Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.68 KB, 108 trang )

Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử. Nó xuất hiện từ khi có
xã loài người, trong tương lai tôn giáo vẫn tiếp tục phát triển và sẽ còn tồn tại lâu
dài. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo không chỉ liên quan đến tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, văn hóa,… mà còn là vấn đề chính trị – xã hội nhạy cảm,
có liên quan chặt chẽ đến con người, gia đình, dân tộc, giai cấp. Do vậy, tìm hiểu
tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa chính trị xã
hội sâu sắc.
Nước ta là một quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo cùng tồn tại và chung sống
bên nhau một cách hoà bình, hữu hảo và cùng với tín ngưỡng dân gian đã tạo nên
những nét văn hoá rất riêng của người Việt. Tuy nhiên, hoạt động tôn giáo ở nước
ta hiện nay, có lúc, có nơi còn bị lợi dụng để hoạt động chính trị của. Vì vậy Đảng
và Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa
quan trọng. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay tôn giáo đang là
vấn đề lớn liên quan đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước thu
hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị.
Đạo Công giáo là một trong 6 tôn giáo lớn ở Việt Nam, có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, hệ thống thứ bậc rõ ràng. Từ khi được truyền vào Việt Nam đến nay đạo
Công giáo đã không ngừng phát triển cả về tín đồ, chức sắc, chức việc, về các dòng
tu… Do sự tác động, chi phối rất lớn của đạo Công giáo nên các thế lực phản động
thường triệt để lợi dụng tôn giáo nói chung, đạo Công giáo nói riêng để thực hiện
âm mưu của chúng đối với các quốc gia, dân tộc. Khi xâm lược vào nước ta thực
dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách khai thác lợi dụng đạo Công
giáo để phục vụ cho những mưu đồ chính trị của họ.
Ninh Bình là tỉnh có khá đông đồng bào theo đạo Công giáo (chiếm 16,1%
dân số), trên địa bàn có Toà giám mục Phát Diệm, là một trung tâm Công giáo lớn
KH4D – HV. HCQG
1
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình


của cả nước, được Toà thánh Vatican đặc biệt chú trọng và coi Phát Diệm là “thủ
đô Công giáo của Việt Nam”
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Toà giám mục
Phát Diệm được coi là trung tâm tập hợp các lực lượng phản động đội lốt tôn giáo
để chống phá cách mạng. Chúng đã lập ra khu “Công giáo Phát Diệm tự trị”, biến
các nhà thờ thành đồn bốt để càn quét, bắt giữ cán bộ… Hiện nay, thực hiện chính
sách tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của Nhà nước,
hoạt động của đạo Công giáo ở Ninh Bình có những thay đổi mạnh mẽ về phương
thức hoạt động, cả về số lượng tín đồ và chức sắc, chức việc tôn giáo, tập trung sửa
chữa nâng cấp các cơ sở tôn giáo…
Tình hình quản lý Nhà nước về đạo Công giáo của tỉnh Ninh Bình trong
những năm qua đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng trong việc ổn định
chính trị và phát triển địa phương. Tuy nhiên, trên lĩnh vực quản lý này vẫn còn
những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, một số cấp uỷ, chính quyền địa phương có
thái độ chủ quan, nóng vội trong giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo; có
nơi lại hữu khuynh, thụ động, buông lỏng quản lý, đơn giản trong việc giải quyết,
không kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo, gắn với vấn đề
dân tộc gây “điểm nóng” để bên ngoài lợi dụng, kích động xuyên tạc, vu cáo Đảng
và Nhà nước ta vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo.
Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý
Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” cho bài luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích: Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo; khảo sát đánh giá đặc điểm, thực trạng hoạt động của đạo Công
giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; đánh giá thực trạng công tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh; từ đó đề ra phương hướng,
giải pháp và các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà
KH4D – HV. HCQG
2

Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
nước đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh theo các quy định của
pháp luật, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của địa phương.
- Nhiệm vụ:
+ Khảo sát, đánh giá đặc điểm tình hình kinh tế – xã hội; đặc điểm tôn giáo,
tín ngưỡng và thực trạng hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
+ Đánh giá thực trạng quá trình thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt
động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh; những kết qủa đạt được và hạn chế cần
khắc phục.
+ Đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý Nhà nước đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về công tác quản lý Nhà nước đối với đạo Công
giáo ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2002 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên các phương pháp chủ yếu sau: Phương
pháp khảo sát thực tế, thống kê, phân tích, tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn,
đồng thời vận dụng phương pháp logic kết hợp với quan điểm lịch sử, khách quan, biện
chứng
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1, Một số vấn đề lý luận chung.
Chương 2, Thực trạng hoạt động của đạo Công giáo và quản lý Nhà nước
đối với hoạt động của đạo Công giáo tại tỉnh Ninh Bình.
KH4D – HV. HCQG
3
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Chương 3, Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý Nhà nước đối với hoạt động của đạo Công giáo tại tỉnh Ninh Bình.

