Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.13 KB, 45 trang )

Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
PHẦN MỘT
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
1. Những quy định chung, mục đích và phương pháp thực tập:
1.1. Những quy định chung:
- Thực hiện Quyết định số 1918/ QĐ-HVHCQG ngày 30 tháng 12 năm
2005 của giám đốc Học viện Hành chính về việc ban hành quy chế tổ chức thực
tập cho sinh viên Đại học hành chính hệ chính quy.
- Theo kế hoạch thực tập của Phòng Đào tạo Học viện Hành chính cơ sở
Thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Mục đích thực tập:
- Tìm hiểu được cơ cấu tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, chức năng,


nhiệm vụ và mối quan hệ của cơ quan, đơn vị thực tập cũng như nhiệm vụ quyền
hạn của cán bộ, công chức tại nơi thực tập.
- Nắm vững quy trình công vụ trong cơ quan quản lý hành chính Nhà nước
nơi thực tập.
- Nắm được thủ tục hành chính của cơ quan nơi thực tập, thể chế hành
chính liên quan đến cơ quan nơi thực tập.
- Vận dụng kiến thức đã học vào thực tế, thực hành các kỹ năng hành chính
đúng với vai trò của một công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước, với yêu
cầu cụ thể mà cơ quan đến thực tập giao cho.
- Bổ sung và nâng cao kiến thức đã học thông qua sự giúp đỡ, trao đổi với
cán bộ nơi thực tập
1.3. Phương pháp thực tập:

Trong quá trình thực tập, sinh viên nghiên cứu các văn bản hành chính, căn
quản quy phạm pháp luật, các tài liệu có liên quan đến nơi thực tập.
Thu thập thông tin, thống kê, phân tích và đánh giá các số liệu, thực trạng
có liên quan đến cơ quan thực tập.
Thông qua sự hướng dẫn của giáo viên và cán bộ nơi thực tập kết hợp với
quá trình quan sát, thử việc tại cơ quan để bổ sung và nâng cao kiến thức, tích lũy
kinh nghiệm và hoàn thành báo cáo thực tập.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 1
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
2. Tình hình thực tập:

2.1. Địa điểm thực tập:
Phòng Văn hóa và Thông tin Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh.
2.2. Thời gian thực tập:
Thời gian thực tập 02 tháng
Từ ngày 15-03-2010 đến ngày 14-05-2010
2.3. Nhật ký thực tập:
Thời gian Nội dung công việc
Tuần 1
- Liên hệ xin thực tập.
- Báo cáo với lãnh đạo Phòng về kế hoạch và thời gian thực
tập.

- Làm việc tại cơ quan thực tập, chịu sự điều hành và phân
công của cơ quan thực tập.
- Trình lãnh đạo phòng về đề tài viết báo cáo thực tập.
Tuần 2
- Tìm hiểu tổng quan về bộ máy hoạt động của UBND Quận 1
- Tìm hiểu vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Phòng Văn hóa và Thông tin Quận 1.
- Xác định và xây dựng đề cương chuyên đề thực tập.
- Trao đổi với cán bộ chuyên môn để nâng cao kiến thức lý
luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về văn hóa.
Tuần 3
- Tìm hiểu về quy trình, chức năng, nhiệm vụ của từng cán bộ

và của Phòng trong phạm vi hoạt động của mình.
- Tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh dịch vụ karaoke.
- Tổng hợp các báo cáo về công tác kiểm tra, xử lý vi phạm
hành chính về văn hóa – xã hội.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 2
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
Tuần 4, 5
và 6
- Thu thập, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, trao đổi xin ý kiến cán

bộ hướng dẫn thực tập về công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh karaoke.
- Tham gia thực hiện các công việc theo sự phân công của cơ
quan thực tập; cùng với cán bộ Phòng Văn hóa và Thông tin
tham gia thực hiện một số công việc trọng tâm như: Tổ chức
buổi nói chuyện chuyên đề “Văn hóa giao tiếp, ứng xử trong
đời sống gia đình và cộng đồng, xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở”; tổ chức lễ phát động ra quân tổng vệ sinh thực hiện
nếp sống văn minh đô thị và tuyên truyền không hút thuốc lá
nơi công cộng; cùng cán bộ Phòng khảo sát thực tế tình hình
thực hiện nếp sống văn minh đô thị trên địa bàn Quận.
- Tham gia tổ chức Lễ giỗ tổ Hùng Vương ngày 23/4/2010 và

Lễ kỷ niệm 35 năm giải phóng miền nam thống nhất đất nước
(30/4/2010)
- Tham gia khảo sát thực tế, tổng hợp thông tin về lưu trú du
lịch và lữ hành trên địa bàn Quận 1.
Tuần 7, 8
và 9
- Tham gia công tác cùng đoàn kiểm tra liên ngành văn hóa –
xã hội.
- Tổng hợp tài liệu, tham khảo ý kiến của cơ quan thực tập, viết
báo cáo thực tập.
- Hoàn chỉnh báo cáo thực tập.
- Trình lãnh đạo phòng nhận xét về quá trình thực tập.

- Nộp báo cáo thực tập.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 3
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
P HẦN HAI
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP
1. Giới thiệu tổng quan về Quận 1:
Quận 1 có diện tích: 7,7211 km
2
, dân số: 204.899 người, bao gồm 10
phường.

