, hoài. Nhưng đó phải là những gì cao quý, sang trọng. Tôn trọng,
ưu tiên sử dụng các công thức ước lệ khi miêu tả thiên nhiên: “Mây, gió,
trăng, hoa, tuyết, núi, sông”, “Mai, lan, cúc, trúc”; miêu tả hình ảnh con người
hoặc các sinh hoạt văn hoá của con người trong bức tranh thiên nhiên: “Ngư,
tiều, canh, mục”, “Cầm, kì, thi, tửu”. Chẳng hạn câu thơ trong bài “Chiều hôn
nhớ nhà” của Bà huyện Thanh Quan có sự xuất hiện của ông “ngư”, “mục”:
“Gác mái ngư ông về viễn phố. Gõ sừng mục tử lại cô thôn” ; miêu tả nhân
vật nhất là các nhân vật chính diện như tả anh hùng, thi nhân, thiếu nữ đều
tuân thủ công thức, sử dụng các ước lệ quen thuộc…Chẳng hạn khi miêu tả về
thiếu nữ như Thuý Vân, Thuý Kiều thì đại thi hào Nguyễn Du không quên sử
dụng công thức ước lệ theo tính chất quy phạm của văn học trung đại.
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”
Vận dụng điển cố cũng là cách thể hện tính quy phạm của văn học
trung đại khi nêu những tấm gương mẫu mực trong lịch sử Trung quốc. Điều
này chúng ta thấy rất rõ trong thơ văn của những tác gia lớn như Nguyễn Du,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Đặng Trần Côn…
Tuy nhiên, đến Nguyễn Trãi mới thấy sự khác biệt. “Ức Trai thi tập”
chưa thoát khỏi vòng quy phạm cao quý, sang trọng. Nhưng với “Quốc âm thi
tập” thì nét bất quy phạm lại thể hiện rất rõ. Tát ao, cấy muống, vớt bèo, ươm
sen, thuyền lúc nhúc, chợ cá xôn xao, chác cá tươi, quét trúc bước qua suối,
gánh nước trăng theo về…là những cảnh quê nghèo trong lành không lấy gì
làm cao sang. Tùng, cúc, trúc, mai là khuôn sáo, là công thức chứ dâm bụt,
mùng tơi, rồi những con thú như mèo, lợn, trâu có gì là tao nhã. Lê Thánh
Tông còn táo tợn hơn nũa, bất quy phạm thể hiện cao độ. Dường như không
vật gì trong nhà, quanh xóm, dưới tay mà không thành đối tượng cho thơ. Tuy
đối tượng tầm thường, quê kệch nhưng hình tượng thơ lại ít nhiều, xa gần
được nâng lên thành sang trọng. Vào thời mất nước đen tối, những cay bút
nho sĩ nhân dân đã ra sức đả kích, chửi bới, phỉ nhổ lũ người theo giặc giết
hại đồng bào rồi trèo lên chức nọ tước kia, giàu sang nổi tiếng:
“Dám hỏi: hàm ân người lớp trước
Hay là một lũ những hoang quân?”
Hay: “Hăm hở trẻ con múa lại hát
Đứa thì làm tướng đứa làm yêu”
Những viên quan khâm sai, đề đốc Lê Văn Trinh, quan án, quan đề…
đều là những con người lòng dạ chúng có khác gì con rận, con cóc, con muỗi,
con chó chết trôi…Tất cả những hình tượng trên đều đã bỏ xa những gì được
gọi là quy phạm.
Con người thẩm mĩ trong văn học trung đại xét từ cảm thức chung của
con người trung đại phương Đông cũng như phương Tây, từ thẩm mĩ Việt
Nam đến tính cao nhã, tính vô ngã và hữu ngã đã nêu lên những loại hình con
người thẩm mĩ như “con người vũ trụ”, “con người - tôn giáo, đạo lí” rồi quy
lại “con người – công dân” (cuối thế kỉ 15), tiếp theo là “con người – cá
nhân” với nhiều xu hướng khác nhau và cuối cùng lại trở về là “con người –
công dân” đầy hoài niệm cá nhân. Vậy con người thẩm mĩ trước tự nhiên xã
hội đã xuất hiện thành ngôn ngữ từ trong văn chương cổ của ta như thế nào?