KH4D – HV. HCQG
4
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ TÔN
GIÁO
1. Khái quát chung về tôn giáo
1.1. Khái niệm và nguồn gốc tôn giáo
Tôn giáo, tín ngưỡng là hiện tượng đã có từ lâu trong đời sống tinh thần của
con người, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào hoàn chỉnh. Trước
hết là vì xuất phát từ những trường phái triết học khác nhau, người ta có những
khái niệm và những luận cứ khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo. Tôn giáo là một
phạm trù của ý thức, nhưng là phạm trù rất đặc biệt, bởi vì nó còn có một yếu tố xã
hội, yếu tố văn hoá, có tính không gian, thời gian và quần chúng đông đảo. Trong
cộng đồng một tôn giáo cụ thể, tín đồ của tôn giáo đó có thành phần giai cấp, tầng
lớp xã hội, tộc người, ngôn ngữ khác nhau tham gia.
Chính sách tôn giáo là thái độ ứng xử của Nhà nước đối với tôn giáo. Trong
lịch sử, Nhà nước nào cũng có các chính sách tôn giáo, Nhà nước trong xã hội do
giai cấp bóc lột thống trị thường liên kết với các giáo hội, các tổ chức tôn giáo và
lợi dụng nó như một công cụ trong quản lý Nhà nước. Ngược lại các tổ chức tôn
giáo cũng lợi dụng mọi thời cơ, dựa vào Nhà nước và quyền lực Nhà nước để mở
rộng ảnh hưởng của mình trong xã hội.
Tuỳ theo phong tục, tập quán, lối sống của mỗi cộng đồng dân cư, mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia, mỗi khu vực… hình thức biểu hiện của tôn giáo rất đa dạng,
phong phú… Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm tôn giáo, hình thức biểu hiện
không giống nhau, rất phức tạp và đa dạng phù hợp với tâm thức cho từng cộng
đồng, cho dù cộng đồng đó có cùng phương thức sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tôn giáo ra đời từ những nguồn gốc
cơ bản như: nguồn gốc kinh tế – xã hội, nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc tâm lý

tình cảm.
KH4D – HV. HCQG
5
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Tôn giáo đồng nghĩa với sự sùng đạo, tôn thờ đấng được sùng bái. Trong các
từ điển thông dụng, thường quan niệm tôn giáo là sự sùng bái và thờ phụng của
con người đối với thần linh hoặc các mối quan hệ của con người đối với thần linh.
Tín ngưỡng đồng nghĩa với niềm tin, sự tin tưởng, niềm tin đó là niềm tin
đặc biệt. Tín ngưỡng là gốc của tôn giáo. Mọi tín ngưỡng, tôn giáo đều có một cái
chung là “thế giới bên kia” khác với thế giới hiện thực mà con người đang sống.
Cần phân biệt tín ngưỡng với mê tín, dị đoan; mê tín, dị đoan là chỉ một niềm tin
mù quáng như: bói toán, đồng cốt, gọi hồn… là những hiện tượng xã hội tiêu cực,
khác với các chuẩn mực xã hội; là những gì trái với lợi ích của xã hội, nó gây thiệt
hại cho chính những người tin theo mê muội.
Trong quản lý Nhà nước về các hoạt động tôn giáo, chúng ta đặc biệt chú ý
đến những hoạt động của các tôn giáo có tổ chức, khái niệm tôn giáo có tổ chức có
thể được hiểu là một tổ chức, đại diện cho một cộng đồng người có chung một đức
tin, theo một giáo lý hay một giáo chủ và có một kết cấu là tổ chức giáo hội.
Theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 thì “tổ chức tôn giáo là tập
hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức
theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận.”
1.2. Bản chất và vai trò của tôn giáo
Tôn giáo là một thành tố của kiến trúc thượng tầng, là một hình thái của ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Song sự phản ánh đó là “sự phản ánh hư ảo
vào trong đầu óc người ta những sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh ở thế gian đã mang
hình thức sức mạnh siêu thế gian” [5,1]. Tôn giáo có những tác động tích cực và
tiêu cực đến đời sống con người. C. Mac đã nhận xét: “Tôn giáo là tiếng thở dài
của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là
tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân

dân”. Tôn giáo là cái bổ sung cho sự thiếu hụt của con người trong thực tế cuộc
KH4D – HV. HCQG
6
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
sống hàng ngày. Nhưng tôn giáo bù đắp sự thiếu hụt bằng hư ảo, tôn giáo xoa dịu
nỗi đau của con người bằng thứ thuốc an thần.
Trong lịch sử của loài người, tôn giáo đã từng là một thế lực chính trị hay là
chỗ dựa cho những thế lực chính trị khác nhau. Uy lực của Toà thánh La Mã thời
Trung cổ ở Châu Âu là một ví dụ điển hình. Tôn giáo đã gắn cho các quá trình
kinh tế những cơ sở tư tưởng thích ứng với từng thời đại, tạo ra những kích thích
về tinh thần cho hoạt động kinh tế và những tiêu chí đạo đức cho hành vi kinh tế –
xã hội. Các dạng tôn giáo khác nhau tự thể hiện mình một cách khác nhau trong
lĩnh vực kinh tế.
Tôn giáo không chỉ tồn tại nếu chỉ đáp ứng một cách hư ảo khát vọng của
con người. Bởi vậy, cần thấy tôn giáo ở khía cạnh văn hoá, đạo đức của nó. Chừng
nào con người còn sống trong cõi thế gian, họ vẫn còn mong muốn được sống
trong một xã hội công bằng, nhân ái. Tôn giáo đã tìm thấy ở đó những chất liệu
thật, gần gũi với con người nhất để tạo dựng nên hệ thống luân lý đạo đức của
mình. Hệ thống đạo đức, luân lý của những tôn giáo khác nhau về niềm tin, xa
nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung đó là nội dung khuyến thiện của hệ thống
đạo đức đó.
Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn muốn tìm cái hay trong và
ngoài tôn giáo nhằm mục đích duy nhất là đoàn kết mọi người vào việc thực hiện
lý tưởng: độc lập, tự do, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn
minh. Tư tưởng của người còn nguyên giá trị mà ngày nay mỗi người cán bộ công
chức phải thấm nhuần để đưa những tư tưởng đó vào cuộc sống xã hội góp phần
làm cho “nước thái dân an”.
2. Các quan điểm cơ bản về tôn giáo
2.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo
Trong quá trình đấu tranh, xây dựng thế giới quan mới, Mác - Ăngghen đã