1.1. Vị trí địa lý:
Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bắc giáp Quận Bình Thạnh, Quận Phú Nhuận, lấy rạch Thị Nghè làm ranh
giới và giáp Quận 3, lấy đường Hai Bà Trưng và đường Nguyễn Thị Minh Khai
làm ranh giới.
- Đông giáp Quận 2, lấy sông Sài Gòn làm ranh giới.
- Tây giáp Quận 5, lấy đường Nguyễn Văn Cừ làm ranh giới.
- Nam giáp Quận 4, lấy rạch Bến Nghé làm ranh giới.
1.2. Tình hình kinh tế:
Kinh tế Quận 1 trong thời gian qua tiếp tục tăng trưởng bền vững, tính đến
tháng 8/2009, ước tổng thu ngân sách Nhà nước là 1.576 tỷ đồng, đạt 89,44%
(tăng 59,32% so với cùng kỳ năm trước), trong đó thu thuế công thương nghiệp

ngoài quốc doanh là 1.121 tỷ đồng, đạt 71,15%.
Ước tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2009 là 1.182 tỷ đồng,
đạt 71,5%, trong đó thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh là
890 tỷ đồng, đạt 63,5% dự toán pháp lệnh, thu thuế thu nhập cá nhân là 85 tỷ
đồng, đạt 140% dự toán pháp lệnh, nợ đọng đạt ở mức thấp nhất 1,57%.
1.3. Về cơ sở hạ tầng:
Quận 1 có 128 cơ quan ban ngành Thành phố, Trung ương trú đóng, đặc
biệt là một số cơ quan quan trọng như: Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính
phủ, Ủy ban Nhân dân Thành phố, Sở Công an, Sở Ngoại vụ,...các cơ quan báo
đài của Đảng, Đoàn thể thuộc Thành phố, Trung ương.
Quận 1 là nơi trú đóng của 28 cơ quan là lãnh sự quán hoặc đại diện của các
nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đặc biệt là lãnh sự quán các nước Mỹ,

Anh, Pháp, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada...hoạt động của các ngân hàng,
các công ty bảo hiểm, công ty tài chính: công ty dịch vụ chứng khoán, Trung tâm
giao dịch chứng khoán... với lượng khách hàng chiếm gần 90% của Thành phố.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 4
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
1.4. Dân số, diện tích:
Dân số: 204.899 người
- Mật độ: 26.182 người/km
2
, đứng hàng thứ 4 về mật độ dân số so với các

Quận, Huyện trong Thành phố.
- Trong đó người Kinh chiếm 89,3%, người Hoa chiếm 10,2%, các dân tộc
khác chiếm 0,5%.
Diện tích: 7,7211 km
2

- Chiếm 0,35% diện tích thành phố.
- Đứng hàng thứ năm về diện tích trong số 12 Quận nội thành.
- Diện tích sông rạch chiếm 8,1%.
- Diện tích xây dựng chiếm 57,27% diện tích Quận và thuộc loại hàng đầu
so với các Quận, Huyện khác.
2. Tổ chức - hoạt động của Phòng Văn hóa và Thông tin Quận 1:

2.1. Vị trí và chức năng:
Phòng Văn hóa và Thông tin Quận 1 là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
Nhân dân Quận 1.
Phòng Văn hóa và Thông tin Quận 1 có tư cách pháp nhân, có con dấu và
tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy
ban Nhân dân Quận 1; đồng thời chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra về
chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Thông tin và
Truyền thông.
Phòng Văn hóa và Thông tin có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban Nhân
dân thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình, thể dục, du
lịch, báo chí, xuất bản, bưu chính và chuyển phát, viễn thông và internet, công
nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng thông tin, phát thanh và các dịch vụ công thuộc

chức năng, nhiệm vụ được giao trên địa bàn Quận; thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban Nhân dân Quận và theo quy định pháp
luật.
2.2. Cơ cấu tổ chức:
Phòng Văn hóa và Thông tin tổ chức và hoạt động theo chế độ Thủ trưởng,
do Trưởng phòng phụ trách chung, giúp việc cho Trưởng phòng là các Phó
Trưởng phòng và các chuyên viên, cán sự nghiệp vụ.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 5
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
Hiện nay, cán bộ lãnh đạo của Phòng Văn hóa và Thông tin Quận 1 gồm:

01 Trưởng phòng và 02 Phó Trưởng phòng và 12 cán bộ, công chức.
Cơ cấu tổ chức nhân sự của Phòng gồm một số chuyên viên, cán sự
được phân công theo dõi, thực hiện các mặt sau:
Chuyên viên hoàn thiện hồ sơ xử lý vi phạm hành chính do Đoàn kiểm tra
liên ngành Văn hóa – Xã hội quận thực hiện.
Chuyên viên tiếp nhận, đề xuất xử lý các hồ sơ vi phạm hành chính do
Đoàn kiểm tra liên ngành Văn hóa – Xã hội lập, các hồ sơ vi phạm hành chính
trong lĩnh vực văn hóa, thông tin của 10 phường, các ngành trong Quận chuyển
giao.
Chuyên viên tham mưu soạn thảo và theo dõi quyết định xử phạt vi phạm
hành chính.
Chuyên viên nghiệp vụ hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thông tin.