Tượng trưng, kí hiệu là những hình tượng ngôn ngữ mà ta bắt gặp rất
nhiều trong văn học trung đại. Nó thường đi cùng ước lệ, điển cố, điển tích,
cách điệu, và cao hơn là nghệ thuật nắm bắt cái thần của phương thức cảm
nhận trực giác theo tư duy và tinh thần tổng hợp phương Đông. Thực vậy, tả
người, tả vật mà nhằm nắm bắt cái thần của đối tượng thì không thể tả thực
được. Phải dùng biện pháp ước lệ. Lấy chi tiết thay thế cho toàn bộ, chọn
trong đối tượng cần miêu tả một nét có tính chất tiêu biểu để hình dung cả đối
tượng mà cộng đồng chỉ nhìn nét ấy là có thể hình dung được đối tượng bằng
tưởng tượng của bản thân mình. Bắt đầu là sự “quy ước” nhưng sau được
công nhận thì thành “lệ”. Cái roi là ước lệ cưỡi ngựa, cái chén là ước lệ bữa
tiệc…Tượng trưng lại khác: dùng một vật cụ thể có nét thích hợp để nói đến
một cái trừu tượng. Chim bồ câu tuợng trưng cho hoà bình, cái cân tượng
trưng cho công lí…Kí hiệu trong văn học là một hiện tượng mang sẵn một nội
dung đã thành phổ biến, nhắc tới là mọi người hiểu đúng, không lầm lẫn
được. Ước lệ, tượng trưng, điển cố điển tích, thành ngữ, tục ngữ dùng mãi
cũng trở thành kí hiệu. Cách điệu là nghệ thuật hoá từ cảnh tượng hiện thực
thường thô ráp để lựa chọn, sắp xếp theo những phương hướng nhất định
nhằm đạt hiệu quả thẩm mĩ cao nhất.
Tất cả các kí hiệu đều dùng vào cách điệu hoá. Tính quy phạm của văn
học trung đại có kiểu cách điệu hoá riêng mang tính đặc thù. Quy phạm cách
điệu, tài thì không nói các loại công dung ngôn hạnh mà “pha nghề thi hoạ đủ
mùi ca ngâm”. Chẳng phải có một mình Thuý Kiều mà cô cung nữ trong
“Cung oán ngâm khúc” cũng được nêu cao giá trị đến mức tuyệt đối lí tưởng.
Nghe hơ quá nhưng quy phạm buộc phải cách điệu lên như thế mới sang, mới
thú vị với biết bao những ước lệ, tượng trưng, điển tích mà chỉ những bậc văn
nhân hay chữ, đọc nhiều sách thánh hiền, vào ra hàng ngày với thi phù mới
hiểu và thấm thía được.
Ở phạm vi con người thuộc phạm trù con người – công dân, con người
của cộng đồng thì tâm lí hay chủ thể hiện ra bằng hành động (loại tự sự) chứ
không có diễn biến nội tâm, hoặc có diễn biến nội tâm, có tâm lí nhưng vẫn ở
mức sơ sài. Chỉ khi con người – cá nhân xuất hiện thì tâm lí các diễn biến nội
tâm phong phú, tinh vi, sâu sắc đồng thời mới hiện lên đằm thắm trong trang
thơ, bài văn. Một nét khá đậm trong hình tượng con người thẩm mĩ đáng quan
tâm đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp của nước nhà vốn đã đi vào quan niệm
thẩm mĩ dân tộc đã được cảm nhận, suy nghĩ trải ra trong thời gian, không
gian như thế nào?
Một đoạn thơ minh họa - Trên đây nói thêm về con người văn thơ trung
đại nước ta đã xuất hiện trước tự nhiên, xã hội như thế nào? Trong đó chú ý ít
nhiều đến phương thức cách diệu hoá quy phạm rồi bất quy phạm, đến mối
quan hệ giữa con người và cảnh vật, cũng từ quy phạm đến bất quy phạm, bao
trùm cả thời gian, không gian vốn không tách rời được các mặt kia.. Dưới
đây, kết hợp các mặt lại, thử xem ngòi bút tác giả “truyện Kiều” ở mấy câu
sau:
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trăm hay nhạt khói, gió đưa lay rèm
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng
Bởi lòng tạc đá ghi vàng
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.”
Bấy giờ Kim Trọng đã lấy Thuý Vân, nhưng tâm trạng vẫn là “Càng ân
duyên mới càng dào tình xưa”. Đây là một phút “dào tình xưa” ấy. Cảnh: lò
hương đốt lên, phím đồng giở ra, cảnh cũ bày ra trở lại, trước có hai người
nay chỉ còn một. Thời gian: thời gian khép kín, hiện tại và hồi tưởng quá khứ.
Không gian: khách quan, hiện tại là thư phòng , một người, không gian tình
cảm, hồi tưởng quá khứ. Thời gian, không gian xáo trộn trong ảo giác. Con
người: hiện tại mà quá khứ, tỉnh mà như mê rồi như nhập vào cõi nào không
phải là trần gian.