thẳng thắn đấu tranh với các trào lưu tư tưởng sai trái đương thời trong đó có tư
tưởng về tôn giáo. Mác - Ăngghen đã dùng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
KH4D – HV. HCQG
7
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
nghĩa duy vật lịch sử để giải thích tôn giáo; đề cập đến các vấn đề cơ bản của tôn
giáo như: nguồn gốc, bản chất, tính chất, chức năng của tôn giáo; lập trường,
phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo của giai cấp vô sản; phê phán các trào lưu
tư tưởng duy tâm tôn giáo và các trào lưu tư tưởng sai lầm khác. Hai ông chủ
trương xây dựng thế giới quan triết học duy vật, đối lập với thế giới quan duy tâm,
tôn giáo. Về phương diện chính trị, xã hội, tôn giáo là một tàn dư của xã hội cũ, xã
hội có giai cấp. Tôn giáo là một lực cản trong sự phát triển xã hội, một lực cản giai
cấp công nhân trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Nhìn chung quan niệm của Mác - Ăngghen được trình bày tương đối có hệ
thống và nhất quán ở 4 điểm sau:
1. Không có Chúa trời như một đấng sáng thế. Vật chất là thực thể duy nhất
của mọi vật. Cũng không thể có một linh hồn bất tử tồn tại cả sau khi con người
chết. Trong “chống Duyrinh”, Ph. Ăngghen định nghĩa: “tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người, của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực
lượng ở trần thế đã mang những lực lượng siêu trần thế” [4, 20,tr.437]. Ở đây
Ăngghen đã giải đáp ba vấn đề cơ bản: tôn giáo là gì? phản ánh cái gì? phản ánh
như thế nào? Định nghĩa này của Ăngghen được nhiều người chú ý và coi như thể
hiện rõ nhất của các nhà sáng lập ra học thuyết Mác – Lênin khi nghiên cứu bản
chất của tôn giáo. Như vậy tôn giáo là do con người sáng tạo ra, là một hình thái ý
thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.
2. Tôn giáo là một hình thái xã hội mang tính lịch sử. Nó không tồn tại vĩnh
viễn mà chỉ trong những giai đoạn nhất định trong lịch sử nhân loại khi mà con
người bị chế ước bởi những điều kiện tự nhiên và xã hội như thiên tai, chiến tranh,

đói nghèo, bất công xã hội… Người ta cần đến tôn giáo như một sự giải thoát khỏi
những ràng buộc trong cuộc sống hàng ngày.
3. Tôn giáo thuộc về kiến trúc thượng tầng, do vậy cũng như khoa học, nghệ
thuật… bị quy định bởi các điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng của xã hội. “Nhà
KH4D – HV. HCQG
8
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược, vì bản thân
chúng là thế giới lộn ngược.[5, tr. 570].
4. Tôn giáo mang tính giai cấp, nghĩa là nó không thể đứng ngoài chính
trị, mà đứng về phía giai cấp này hay giai cấp kia trong xã hội có giai cấp.
Theo C. Mác - Ăngghen, các giai cấp thống trị thường sử dụng và thao túng tôn
giáo để mê hoặc quần chúng đấu tranh chống lại những áp bức và bất công xã hội.
Chẳng hạn, giáo hội Công giáo đã khoác cho chế độ phong kiến ở Pháp trước cách
mạng một vòng hào quang thần thánh. Giai cấp tư sản cũng sử dụng tôn giáo để
bảo vệ lợi ích thống trị của mình. Do vậy, vấn đề tôn giáo gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản vì một chế độ xã hội mới.
Kế thừa những tư tưởng của C. Mác - Ăngghen, Lênin trình bày quan điểm
của mình về tôn giáo trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản Nga nói riêng và chủ
nghĩa tư bản đang trong quá trình phát triển thành chủ nghĩa đế quốc nói chung.
Đặc biệt Lênin đã có những quan điểm về tôn giáo trong điều kiện của Chủ nghĩa
xã hội:
1. Lênin cho rằng tôn giáo là hình thái tinh thần phản ánh một cách siêu tự
nhiên nhưng lại có ảnh hưởng tới đời sống của hiện thực. Vì vậy tôn giáo được cả
giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột sử dụng như chỗ dựa tinh thần. Với nghĩa đó,
Lênin khẳng định nhận định của Mác - Ăngghen về sức mạnh tinh thần.
2. Từ lịch sử của tôn giáo và từ sự đúc kết của Mác - Ăngghen, Lênin khẳng
định khía cạnh tâm linh, tiêu cực trong tôn giáo chịu ảnh hưởng trực tiếp ở trình độ
nhận thức của con người trước những hiện tượng thiên nhiên và trước hiện thực.
Theo Lênin, chủ nghĩa xã hội hiện thực là “chủ nghĩa xã hội đưa khoa học vào

cuộc đấu tranh chống đám mây mù tôn giáo và làm cho công nhân khỏi tin vào một
cuộc đời ở thế giới bên kia là giành lấy một cuộc đời tốt đẹp hơn trên trần thế [9, 12,
tr.169].
3. Về quan điểm tự do tín ngưỡng, Lênin cho rằng “bất kỳ ai cũng được
hoàn toàn tự do theo tôn giáo mình thích, hoặc không thừa nhận một tôn giáo nào.
KH4D – HV. HCQG
9
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Mọi sự phân biệt giữa công dân có tín ngưỡng tôn giáo khác với công dân không
có tín ngưỡng tôn giáo đều hoàn toàn không thể tha thứ được” [9, 12, tr 175].
4. Theo Lênin, tôn giáo và chính trị là hai hình thái tinh thần độc lập. Vì vậy,
giáo hội và Nhà nước không thể là một. Từ đó, sinh hoạt tôn giáo “phải được tuyên
bố là một việc tư nhân”. [9, 12, tr.169 – 175]
Những quan điểm, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo
là di sản quý giá để chúng ta vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
góp phần thực hiện thành công chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong
từng thời kỳ qua các giai đoạn cách mạng.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin và kế thừa tinh hoa tri thức của nhân loại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta trong việc hình thành các quan điểm về tôn giáo và công tác tôn
giáo. Những quan điểm và cách ứng xử của Người đối với vấn đề tôn giáo chứng
minh Người am hiểu sâu sắc các tôn giáo lớn, trân trọng những giá trị cao đẹp của
tôn giáo, đồng thời Người cũng kiên quyết vạch mặt những kẻ đội lốt tôn giáo để
làm hại tôn giáo và dân tộc.
Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo bao gồm:
2.2.1. Về tự do tín ngưỡng
Quan điểm về tự do tín ngưỡng của Hồ Chủ tịch được thể hiện trong quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Nhà nước Việt Nam từ khi Nhà nước
dân chủ được thành lập. Ngay trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam từ