Chuyên viên nghiệp vụ công tác xây dựng đơn vị văn hóa.
Chuyên viên nghiệp vụ bưu chính, viễn thông và internet; công nghệ thông
tin, hạ tầng thông tin; phát thanh, báo chí, xuất bản, thông tin quản lý.
Chuyên viên nghiệp vụ xây dựng nếp sống văn minh đô thị và tổng hợp.
Chuyên viên nghiệp vụ công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
Chuyên viên nghiệp vụ công tác xây dựng gia đình, thực hiện công tác
tuyên truyền và quản lý hoạt động thể dục, thể thao.
Chuyên viên nghiệp vụ công tác quản lý du lịch, lữ hành.
Lái xe đưa đón Đoàn kiểm tra liên ngành văn hóa – xã hội quận, Đoàn kiểm
tra hậu kiểm phòng kinh tế thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
2.3. Chế độ làm việc:
Trưởng phòng phụ trách, điều hành tất cả các hoạt động của phòng và phụ

trách những công việc trọng tâm. Các Phó Trưởng phòng trực tiếp giải quyết các
công việc thuộc lĩnh vực công tác được Trưởng phòng phân công.
Trong quá trình giải quyết công việc liên quan đến nhiều lĩnh vực các Phó
Trưởng phòng chủ động bàn bạc thống nhất hướng giải quyết, chỉ trình Trưởng
phòng quyết định những vấn đề chưa có sự nhất trí hoặc những vấn đề mới phát
sinh mà chưa có chủ trương, kế hoạch và biện pháp giải quyết.
Trong trường hợp Trưởng phòng yêu cầu các cán bộ, chuyên viên giải
quyết công việc thuộc phạm vi của Phó Trưởng phòng thì cán bộ, chuyên viên
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 6
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng

thực hiện yêu cầu Trưởng phòng, đồng thời phải báo cáo cho phó Trưởng phòng
phụ trách trực tiếp biết.
2.4. Quan hệ công tác:
2.4.1. Đối với Ủy ban Nhân dân Quận 1:
Phòng Văn hóa và Thông tin chịu sự lãnh đạo, điều hành trực tiếp và toàn
diện từ Ủy ban Nhân dân Quận, liên hệ trực tiếp với Phó Chủ tịch phụ trách khối,
thường xuyên có thông tin, báo cáo, phản hồi với Ủy ban Nhân dân Quận trong
quá trình công tác.
2.4.2. Đối với Sở, ngành Thành phố:
Phòng Văn hóa và Thông tin chịu sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ
của Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông, có nhiệm vụ
thực hiện báo cáo chuyên ngành theo thời hạn quy định.

2.4.3. Đối với Trung tâm Văn hóa, Trung tâm thể dục – Thể thao:
Phòng Văn hóa và Thông tin thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với
các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và có trách nhiêm tham mưu cho Ủy ban
Nhân dân Quận về định hướng và kế hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa, thể dục
thể thao trên địa bàn Quận.
2.4.4. Đối với các Phòng ban, đơn vị thuộc Ủy ban Nhân dân Quận 1:
Thực hiện mối quan hệ phối hợp, hợp tác bình đẳng trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ được phân công.
Phòng Văn hóa và Thông tin có trách nhiệm triển khai, hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện các lĩnh vực do mình phụ trách.
Khi phối hợp với các đơn vị thực hiện nếu là thường trực phải có văn bản
tham mưu Ủy ban Nhân dân Quận ban hành các kế hoạch, công văn, thông báo về

nội dung công việc.
2.4.5. Đối với Ủy ban Nhân dân 10 Phường:
Phòng Văn hóa và Thông tin có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ Ủy ban
Nhân dân 10 phường qua việc cung cấp các văn bản quy định, tổ chức các lớp tập
huấn nghiệp vụ và quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình.
Khi có sự triệu tập của Ủy ban Nhân dân Quận tham gia các đoàn kiểm tra
đánh giá kết quả hoạt động của từng phường thì phòng sẽ có ý kiến đóng góp
trong những lĩnh vực mình phụ trách trên tinh thần hướng dẫn nghiệp vụ, góp ý
những thiếu sót.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 7
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn

Thắng
PHẦN BA
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Lý do chọn đề tài
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) đã
khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.

Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, việc coi trọng chính sách đầu tư
văn hóa, đầu tư cho con người; khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham
gia sáng tạo văn hóa, hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn là thể hiện vai trò
của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Từ khi có

Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997, Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999
của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa,
giáo dục, y tế, thể dục thể thao đã mở đường cho cơ hội phát huy nguồn nội lực
trong nhân dân cùng tham gia phát triển văn hóa theo mô hình xã hội hóa.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa đó, Thành phố Hồ Chí Minh đã có bước
phát triển rõ rệt của khu vực ngoài công lập; bước đầu huy động được tiềm năng
và nguồn lực xã hội; mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình, tăng cường cơ
sở vật chất, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Nghị định 73/1999/NĐ-CP ra
đời đã tạo ra hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh với nhiều ưu đãi ở mức cao, nên
đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Riêng tại địa bàn Quận
1 đã nhanh chóng phát triển nhiều mô hình hoạt động văn hóa như: Các câu lạc
bộ, đội nhóm văn hóa văn nghệ... do tư nhân bỏ vốn đầu tư; hoạt động vũ trường;

cửa hàng kinh doanh băng đĩa hình, nhạc; tụ điểm hát cho nhau nghe; sân khấu ca
nhạc ngoài trời; tụ điểm vui chơi giải trí dành cho thiếu nhi; chiếu phim; siêu thị
sách... Đặc biệt, loại hình kinh doanh karaoke phát triển khá mạnh do các chủ
doanh nghiệp, chủ cơ sở đầu tư ở mức độ vừa và nhỏ; đã góp phần làm phong
phú, đa dạng hơn hoạt động văn hóa; thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng
đến tham gia sinh hoạt vui chơi trong thời gian rỗi.
Những năm đầu triển khai, một mặt đã phát huy được tính tích cực, góp
phần không nhỏ cùng các thiết chế văn hóa của Nhà nước (Nhà văn hóa, câu lạc
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 8
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng

bộ, thư viện, bảo tàng…) nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân
dân, được sự đồng tình của xã hội; khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước
là đúng đắn. Mặt khác, những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập, một bộ
phận các chủ cơ sở karaoke vì “hám lợi” đã cạnh tranh không lành mạnh, đưa
“chiêu bài” sử dụng tiếp viên nữ với nhiều phương thức “câu khách” làm cho
hoạt động karaoke biến dạng một cách rõ nét. Các ngành nghề dịch vụ thương
mại nhạy cảm khác như: nhà hàng, quán ăn, cà phê, quán bar (rượu, bia)…len lỏi,
hoạt động song hành với karaoke; từ đó đã xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, làm ảnh
hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và thuần phong mỹ tục của dân tộc
Việt Nam, gây nhiều dư luận xã hội và báo chí đã lên tiếng cảnh báo; làm đau đầu
các cơ quan quản lý trên lĩnh vực hoạt động này.
Là một sinh viên thực tập trong ngành văn hóa và trước “báo động” thực

trạng hoạt động karaoke luôn diễn biến phức tạp. Tôi quyết định chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ
karaoke trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài báo cáo
thực tập tốt nghiệp. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình đưa karaoke trở
về với mô hình văn hóa lành mạnh, ứng dụng thiết thực vào cuộc sống; kiến nghị
một số giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong
hoạt động kinh doanh karaoke; góp phần cùng Quận 1 nói riêng và Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng thúc đẩy kinh tế - xã hội cả nước phát triển.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 9
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng

C HƯƠNG I :
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VÀ DỊCH VỤ KARAOKE
1.1. Quản lý hoạt động văn hóa - Sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần.
1.1.1. Sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần.
Văn hóa là vật phẩm tinh thần, không thể coi như sản phẩm vật chất. Ở đây
không có sự phân chia quyền lợi văn hóa giữa nhà nước và công dân, không có đa
dạng hóa hình thức sở hữu các giá trị văn hóa. Trong lĩnh vực văn hóa, giá trị sử
dụng của vật phẩm không phải là thuộc tính tự nhiên, nội dung vật chất của vật
phẩm ấy, mà chính là thuộc tính xã hội, nội dung giá trị văn hóa tinh thần của nó.
Đây là một khác biệt có tính nguyên tắc khi nói đến hàng hóa văn hóa. Giá trị sử
dụng của một tác phẩm văn hóa không phải là thuộc tính vật chất tự nhiên của nó,

mà là nội dung giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa. Nội dung này ở những thời điểm
lịch sử, với từng địa phương, từng nhóm công chúng khác nhau có sự khác nhau
về mặt công dụng của nó, nghĩa là về tác động tư tưởng thẩm mỹ.
Một điểm nữa là giá trị sử dụng của một vật phẩm vật chất có thể là đối
tượng chiếm hữu và sử dụng của một cá nhân, có thể hao phí hoàn toàn trong quá
trình sử dụng; còn giá trị sử dụng của một tác phẩm văn hóa luôn luôn là tài sản
chung của toàn xã hội, cho dù bản thân tác phẩm ấy thuộc quyền sở hữu của nhà
nước hay tư nhân. Chính vì vậy trong văn hóa, giá trị sử dụng của hàng hóa văn
hóa phải là mối quan tâm hàng đầu. Buông lỏng quản lý, xu hướng thương mại
hóa, sự lan tràn sản phẩm độc hại trên thị trường... chính là xem nhẹ hoặc hy sinh
giá trị sử dụng để chạy theo giá trị trao đổi hàng hóa tinh thần (bài hát, bức tranh,
điệu múa…) là để bán, nên mục đích chủ yếu của họ là giá trị chứ không phải giá

trị sử dụng. Nhưng quá trình thực hiện giá trị lại được tiến hành trước quá trình
thực hiện giá trị sử dụng, hoặc quá trình thứ nhất được tiến hành một lần là xong,
còn quá trình thứ hai có hậu quả lâu dài trong đời sống xã hội. Ở đây giá trị sử
dụng không chỉ là đối tượng quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng cụ thể
(người mua vé, mua sách, báo...) mà thực chất là toàn xã hội tiêu dùng. Vì vậy
hàng hóa văn hóa đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ hơn. Đó là một dạng hàng hóa đặc
biệt.
Hai mặt giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa như đã phân tích đòi hỏi phải
tính đến hai hệ nguyên tắc cơ bản của sản xuất hàng hóa văn hóa.
Nguyên tắc kinh tế là sự điều tiết của quy luật giá trị, quy luật cung - cầu,
phải tính đến những đòi hỏi của công chúng với tư cách thị trường tiêu thụ sản
SVTT: Tống Kim Quang