Dàn cảnh ra như thế để nhẹ bớt lời bình, nhường phần cho những trái
tin đồng điệu với chàng Kim. Trước đoạn này có hai câu: “Nỗi nàng nhớ đến
bao giờ. Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng”. Đó là nỗi đau trực tiếp bằng
nước mắt và qụăn lòng, thiệt mặt, thường tình. Bước vào mấy câu này là đi
vào một cõi khác: mượn cảnh mà nói tình và là một cấp độ khác của nỗi đau.
Phải chăng có một sự chuyển biến từ thực sang hư, từ thực tại sang ảo
giác, từ một nỗi đau nhớ tâm linh chuyển dần thành một nỗi đau hoá thân vào
sự biểu hiện con người mình nhớ thương có tiếng có hình. Không phải một
lần chỉ mình với mình vắng vẻ nơi chốn như chỗ gặp nhau ngày xưa. Mảnh
hương, phím đàn là vật ngày cũ. Cảnh cũ, vật cũ, việc cũ nhưng chỉ thiếu hình
bóng của người cũ. Thế mà biến đổi tất cả. Cái cũ như mất đi, nghiêng lệch
đi. Tiếng tơ chẳng còn là tiếng sắt tiếng vàng, chẳng còn trong như tiếng hạc,
đục như nước suối, khoan như gió thoảng, sầm sập như đổ mưa, mà chỉ bẽ
bàng, nhạt nhẽo, rủ rỉ như than mà không thành lời. Trầm thì khói cũng nhạt
chẳng chút thơm. Chỉ vì một cớ người xưa vắng mặt. Vậy thì tiếng đàn còn
vui được với ai? Trầm còn thơm cho ai? Dường như có sự biến dạng ở cảnh
vật, có gì như ớn lạnh ở con người. có gì bất thường nhập vào không khí. Và
hình như thực đã chuyển qua hư. Có ngọn gió thì bỗng lay rèm. Quả nhiên,
bên nóc bên thềm, tiếng Kiều đồng vọng xa xa và bóng xiêm áo nàng mơ
màng, phảng phất. Ảo giác tâm linh, cái đẹp đã biến thành cái thiêng. Cái tài
cái hay của tác giả là tù vật chất hoá mà thiêng liêng hoá nỗi nhớ của trái tim
biết yêu để biết nhớ.
Nếu dùng thi pháp ngày nay nói theo Bakhtin, lời văn trong tiểu thuyết
hơn bất kì đâu là lời đối thoại thì ở mấy câu này, trên bề mặt có hai nhân vật,
một có mặt bằng xương bằng thịt, một hiện ra dưới dạng “cái bóng ma”.
Nhưng ở chiều sâu, đối thoại tăng gấp nhiều lần. Kim nay với Kim xưa, Kiều
“bóng ma”…Kim xưa với Kiều xưa. Thậm chí lò hương với phím đàn cũng
có thể xem như những nhân vật và nay đối thoại với xưa, và đối thoại với
nhau. Thời gian, không gian theo đó mà thành kép và cũng đối thoại với nhau,
xưa với nay…Đoạn thơ đặc kín những tiếng nói ngầm khiến chất cảm xúc
tăng lên vô biên, vô tận.
Đã nói thế còn nhắc tới những dấu vết quy phạm trung đại từ ngôn ngữ
tượng trưng đến môtíp hồn linh hiển hiện, phong thái cao nhã đốt hương gảy
đàn, từ dùng hư để nói thực, chuyển thực sang hư, đến các biện pháp của lí
thuyết văn bản như “hồi cố” mà xưa gọi là phục bút rồi hô ứng, động và tĩnh,
chưa kể bao nhiêu quy phạm trong thể thơ lục bát…
3. Quy phạm - bất quy phạm về thể loại
Quy phạm về thể loại là tuân thủ nghiêm ngặt quy cách sáng tác của thể
loại nhất là các thể loại được sử dụng trong học hành thi cử. Thể thơ cách luật
gốc Trung Quốc đem dùng vào nước ta vốn chứa chất biết bao quy phạm từ
số dòng, số chữ mỗi câu đến đối ngẫu, niêm luật và một loạt những điều cấm
kị khác. Tuy nhiên, những bản lĩnh thơ lớn đôi lúc cho phép mình vượt lên
trên những hạn định đó, tự hưởng đôi chút tự do nhưng vẫn nằm trong giới
hạn. Chẳng hạn câu kết trong bài thất ngôn bát cú, miễn sao đóng và mở hết
mà chưa hết tạo một không gian, thời gian nghệ thuật rộng rãi, ngân dài trong
lòng người đọc. Lại nói về Nguyễn Trãi, ngoài việc lấy đề tài là rau muống,
mùng tơi, con trâu, con lợn còn niêm luật có khi bất chấp. Đặc biệt ông đã xen
vào thể thất ngôn bát cú câu thơ lục ngôn hay toàn bài tám câu đều là những
câu lục ngôn cả: “Đạp áng mây, ôm bó củi. Ngồi bên suối gác cần câu.”