năm 1946, đã nêu “đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp,
tôn giáo”. Tại điều 10 của bản Hiến pháp này đã xác định, quyền tự do tín ngưỡng
là một quyền cơ bản trong hệ thống 5 quyền cơ bản của công dân Việt Nam. Và
chính bản Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta có sự
chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch.
KH4D – HV. HCQG
10
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Trong những năm lãnh đạo đất nước, với cương vị người đứng đầu Nhà
nước, Hồ Chủ tịch đã nhiều lần đề cập tới vấn đề tự do tín ngưỡng như là sự tái
khẳng định của Nhà nước, của Chính phủ trong công tác tôn giáo. Chẳng hạn,
trong thư của Hồ Chủ tịch gửi cho Tổng giám mục Lê Hữu Từ (1947), Người nhân
danh Chính phủ viết “Thưa Đức cha. Trong Hiến pháp nước ta đã định rõ quyền tự
do tín ngưỡng, kẻ nào vi phạm và khiêu khích bà con Công giáo sẽ bị xử lý” [8,13,
tr. 80].
2.2.2. Về đoàn kết tôn giáo
Tư tưởng đoàn kết luôn bao trùm rộng lớn và có ý nghĩa quy định thành
công trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Đối với tôn giáo, hơn bao giờ
hết cần có đoàn kết thực lòng và bền vững.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo là tư tưởng đoàn kết
đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào theo đạo với đồng bào không theo đạo;
đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, cùng lấy mục tiêu chung làm điểm
tương đồng, đó là vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
Lấy nguyên tắc đoàn kết là trung tâm của chính sách tôn giáo, xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc là mấu chốt. Mọi chính sách, pháp luật
về tôn giáo phải xoay quanh nguyên tắc đoàn kết là xuất phát từ lợi ích chung của
cả dân tộc, trong đó có lợi ích của tổ chức tôn giáo. Người nhận thức rằng: tín
ngưỡng là những biểu hiện sâu kín của thành kính, tôn giáo hàm chứa tình cảm
thiêng liêng đã nâng lên thành biểu tượng mà người có đạo dễ dàng chấp nhận hy

sinh để gìn giữ sự ngưỡng vọng và tôn kính đó. Đối với công tác tôn giáo, Người
dạy “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bất biến là nguyên tắc đoàn kết, là nguyên tắc vì
lợi ích chung của Tổ quốc, của nhân dân. Vạn biến là phương pháp vận động
thuyết phục mềm dẻo, linh động, có đối sách trong từng trường hợp cụ thể, có
chính sách thu hút sự ủng hộ của đông đảo chức sắc, quần chúng tín đồ tham gia
KH4D – HV. HCQG
11
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
phong trào thi đua yêu nước. Khơi dậy “đức hy sinh”, “xả phú cầu bần, xả thân cầu
đạo” hoà quyện trong tinh thần dân tộc tự cường, chủ trương đưa đạo “nhập thế”,
đạo cũng là việc đời, việc đời cũng là việc đạo, tạo nên nguồn lực cộng hưởng
trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện xây dựng một nước Việt Nam “hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
2.2.3.Về đạo đức tôn giáo
Năm 1990, lần đầu tiên Đảng ta thừa nhận giá trị đạo đức tôn giáo có trong
tôn giáo khi khẳng định: “đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp trong công cuộc
xây dựng xã hội mới” [9] và việc phát huy giá trị tốt đẹp về văn hoá và đạo đức có
trong tôn giáo được thể hiện ở Văn kiện Đại hội IX của Đảng là phù hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tôn giáo thường có điểm chung là giáo dục con người, trừ ác,
hướng thiện; khuyên răn điều hay lẽ phải ở đời. Hồ Chí Minh đã khái quát giá trị
đạo đức có trong tôn giáo: “Chúa Giêsu dạy: đạo đức là bác ái. Phật Thích ca dạy:
đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa” [8, 6, tr. 272]. Người cũng
rất quan tâm đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại như: phẩm chất, ý
chí, nghị lực, tư cách, lối sống… tức là những yếu tố cơ bản đánh giá, phẩm chất,
đạo đức con người. Phải thừa nhận rằng tuy mức độ khác nhau các tôn giáo có khả
năng xây dựng mẫu hình con người theo quan điểm của nó, đồng thời cũng góp
phần vào việc xây dựng thang bậc, chuẩn mực đạo đức cho con người ở nhiều thời
kỳ lịch sử.
Một mặt kế thừa, mặt khác Hồ Chí Minh cũng phê phán đạo đức tôn giáo
khi nó không còn phù hợp với đạo đức cách mạng.