MSSV: KS7D - 79 10
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
phẩm để điều chỉnh việc sản xuất và lưu thông hàng hóa, để kích thích việc cải
tiến công nghệ, cải tiến tổ chức sản xuất, tăng năng xuất lao động, hạ giá thành
(dù là sản phẩm hay dịch vụ) dành ưu thế và mở rộng số nhu cầu hiện thực trong
công chúng.
Nhưng đối tượng của giá trị sử dụng hàng hóa văn hóa đòi hỏi việc sản xuất
tác phẩm văn hóa phải tuân thủ nguyên tắc chính trị, đó là vai trò to lớn về mặt tư
tưởng, tinh thần của sản phẩm văn hóa đối với toàn xã hội, nên nó phải được
kiểm soát chặt chẽ bởi sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước nhằm
đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở nội dung giá trị sử dụng của

tác phẩm văn hóa. Giá trị sử dụng ấy chính là giá trị nhân văn của tác phẩm văn
hóa, nó nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển toàn diện bản thân con
người, tất cả vì con người, cho con người. Muốn vậy hoạt động văn hóa phải là
“một bộ phận khăng khít trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Nói cách khác, định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc sống còn của sản xuất
hàng hóa văn hóa.
Sản phẩm văn hóa tinh thần là hình thái quan niệm về văn hóa nghệ thuật,
tư tưởng, chính trị, pháp luật, tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ, do con người sáng tạo
ra trong thực tiễn; sản phẩm tinh thần tập trung trong nó các giá trị tinh thần có
khả năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, hướng con người tới những
giá trị chân, thiện, mỹ, ích.
Sản phẩm văn hóa tinh thần có thể phân làm hai loại: loại tri thức và loại

văn nghệ.
- Sản phẩm văn hóa tinh thần loại tri thức như: ca dao, tục ngữ, triết học,
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kỹ thuật sản xuất, công nghệ cao...
- Sản phẩm văn hóa tinh thần loại văn nghệ như: dân ca, văn học, kịch, hội
họa, tạo hình âm nhạc, vũ đạo, truyền hình, điện ảnh.
Giống như sản phẩm vật chất, sản phẩm văn hóa tinh thần cũng là kết quả
hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình tác động vào tự nhiên để thay
đổi các hình thái vật chất của tự nhiên, phục vụ nhu cầu vật chất của mình, ở con
người đồng thời xuất hiện những nhu cầu tinh thần và các giá trị tinh thần.
Hàng hóa văn hóa tinh thần là một loại hàng hóa đặc biệt, được tạo nên từ
sự kết hợp của hai yếu tố sản phẩm tinh thần và hàng hóa. Nói cách khác, hàng
hóa và văn hóa tinh thần là những sản phẩm văn hóa tinh thần được đem ra trao

đổi, mua bán.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 11
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
Sản phẩm văn hóa tinh thần có tính chất hàng hóa gồm chủ yếu là loại hình
sản phẩm văn hóa ứng dụng: xuất bản phẩm, báo chí, phim ảnh... Chúng cũng là
sản phẩm của lao động, được sáng tạo nhằm mục đích trao đổi. Những hàng hóa
này đi vào thị trường văn hóa và thực hiện giá trị của mình, được người tiêu dùng
mua để phục vụ nhu cầu tinh thần - một nhu cầu không thể thiếu và ngày càng
chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống hiện đại.
Một sản phẩm văn hóa tinh thần nếu có nội dung lành mạnh, có tính tư

tưởng và nghệ thuật cao sẽ có tác động tích cực đến người tiêu dùng và xã hội.
Nó làm cho con người sống nhân văn hơn, thương yêu nhau hơn; nó khích lệ
người ta vượt qua những khó khăn, gian khổ, đau buồn để vươn tới một cuộc
sống tốt đẹp. Bên cạnh đó, các sản phẩm văn hóa tinh thần còn phê phán những
thói hư, tật xấu của con người, của xã hội để cảnh tỉnh rút ra những bài học phòng
tránh.
Ngược lại, những sản phẩm văn hóa tinh thần được sáng tạo ra theo quan
điểm thẩm mỹ lệch lạc, bị chi phối bởi lợi nhuận là nguyên nhân xuất hiện trên thị
trường những tác phẩm “phản văn hóa”. Loại hàng hóa văn hóa tinh thần kiểu này
nhằm thỏa mản những thị hiếu thẩm mỹ thấp kém, nhu cầu giải trí thiếu lành
mạnh. Những loại hàng hóa văn hóa này sẽ gây ra những tác động tiêu cực dễ dẫn
người ta đến sự buồn chán, xa đọa, nổi loạn.

Do đó để có một thị trường hàng hóa văn hóa tinh thần phong phú lành
mạnh có tính tư tưởng và nghệ thuật cao thì chủ thể sáng tạo, nhà sản xuất phải
dựa vào nhu cầu, lợi ích chính đáng của xã hội, không được vì lợi ích kinh tế của
riêng mình, chạy theo những thị hiếu tầm thường, cá nhân thiểu số mà làm tổn hại
đến môi trường văn hóa chung, lành mạnh của xã hội.
1.1.2. Quản lý hoạt động văn hóa là quản lý hệ thống sản xuất tinh thần.
Điểm xuất phát để nhìn nhận hoạt động văn hóa như một hệ thống tổ chức
sản xuất là tư tưởng của học thuyết Mác-xít về sản xuất vật chất là hai hình thái
cơ bản của hoạt động người.
Sản xuất tinh thần không những tạo ra các giá trị tinh thần được khách quan
mà còn bao hàm cả việc hình thành văn hóa cá nhân, văn hóa cộng đồng và sự
giao tiếp văn hóa. Sản xuất tinh thần cũng có thể phân ra đối tượng lao động, quá