Bên cạnh việc phá cách của Nguyễn Trãi, chúng ta còn bắt gặp nhiều
trường hợp tương tự như Nguyễn Công Trứ chẳng hạn. Một bài hát nói
thường có 11 câu chia làm ba khổ gồm phần miễu và phần lời. Nhưng với
“Bài ca ngất ngưởng”, Nguyễn Công Trứ đã sáng tác dôi hai khổ tức là tám
câu thơ nữa. Văn tế là một thể loại thường dùng trong ma chay, phúng điếu ca
ngợi công đức của nguời đã chết và bày tỏ lòng tiếc thương của người còn
sống. “Văn tế Trương Định”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là nỗi niềm tiếc
thương của Nguyễn Đình Chiểu với những người có công với đất nước đồng
thời là bài ca ca ngợi sự hi sinh anh dũng của những con người. Nhưng với
Phạm Thái lại khác. Ông sử dụng thể loại văn tế vào một mục đích hoàn toàn
khác so với Nguyễn Đình Chiểu. Đơn giản chỉ là nỗi niềm tiếc thương cho
người yêu của mình phải chịu một cái chết oan uổng mà thôi. Không có cách
cắt nghĩa nào khác là coi đó như một biểu hiện của quy luật tiếp biến văn hoá
nói chung của dân tộc ta: mượn của người nhưng trên cơ sở vốn ngôn ngữ,
vốn âm điệu và nhu cầu diễn đạt tâm hồn mình mà biến đổi có lợi cho mình.
Chính theo tinh thần đó, thế kỉ 18 – 19 có nhiều nhà thơ nổi tiếng Việt Nam
như nữ sĩ họ Hồ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương đã cởi bỏ hết vẻ trang
trọng của thể thơ cách luật để nó trở thành âm điệu Việt Nam.
Có một sự sáng tạo lớn trong thể thơ nói chung được xem là vượt bực,
mở đường thoát dần ra khỏi không gian nhiều giới hạn của Đường luật. Đó là
sự xuất hiện và định hình hoàn chỉnh của các thể thơ khác nhau trong nền thơ
dân tộc. Lục bát trong thơ ca dân gian bước vào văn bác học một cách độc
đáo. Song thất lục bát kết hợp câu thơ bảy chữ, nhịp thơ khác với câu lục bát
gốc dân gian cũng xuất hiện trong thơ văn bác học. nói lối được rút ra từ
tuồng hình thành từ ca dao, dân ca, câu thơ bảy chữ, tám chữ của thể ca trù
mà hát nói chỉ là một hình thức. Tất cả các thể thơ này khi đã định hình và đạt
phẩm chất thẩm mĩ cao nhất đều tự thân mang theo phép tắc nhất định từ hình
thức đến nội dung.
Thể phú hay nói rộng ra tới biền văn tứ lục, tuy để lại không ít thành
tựu đáng quý nhưng lại là loại “văn bát cổ”, một loại văn rất khó cho kẻ học
đi thi. Tuy nhiên tính bất quy phạm cũng bùng nổ. Nhà bác học Lê Quý Đôn
đã dùng thể phú sáng tác một bài kinh nghĩa, một thể văn thi cử nghiêm chỉnh
bậc nhất với những nội dung mà nhà nho phải xấu hổ. Đến Tú Xương thì ông
coi phú, văn tế như trò đùa.
Đối với truyện kí, các tác giả dựa trên cái “gốc”, cái “sườn” nhất định
mà dàn dựng các cốt truyện, xây dựng các tính cách . Có khi từ một tư tưởng
chính mà triển khai sự kiện, có khi sáng tạo một số tình tiết, khắc hoạ các tính
cách ở đôi ba nét hay hư cấu, phóng tác trong trần thuật…Ví dụ so sánh giữa
hai tác phẩm sau sẽ cho ta thấy rất rõ điều đó. Truyện “Lí ông Trọng” trong
Việt điện u linh có chép: “Vương họ Lí tên ông Trọng, người Từ Liêm, thân
cao hai trượng ba thước, khí chất thẳng thắn, dũng mãnh khác với người
thường”. Lĩnh Nam chích quái kể lại khác: “Cuối đời Hùng Vương có người
ở xã Thuỵ Phương, huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ, họ lí tên Thân. Khi đẻ ra rất
to lớn, rồi cao đến hai trượng ba thước, tính tình kiêu hãnh, giết người, tội
đáng chết. Hùng Vương tiếc mà không nỡ giết”. Cách kể sau có thêm chi tiết,
nhân vật sinh động hơn, kết cấu cũng khác.
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ được khen là “Thiên cổ kì bút”
quả xứng đáng! Về mặt truyện, nó đạt nghệ thuật truyện ngắn hiện đại không