2.2.4. Về sự phân biệt có tính nguyên tắc giữa sinh hoạt tôn giáo và lợi dụng
tôn giáo
Hồ Chí Minh đã nhiều lần phê phán những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích
chính trị phản động. Đối với những kẻ không chỉ là “việt gian mà còn là giáo gian”
này cần phải nghiêm trị. Tuy nhiên, điều quan tâm nhất của Người vẫn là làm thế
KH4D – HV. HCQG
12
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
nào để đoàn kết, thu hút những người có tôn giáo tham gia vào sự nghiệp cách
mạng chung của toàn dân do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Từ khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, một nửa nước xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chính Người đã nhắn nhủ, góp ý, động viên đồng bào có đạo sống trong
cộng đồng theo tinh thần lương giáo đoàn kết, “không nên lợi dụng việc đạo để gây
khó khăn cho Chính phủ, khó khăn cho việc sản xuất của đồng bào như một số
người đã cố ý tổ chức để làm phúc kéo dài hàng tuần giữa lúc đang gặt hái gấp”.
Cần phân biệt sinh hoạt tín ngưỡng của một tôn giáo với hoạt động của một
số người giả danh đang hoạt động tôn giáo. Chính họ đã nhân danh tôn giáo để gây
chia rẽ các tôn giáo, hoặc phá rối trật tự công cộng. Thậm chí họ còn lợi dụng niềm
tin tôn giáo để mê hoặc tín đồ, phật tử, mưu lợi cá nhân. Trong “Bản án chủ nghĩa
thực dân Pháp”, Người đã luận tội đanh thép về chủ nghĩa thực dân cũng như việc
chúng lợi dụng tôn giáo và tự do tín ngưỡng. Người đã phân biệt một cách rõ ràng
giữa đức tin với hành vi, giữa cá nhân với tổ chức giáo hội, giữa việc hành đạo
chân chính với sự lợi dụng việc hành đạo để chống lại dân tộc, quốc gia. Hơn ai hết
Người hiểu rất sâu sắc, một đức tin chân chính, một hành vi tôn giáo chân chính
không bao giờ đi ngược lại lợi ích dân tộc. Và Người cho rằng các hủ tục mê tín
hay lợi dụng tôn giáo gây phương hại đến lợi ích chung cũng là những biểu hiện
cần lên án và khắc phục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bổ xung vào kho tàng của Chủ nghĩa Mác – Lênin
một cách nhìn nhận tôn giáo mềm mại và có ý nghĩa thực tiễn hơn. Tất cả những gì
người viết, nói về tôn giáo, tín ngưỡng chung quy lại là nhằm giác ngộ đại đa số

đồng bào các tôn giáo và đoàn kết toàn dân, hoàn thành sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Vì vậy, có thể nói đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau,
giữa đồng bào có đạo và những người không theo tôn giáo là một truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Tư tưởng đoàn kết lương giáo, mối quan hệ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh với các chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo là một mẫu mực của việc
thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân.
2.3. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo
KH4D – HV. HCQG
13
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Tôn giáo là một vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta dựa trên những quan điểm cơ bản
của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo phù hợp với đặc
điểm tôn giáo ở Việt Nam và yêu cầu cụ thể của từng thời kỳ cách mạng. Tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân là vấn
đề mang tính nguyên tắc, chính sách nhất quán trước sau như một của Đảng và
Nhà nước ta. Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn xác định công
tác tôn giáo là vấn đề chiếm lược có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo
đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết
toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là thời kỳ đổi mới toàn diện các mặt
sinh hoạt của xã hội, Đảng ta đã đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức đưa ra nhiều
quyết sách về vấn đề tôn giáo, thể hiện ở Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16/10/1990
của Bộ Chính trị khoá VI. Nghị quyết xác định “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu
dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức
tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới”,
“các giáo hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân
tộc, có tôn chỉ, mục đích điều lệ phù hợp với luật pháp Nhà nước, có tổ chức phù
hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả 2 mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước

xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động”.
Ngày 12/03/2003, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ra nghị quyết 25/NQ-TW về công tác tôn giáo. Nghị quyết chỉ rõ: hoạt động
tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn
giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc. Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh”.
2.3.1.Quan điểm
KH4D – HV. HCQG
14
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Để thực hiện phương hướng trên, Đảng đã thể hiện rõ quan điểm và chính
sách một cách công khai trên toàn dân, trên các phương tiện thông tin đại chúng,
Đảng xác định:
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp
luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
2. Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Đoàn kết đồng bào theo
tôn giáo và không theo tôn giáo. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
3. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác quần chúng, công tác
đối với con người. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên
đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ
quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế xã hội, an ninh, quốc

phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có
đồng bào tôn giáo.
Cùng với công tác vận động quần chúng có tín ngưỡng, phải tăng cường
quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với công tác tôn giáo nhằm đảm bảo bằng
pháp luật cho các tôn giáo được sinh hoạt bình thường và ngăn chặn bọn xấu lợi
dụng tôn giáo với động cơ mục đích ngoài tôn giáo.
4. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội có quan hệ phức
tạp và tế nhị đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, làm tốt công tác tôn giáo
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
KH4D – HV. HCQG
15
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
5. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận,
được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo,
mở trường đào tạo chức sắc nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn sửa chữa
xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc
theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến
pháp và luật pháp.
2.3.2. Nguyên tắc trong hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo
Để thực hiện tốt nhiệm vụ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để phát
huy sức mạnh toàn dân, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nguyên tắc trong công
tác tôn giáo hiện nay như sau:
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như
giữa các tôn giáo với nhau.
- Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín

ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động gây chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, làm tổn hại đến an ninh quốc gia.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa; giữ gìn độc lập tự do và chủ quyền quốc gia.
- Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyền khích phát huy.
- Chống mọi hành vi lơi dụng tôn giáo. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để làm
mất trật tự an toàn xã hội, phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách
đoàn kết toàn dân, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hoá của dân tộc,
KH4D – HV. HCQG
16
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý
theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ.
- Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể, các tổ chức xã hội, các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận
động quần chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
2.3.3. Chính sách tôn giáo
Từ những nguyên tắc trên, Nhà nước xây dựng những chính sách cụ thể:
1, Đối với tín đồ các tôn giáo được bảo đảm sinh hoạt tôn giáo bình thường,
có nơi thờ tự, kinh sách, đồ dùng trong việc đạo và có chức sắc hướng dẫn việc
đạo. Làm cho đồng bào hiểu rõ chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước; phân biệt tự do tín ngưỡng và lợi dụng tín ngưỡng, tự giác đấu tranh với mọi
âm mưu, thủ đoạn bị lợi dụng tôn giáo của bọn xấu và phản động. Xoá bỏ thành
kiến đối với người có đạo. Thường xuyên củng cố tình đoàn kết dân tộc, đoàn kết
lương giáo vì sự nghiệp và lợi ích chung.
2, Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng ở cơ sở.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, đổi mới nội dung, phương thức công tác

vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu
cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc, chức việc,
nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
3, Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo. Tăng cường đầu tư và thực
hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất văn hoá cho nhân dân các vùng
khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng có đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc
miền núi còn nhiều khó khăn.
KH4D – HV. HCQG
17
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để
kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối loạn, xâm phạm an ninh quốc gia.
Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt
động y tế, văn hoá, xã hội, giáo dục của Nhà nước.
Thống nhất chủ trương xử lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo
hoặc có liên quan đến tôn giáo.
4, Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về tôn giáo ở các cấp; xây dựng quy chế
phối hợp phát huy sức mạnh và hiệu qủa công tác.
Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và
bảo đảm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo là tiền
đề quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động, tổ chức của các tôn giáo đã và đang phát
triển tại Việt Nam, là kim chỉ nam cho hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo ở

nước ta.
II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
Quản lý Nhà nước là sự tác động đến các chủ thể mang tính quyền lực Nhà
nước bằng nhiều biện pháp tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện những chức
năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở chính sách pháp luật.
Quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là quá trình tác động, điều
hành, điều chỉnh để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra theo đúng quy định
của pháp luật.
1. Đối tượng quản lý
1.1. Tín đồ tôn giáo
KH4D – HV. HCQG
18
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Tín đồ tôn giáo là người có niềm tin theo một tôn giáo nhất định và được tổ
chức giáo hội thừa nhận. Ví dụ như giáo dân, linh mục… trong đạo Công giáo. Tín
đồ của các tôn giáo có sự thống nhất trên 2 mặt: công dân và tín đồ. Về mặt công
dân, đều bình đẳng trước pháp luật về nghĩa vụ và quyền lợi như mọi công dân
khác. Về mặt tín đồ, là người có niềm tin và tình cảm tôn giáo ở những mức độ
khác nhau, họ có quyền lợi và nghĩa vụ do tổ chức giáo hội quy định được thể hiện
trong giáo lý, giáo luật. Mặt công dân và tín đồ thống nhất trong người công dân –
tín đồ, nhưng không đồng nhất: mặt công dân phải được đặt lên trên hết.
1.2. Chức sắc tôn giáo
Chức sắc tôn giáo trước hết là tín đồ Giáo hội đào tạo, tấn phong vào các
chức vụ Thánh hoặc các chức vụ thẩm quyền trong các tổ chức tôn giáo. Ví dụ như
linh mục, giám mục trong đạo Công giáo.
Các chức sắc tôn giáo có sự thống nhất giữa 3 mặt: công dân, hành đạo và
đại diện. Họ được đối xử bình đẳng trước pháp luật về nghĩa vụ và quyền lợi như
mọi công dân, ngoài ra các chức sắc tôn giáo còn có điểm đặc biệt hơn công dân
bình thường ở chỗ: họ có quyền uy của Giáo hội, do từng tôn giáo quy định, đại
diện cho tổ chức giáo hội ở những mức độ khác nhau trong quan hệ đối nội, trong

quan hệ giữa đạo và đời.
1.3. Nhà tu hành
Là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý,
giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. Trong đó mặt công dân là số một. Ví dụ
các tu nam, các tu nữ trong đạo Công giáo.
1.4. Chức việc
Là tín đồ đựơc giáo hội chỉ định hoặc tập thể tín đồ bầu vào giữ các chức vị
của tổ chức giáo hội cơ sở. Ngoài nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ tín đồ, họ còn có
chức vị thẩm quyền trong tổ chức giáo hội cơ sở. Ví dụ chức Chánh trương, Trùm
trưởng trong đạo Công giáo.
1.5. Nơi thờ tự
KH4D – HV. HCQG
19
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Nơi thờ tự được thể hiện trên 4 mặt: vật chất, tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt
cộng đồng. Mặt vật chất, nơi thờ tự của các tôn giáo được xây dựng bằng những
vật liệu khác nhau và có kiểu kiến trúc khác nhau phù hợp với niềm tin của từng
tôn giáo. Mặt tôn nghiêm là nơi luôn hiện hữu của thần quyền, nơi bái vọng,
ngưỡng mộ và biểu hiện tình cảm tôn giáo, nơi diễn ra những nghi lễ tôn giáo. Mặt
trụ sở, là nơi diễn ra các hoạt động hành chính đạo. Mặt sinh hoạt cộng đồng, là
nơi diễn ra các lễ hội tôn giáo, nơi sinh hoạt của cac hội đoàn tôn giáo.
1.6. Đồ dùng việc đạo
Bao gồm: kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ trống, kèn, chuông, mõ…
mỗi đồ dùng có vai trò, vị trí khác nhau trong sinh hoạt của các tôn giáo song
chúng có chung một đặc điểm là sự thống nhất và đồng nhất giữa mặt vật chất và
mặt biểu đạt.
1.7. Các cơ sở vật chất khác của tôn giáo
Các tôn giáo còn có các cơ sở vật chất khác như: khuôn viên, ruộng đất, cơ
sở đào tạo, cơ sở từ thiện, nhà dòng, nhà chùa… Những cơ sở vật chất này vừa là
tài sản do các tổ chức tôn giáo sử dụng vừa là nơi diễn ra các hoạt động của các tôn