trình lao động và kết quả lao động. Tuy nhiên, ở đây đối tượng lao động có thể là
những quan hệ xã hội và quá trình tư duy nhân loại, còn sản phẩm lao động có thể
tồn tại không tách khỏi hành động sáng tạo của người sản xuất trực tiếp.
Sản xuất tinh thần như một ngành tương đối độc lập trong hoạt động xã hội
đã tạo ra đội ngũ đặc biệt những người làm việc chuyên môn hóa. Tuy nhiên, sự
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 12
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
phát triển mạnh mẽ đời sống tinh thần còn phụ thuộc sự tham gia vào lĩnh vực
này của đông đảo nhân dân lao động. Ở đây có ý nghĩa quan trọng là tư tưởng của
Mác về mối quan hệ giữa sự phát triển lực lượng sản xuất và thời gian tự do, phát

triển tính cách con người thông qua sử dụng thời gian tự do có văn hóa và tác
dụng của nó đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
Với tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thời gian tự do rất cần thiết để phát
triển tự do, để sản xuất các giá trị tinh thần trước hết là sản xuất ra bản thân người
lao động với những thuộc tính văn hóa phong phú.
Xuất phát từ yêu cầu tổ chức quản lý một bộ phận nhất định những hoạt
động người, có thể xem văn hóa như quá trình sản xuất tinh thần và khách thể hóa
chúng như những giá trị tinh thần và giá trị vật chất, những thuộc tính của bản
thân con người với tư cách chủ thể của quá trình hoạt động.
Do bản chất chính trị của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể tiến hành
cả hai phần việc để xây dựng nền văn hóa: tổ chức quản lý văn hóa chuyên
nghiệp và tổ chức quản lý văn hóa quần chúng. Công tác văn hóa có thể phân

thành hai mảng:
1. Tổ chức quản lý văn hóa chuyên nghiệp bao gồm cả sản xuất và lưu
thông phân phối đem văn hóa đến quần chúng.
2. Tổ chức quản lý văn hóa quần chúng, bao gồm cả hoạt động sản xuất,
trao đổi và tiêu dùng các giá trị tinh thần đem quần chúng đến văn hóa.
Ở hệ thống thứ hai nhân dân trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản
phẩm văn hóa. Đây là hệ thống thiết chế sự nghiệp công tác văn hóa quần chúng,
đối tượng xem xét chủ yếu trong khóa luận này.
Quá trình xã hội hóa và phát triển cá nhân, sự hình thành nhân cách văn hóa
bao giờ cũng diễn ra bởi hai chiều tác động liên tục đan xen lẫn nhau, dệt thành
những nhân cách cụ thể. Chiều dọc là sự tác động của văn hóa xã hội của cá nhân
ấy, tức cá nhân tự xác định mình trong môi trường văn hóa. Sự vận động này

thống nhất hai mặt giáo dục văn hóa và thỏa mãn nhu cầu văn hóa toàn diện của
con người. Tính chất phong phú thực sự về tinh thần của cá nhân hoàn toàn tùy
thuộc vào tính chất phong phú các mối quan hệ thực sự của chính cá nhân ấy. Ở
đây con người thể hiện trong sự vận động văn hóa trên ba mối quan hệ chủ yếu:
+ Cá nhân chiếm lĩnh giá trị văn hóa.
+ Cá nhân sáng tạo văn hóa.
+ Cá nhân như đại biểu mang văn hóa, có quan hệ giao lưu trao đổi với
nhau.
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 13
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng

Tổ chức quản lý vận động văn hóa theo chiều ngang này như là một lĩnh
vực sản xuất tinh thần, hệ thống công tác văn hóa quần chúng bao gồm từ bộ máy
quản lý nhà nước các cấp đến mạng lưới các đơn vị sự nghiệp. Bộ máy quản lý là
Bộ văn hóa – thể thao và du lịch ở cấp Trung ương. Sở văn hóa – thể thao và du
lịch Tỉnh, Thành; phòng văn hóa – thể thao và du lịch Quận, Huyện. Chức năng
cơ bản loại hình hoạt động này là quản lý nhà nước về hành chính pháp chế
(đường lối của Đảng, tổ chức, kế hoạch, kinh phí…).
Sản xuất tinh thần cũng được tổ chức thành hoạt động cụ thể do các thiết
chế sự nghiệp như những đơn vị cơ sở tiến hành. Hoạt động văn hóa như một quá
trình sản xuất. Chức năng quản lý chỉ xuất hiện từ yêu cầu tổ chức và điều hành
sản xuất. Các cơ quan quản lý chỉ phát huy tác dụng của mình thông qua những
đơn vị sản xuất nhằm tăng cường hiệu quả kinh tế văn hóa của chúng. Chỉ có bộ

máy quản lý hành chính pháp chế gồm những Bộ, Sở, Phòng, Ban... tức là chưa
có đơn vị sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm. Vì vậy, nếu giáo dục phải có trường
học, y tế phải có bệnh viện... thì văn hóa quần chúng phải có thiết chế sự nghiệp
như: Cung văn hóa, nhà văn hóa, thư viện, bảo tàng... với tư cách là đơn vị sản
xuất, chủ thể trực tiếp của công tác văn hóa quần chúng. Có thể phát thảo lược đồ
hệ thống tổ chức sản xuất văn hóa như sau:
CẤP QUẢN LÝ BỘ MÁY QUẢN LÝ CƠ SỞ SẢN XUẤT
Trung ương Bộ Văn hóa – Thể thao và
Du lịch (cục - vụ - viện)
Cung văn hóa, nhà văn hóa,
bảo tàng, thư viện Trung
ương…

Tỉnh, thành phố Sở Văn hóa – Thể thao và
Du lịch
Nhà văn hóa, triển lãm, thư
viện tỉnh…
Quận, huyện, thị
xã, thành phố
thuộc tỉnh
Phòng Văn hóa – Thể thao
và Du lịch
Nhà văn hóa, trung tâm văn
hóa thông tin, thư viện
huyện…

Xã, phường, thị
trấn
UBND (cán bộ văn xã) Trung tâm VH xã, phường…
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 14
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke.
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực hành chính, thuật ngữ quản lý được hiểu như sau: “Quản lý
là thuật ngữ chỉ hoạt động có ý thức của con người nhằm sắp xếp, tổ chức, chỉ
huy, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra… các quá trình xã hội và hoạt động của con

người để hướng chúng phát triển phù hợp với quy luật xã hội, đạt được mục tiêu
xác định theo ý chí của nhà quản lý với chi phí thấp nhất”.
Thuật ngữ quản lý nhà nước được sử dụng ở Việt Nam với nhiều cách tiếp
cận khác nhau:
Theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà
nước bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các
cấp; các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ, các Bộ, Ủy ban Nhân dân các
cấp; cơ quan kiểm sát: Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, và các Viện Kiểm sát
Nhân dân các cấp.
Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là hoạt động của riêng hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước ( quản lý hành chính nhà nươc): Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các cấp, các Sở, phòng

ban chuyên môn của Ủy ban Nhân dân.
Tuy nhiên có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về quản lý nhà nước như
sau: “Quản lý nhà nước là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại
của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và
phát triển đất nước”.
1.2.2. Hoạt động karaoke một sinh hoạt văn hóa hiện đại.
Karaoke bắt nguồn từ sự kết hợp của chữ KARA có nghĩa là “không” (cũng
như trong môn karate có nghĩa là tay không với chữ OKE (viết tắt của chữ
Okesutora) có nghĩa là dàn nhạc. Karaoke cấu tạo bởi 2 phần: phần nhạc nền
được ghi âm trước được phối đồng bộ (cùng xung) với phần chữ (lời bài hát);
phần xướng dành cho người biểu diễn (hát) trực tiếp cầm micro biểu diễn theo

nhạc và chữ chạy trên màn hình (tivi).
Thông qua cách giải thích trên, nguồn gốc của karaoke có xuất xứ từ Nhật
Bản; khi nói đến nước Nhật không thể không nói đến các quán Bar; chơi đàn
Ghita hoặc chơi đàn Piano truyền thống, vốn là địa bàn giải trí chủ yếu của các
doanh nhân Nhật từ nhiều năm trở về trước. Trong các quán Bar, khán giả được
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 15
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
mời hoặc tình nguyện hát với nhạc đệm của Piano. Từ đó, karaoke bắt đầu hình
thành tại thành phố Kore của nước Nhật vào những năm 1970.
“Hộp” karaoke đầu tiên xuất hiện vào những năm 1984 trên cánh đồng lúa

tại Miền quê Okayama phía Tây Kansai. Nó được làm từ những toa xe chở hành
khách đã được cải tiến lại. Từ đó các hộp karaoke được xây dựng trên những
vùng đất trống khắp nơi trên đất Nhật. Và trong khu thành thị, phòng hát karaoke
được chia làm nhiều ngăn (phòng) và được cách âm phát triển ngày càng nhiều
hơn.
Nền công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với tốc độ đô thị hóa cao đã làm cho
môi trường bị ô nhiễm; không gian nghỉ ngơi ngoài trời bị hạn chế, chính vì vậy
sự phát triển các hoạt động giải trí trong nhà như các quán Bar, vũ trường, phòng
hát karaoke… là cần thiết. Sự vượt trội của Video âm nhạc như một hình thái
kinh doanh của ngành công nghiệp âm nhạc mang phong cách dân gian - hiện đại
là điều kiện tiên phong cho sự phát triển của karaoke.
Karaoke thật sự bùng phát khi công nghệ đĩa Laser và đĩa Compact cho

phép những bài hát thể hiện trên màn hình tivi, trong khi âm nhạc nổi lên và xác
định vị trí của từng bài hát. Vì quyền lợi của các công ty âm nhạc, việc thương
mại hóa kinh doanh karaoke là trung gian tuyệt vời cho sự quảng cáo các bài hát
âm nhạc Pop và các ngôi sao mới.
Karaoke trong tiến trình phát triển đã có sự tiến hóa nhất định. Từ những
ngày đầu ghi trên băng đĩa; karaoke được chuyển sang đĩa CD (Compact disc),
cuối cùng kết hợp với Video, đồ họa nhạc với lời bài hát hiện trên màn hình nhắc
cho những người không nhớ lời nhạc. Một ngành công nghiệp đã được mở ra
xung quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được chuyển dụng để nâng cao
trình diễn. Những dàn máy tại gia đình, các thư viện phần mềm được hoàn thiện,
các micro cho khách và những chiếc hộp có sẵn; chúng đang sẵn sàng “vào cuộc
hát karaoke”. Các phòng thu đã mở cửa cho khách khi có yêu cầu đến để thu âm

giọng hát của mình; đồng thời các cuộc thi hát karaoke được tổ chức ở nhiều nơi.
Karaoke ngày càng được biết đến không chỉ ở Nhật mà còn lan rộng ở nhiều quốc
gia khác như: Mỹ, Nga, Trung Quốc... tất cả các quốc gia đã tiếp thu nó như một
giá trị văn hóa và đưa vào hoạt động trong cuộc sống hàng ngày, được xem là
món ăn tinh thần của từng dân tộc. Việt Nam cũng đã sớm tiếp thu giá trị văn hóa
này, đến nay phát triển trên phạm vi toàn quốc.
Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa văn hóa nhân loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và
SVTT: Tống Kim Quang
MSSV: KS7D - 79 16
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn

Thắng
quốc tế. Chính vì thế, karaoke được tiếp nhận, ứng dụng trong đời sống và được
xem như món ăn tinh thần của người Việt. Năm 1980 karaoke được du nhập vào
Việt Nam; con đường du nhập karaoke vào Việt Nam đang có nhiều tranh cãi
giữa các nhà nghiên cứu. Có nhiều người cho rằng, những thương nhân người
Nhật khi vào Việt Nam làm việc, trong thời gian thư rỗi họ đã hát karaoke; sau đó
người Việt chúng ta đã học hỏi và karaoke được xuất hiện ở Việt Nam. Nhưng có
một số ý kiến khác lại cho rằng không phải karaoke được truyền từ người Nhật
mà từ khách du lịch trên thế giới, họ đến Việt Nam để tham quan, du lịch và
chính họ đã tổ chức hoạt động này nhằm để giải trí trong nhà, nhất là ban đêm.
Còn nhiều ý kiến khác nữa về karaoke, nhưng một điều mà chúng ta phải công
nhận, đó chính là sự học hỏi và tiếp thu văn hóa của nhân loại và ứng dụng vào

cuộc sống; điều đó “khẳng định karaoke là một sinh hoạt văn hóa hiện đại”.
1.2.3. Các văn bản pháp quy của Nhà nước về quản lý hoạt động kinh
doanh dịch vụ karaoke.
Song song với sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa có
chiều hướng “đi chệch”; tình hình quản lý các hoạt động văn hóa có biểu hiện
buông lỏng, thiếu kiên quyết. Hệ thống các văn bản pháp quy của nhà nước về
quản hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa nói chung, karaoke nói riêng ra đời
nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trên lĩnh vực hoạt động này như:
- Chỉ thị 814/TTg ngày 12/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng
cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một
số tệ nạn xã hội nghiêm trọng;
- Nghị định số: 87/CP ngày 12/12/1995 của Chính phủ về tăng cường quản

lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã
hội nghiêm trọng;
- Nghị định số 88/CP ngày 14/12/1995 của Chính phủ quy định về xử phạt
hành chính trong các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa và phòng chống tệ nạn
xã hội;
- Quy chế lưu hành, kinh doanh phim, băng đĩa hình, băng đĩa nhạc, bán
cho thuê xuất bản phẩm; hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa nơi công cộng;
quảng cáo, viết đặt biển hiệu (Ban hành kèm theo Nghị định số: 87/CP ngày
12/12/1995 của Chính phủ);
- Quy định những biện pháp cấp bách bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm
trọng (Ban hành kèm theo Nghị định số: 87/CP ngày 12/12/1995 của Chính phủ)
SVTT: Tống Kim Quang

MSSV: KS7D - 79 17
Báo cáo thực tập GVHD: Ths. Nguyễn Văn
Thắng
- Thông tư số 05/TT-PC ngày 08/01/1996 của Bộ văn hóa thông tin về
hướng dẫn thực hiện quy chế “Lưu hành, kinh doanh phim, băng đĩa hình, băng
đĩa nhạc, bán cho thuê xuất bản phẩm, hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa nơi
công cộng; quảng cáo, viết đặt biển hiệu (Ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP
ngày 12/12/1995 của Chính phủ);
- Quyết định số 817/TT-PC ngày 8/5/2000 của Bộ trưởng Bộ văn hóa thông
tin về việc tổ chức kiểm tra các hoạt động dịch vụ văn hóa và kinh doanh văn hóa
phẩm;
- Chỉ thị số 09/2000/CT-TTg ngày 20/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ về

việc tiến hành kiểm tra hoạt động dịch vụ văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa;
- Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6/2001 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa;
- Thông tư số 35/2002/TT-BVHTT ngày 20/12/2002 hướng dẫn bổ sung
một số quy định về hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa nơi công cộng tại quy
chế ban hành kèm theo nghị định 87/CP ngày 12/12/1995 của chính phủ;
- Chỉ thị 17/2005/CT-TTg ngày 25/5/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc
chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng, karaoke, vũ trường
(bãi bỏ Chỉ thị 814/TTg);
- Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18/01/2006 của Chính phủ về việc ban
hành quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng (bãi
bỏ nghị định 87/CP);

- Nghị định số 56/2006/NĐ-CP, ngày 06/6 /2006 của Thủ tướng Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá - thông tin. (bãi bỏ nghị
định 31/CP);
- Thông tư 54/2006/TT-BVHTT ngày 24/5/2006 hướng dẫn quy hoạch nhà
hàng karaoke, vũ trường;
- Thông tư 69/2006/TT-BVHTT ngày 28/8/2006 của Bộ Văn hóa thông tin,
hướng dẫn thực hiện một số quy định về kinh doanh vũ trường, karaoke, trò chơi
điện tử quy định tại Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa
công cộng ban hành kèm theo Nghị định 11/2006/NĐCP.
- Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2006 của Chính phủ về đẩy mạnh
xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao.
SVTT: Tống Kim Quang

MSSV: KS7D - 79 18

×