giáo, của tổ chức giáo hội. Những cơ sở này được giao trách nhiệm cho chức sắc
bản quyền quản lý, sử dụng.
1.8. Sinh hoạt tôn giáo
Là một phạm trù rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong các hoạt động tôn giáo.
Nhìn chung, mọi sinh hoạt tôn giáo đều có hai đặc điểm chính là: về chủ thể, có thể
do các thể nhân tôn giáo thực hiện đơn lẻ tại gia hoặc do chức sắc và các pháp
nhân tôn giáo thực hiện như Ban hành giáo, Ban tự hội, Ban chấp sự… về diễn
biến, các sinh hoạt tôn giáo tuân theo lề luật và lễ nghi nhất định như lễ thường, lễ
trọng các phép bí tích, các khoá hạ, giới đàn,…
Nắm vững những đặc điểm của đối tượng quản lý Nhà nước về các hoạt
động tôn giáo có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý của Nhà nước, để thực
KH4D – HV. HCQG
20
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
hiện tốt những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong công tác tôn
giáo.
2. Nội dung quản lý
Nội dung quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo căn cứ vào pháp
luật hiện hành và hoạt động cụ thể của các tổ chức tôn giáo. Nhà nước quản lý các
hoạt động tôn giáo gồm các nội dung chính sau:
2.1. Quản lý việc xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo
Tổ chức giáo hội từ cơ sở trở lên phải được Nhà nước công nhận. Các tổ
chức tôn giáo thuộc nhóm các tổ chức, đoàn thể xã hội, vì vậy việc thành lập các tổ
chức mới ở các cấp khác nhau, theo pháp luật phải đảm bảo các thủ tục pháp lý cần
thiết và phải được Chính phủ cho phép. Chỉ có Thủ tướng Chính phủ mới là cơ
quan Nhà nước có quyền ban hành quy định về việc thành lập và công nhận các tổ
chức tôn giáo. Các cơ quan quản lý chuyên ngành trong hệ thống hành chính Nhà
nước có trách nhiệm theo dõi, tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ đối với việc thành lập
các tổ chức tôn giáo đồng thời báo cáo với Thủ tướng về việc trên.
2.2. Quản lý việc xét duyệt chương trình hành đạo thường xuyên và đột xuất

Hàng năm các tổ chức tôn giáo hợp pháp đăng ký chương trình hoạt động
tôn giáo với chính quyền các cấp và được chính quyền các cấp xem xét tạo điều
kiện để sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường tại nơi thờ tự. Những hoạt động tôn
giáo thuần tuý được bảo đảm tự do hành đạo, bên cạnh đó có những hoạt động trái
phép với tập quán tôn giáo đôi khi cũng diễn ra cần phải được nhắc nhở ngăn chặn
hoặc giải quyết bằng phương pháp hành chính. Ví dụ các hoạt động mê tín, dị đoan
như “lên đồng”, bói toán… Hoặc có những hoạt động có tính tập quán tôn giáo
nhưng bỏ qua các thủ tục pháp lý cần thiết có liên quan như làm lễ thành hôn
không có giấy kết hôn, không được quyền li dị theo luật… thì các tôn giáo phải
đảm bảo luật pháp, đảm bảo lợi ích của toàn dân.
Ngoài những sinh hoạt thông thường, còn có những hoạt động bất thường đó
là những hoạt động không có trong chương trình đăng ký hàng năm, hoặc có đăng
KH4D – HV. HCQG
21
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
ký nhưng quy mô lớn hơn so với thường lệ thì phải thông báo với chính quyền, khi
chính quyền cho phép mới tiến hành.
Như vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành phải làm việc với các
tôn giáo để xây dựng nội dung hoạt động thông thường của sinh hoạt tôn giáo; phải
nắm được các nội dung, phạm vi giữa các loại hình sinh hoạt tôn giáo thông
thường và các sinh hoạt biểu hiện xa lạ với tín ngưỡng, văn hoá.
2.3. Quản lý việc xét duyệt một số việc thuộc hành chính đạo
Việc phong chức sắc, trao chức danh, bổ nhiệm cho các chức sắc, nhà tu
hành thuộc hình thức hoạt động của giáo hội các tôn giáo, nhưng phải có sự thoả
thuận và chấp thuận của Nhà nước. Đây là cơ sở để đảm bảo sinh hoạt xã hội phát
triển bình thường, vừa đảm bảo cơ sở pháp lý của những biến động tôn giáo trong
điều kiện của Nhà nước dân chủ, pháp quyền. Ngoài ra, những việc đăng ký con
dấu, làm con dấu mới; tách nhập họ đạo; điều chỉnh chức sắc trung, cao cấp; các
hội đoàn tôn giáo… phải tuân thủ theo pháp luật.
2.4. Quản lý việc đào tạo chức sắc, nhà tu hành

Việc đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo trong các trường đặc biệt của
tôn giáo là đảm bảo sự phát triển bình thường của các tôn giáo, bảo đảm tính kế
thừa các thế hệ, các nhà chức sắc.
Người đứng đầu các cơ sở đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo chịu trách
nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động. Giảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, người học phải hoàn thành nghĩa vụ công dân, lí lịch rõ ràng.
Mở trường đào tạo, chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được phép của Thủ
tướng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường này thực hiện theo quy
định của Ban Tôn giáo Chính phủ và của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Việc bồi dưỡng hàng năm, kèm cặp tại chỗ, đi tu nghiệp nước ngoài… thực
hiện theo quy định của pháp luật.
2.5. Quản lý việc xét duyệt quá trình xây dựng và sửa chữa nơi thờ tự
KH4D – HV. HCQG
22
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo là sở hữu chung của cộng đồng tín đồ
được Nhà nước bảo hộ. Việc tu bổ và sữa chữa nhỏ không ảnh hưởng đến kết cấu
công trình các nhà lân cận và bộ mặt đường phố được miễn giấy phép xây dựng.
Tuy nhiên, trước khi sửa chữa nhỏ phải thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã sở tại biết. Việc sửa chữa lớn; khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị
huỷ hoại do chiến tranh, thiên tai; việc tạo lập cơ sở thờ tự, xây dựng công trình
thờ tự người chủ trì cơ sở thờ tự phải làm đơn xin phép Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
2.6. Quản lý việc xét duyệt chương trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo
Tôn giáo nào cũng có những tài liệu, kinh sách, giáo lý, luật lệ thành văn
như: Tam tạng kinh điển, Kinh Thánh, Kinh Coran… Ngoài ra còn có những dụng
cụ phục vụ cho việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo như: mõ, chiêng, trống, kèn…
Những sản phẩm vật chất đó cần được bảo quản, giữ gìn cho nhu cầu thiết yếu của
việc đạo. Ngoài ra chúng còn là tài sản văn hoá của nhân dân cần được tái tạo, sửa
chữa và bảo quản. Sản phẩm xuất - nhập có nội dung tôn giáo do Bộ Văn hóa
Thông tin và Ban Tôn giáo Chính phủ xem xét.

2.7. Quản lý việc xét duyệt các hoạt động từ thiện xã hội
Hoạt động từ thiện là một trong những nội dung có trong hầu hết các giáo lý
của các tôn giáo. Ngoài giá trị từ thiện, ý nghĩa nhân văn, những việc làm này có
giá trị mở rộng và tuyên truyền tôn giáo mạnh mẽ. Ngày nay, các hoạt động từ
thiện của các tôn giáo được khuyến khích chẳng những đối với các giáo hội trong
nước mà còn đối với các tôn giáo ở nước ngoài mong muốn làm công việc từ thiện
tại Việt Nam. Nội dung này cần được hướng dẫn, cụ thể hoá trong các văn bản của
Ban Tôn giáo Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan chức năng
quản lý Nhà nước.
2.8. Quản lý việc xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối ngoại tôn giáo
Hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ và phù hợp
với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trên
KH4D – HV. HCQG
23
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và hữu
nghị.
2.9. Quản lý việc xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi
phạm chính sách tôn giáo
Căn cứ vào Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan, các cơ quan quản lý Nhà nước phải giải quyết ngay từ cơ sở và đúng
thẩm quyền pháp lý của từng cấp quản lý các khiếu nại, tố cáo liên quan đến tôn
giáo; xử lý vi phạm chính sách tôn giáo, theo các văn bản pháp luật hiện hành của
Nhà nước như: Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Dân sự…
2.10. Đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, phối hợp
chặt chẽ với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền phải thực hiện đấu
tranh chống lợi dụng tôn giáo cần tập trung bài trừ mê tín dị đoan; chống móc nối
thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị phản động.
3. Phương thức quản lý

Quản lý Nhà nước nói chung và quản lý các hoạt động tôn giáo nói riêng, về
nguyên tắc phải tuân thủ các phương pháp quản lý hành chính Nhà nước.
3.1.Quản lý bằng pháp luật
Để quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện đầy đủ thì quyền này
phải được luật hoá. Văn bản Luật quan trọng nhất là Hiến pháp, ngay trong văn
bản này, quyền tự do tín ngưỡng đã trở thành quyền hiến định. Tiếp đến là Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 ngày 18/6/2004 và Nghị định 26/2005/NĐ-
CP của Chính phủ Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo là những văn bản quy định và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho
nhân dân làm cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ngày một phong phú, đa dạng
với phương châm “nước sáng, đạo vinh”, “sống tốt đời đẹp đạo”.
3.2. Quản lý bằng chính sách
KH4D – HV. HCQG
24
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh ninh bình
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được khẳng định nhất quán
trước sau như một: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; các
tôn giáo được hoạt động tự do trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
Một tôn giáo ở Việt Nam muốn hoạt động hợp pháp phải đáp ứng đủ những
tiêu chí cơ bản như: có tín đồ tự nguyện tin theo; có giáo sĩ hướng dẫn việc đạo; có
tôn chỉ mục đích hoạt động không trái pháp luật Nhà nước Việt Nam; có hệ thống
giáo lý, giáo luật phù hợp; có nơi thờ tự đảm bảo vệ sinh, an toàn; không hoạt động
mê tín dị đoan làm tổn hại đến tinh thần, vật chất, sức khoẻ của tín đồ; không làm
ảnh hưởng đến quyền cơ bản của người khác và phải đăng ký hoạt động với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Những tổ chức tôn giáo không đáp ứng đủ những yêu cầu trên đều không
được hoạt động.
Đây là những quy định đối với tổ chức tôn giáo, còn tín đồ hoàn toàn tự do
sinh hoạt tín ngưỡng tại gia đình và nơi thờ tự hợp pháp.
Mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam

xử lý bằng pháp luật đối với bất kỳ một công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật,
bất kể công dân đó theo tôn giáo hay không theo tôn giáo và xử lý bằng pháp luật
mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự xã hội, làm phương hại đến an ninh
quốc gia, tổn hại tinh thần vật chất văn hoá, sức khoẻ của công dân.
3.3.Quản lý tôn giáo bằng tổ chức bộ máy và cán bộ
Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý
Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, là đầu mối hợp với các
ngành về công tác và liên hệ với các tổ chức tôn giáo.
Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban Tôn giáo quận,
huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND, chịu trách nhiệm trước UBND thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về các hoạt động tôn giáo theo pháp luật của nhà
nước trong phạm vi địa phương. Còn ở cấp cơ sở xã, phường hiện nay mới chỉ có
KH4D – HV. HCQG
25

×