Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.26 KB, 114 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt nam là quốc gia thuộc nhóm các nước đang phát triển, trong quá
trình hội nhập quốc tế. Nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng
cũng đứng trước những thời cơ và thách thức. Cũng như các quốc gia trên Thế
giới, trong quá trình thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế, lĩnh vực tài chính
ngân hàng thường đi trước một bước vì thế mà những hạn chế của lĩnh vực
này cũng bộc lộ sớm nhất. Việt nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Hơn
nữa, điểm yếu nhất của hệ thống ngân hàng Việt nam là quy mô vốn nhỏ,
năng lực và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trong khi hội nhập kinh tế quốc
tế đòi hỏi phải đối mặt với những cạnh tranh khốc liệt, thị trường mở rộng ra
phạm vi toàn cầu. Đứng trước thách thức trên Chính phủ đã tăng cường các
biện pháp phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng, một trong những biện
pháp đó là Chính sách về Bảo hiểm tiền gửi. Hầu hết các nền kinh tế trên Thế
giới, đặc biệt là những nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, Canada, Đức…và
một số nền kinh tế điển hình của Châu á như Đài Loan, Nhật Bản, Trung
Quốc… đều xây dựng cho mình một tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hoạt động có
hiệu quả. Việt nam thời gian qua, chính sách Bảo hiểm tiền gửi đã bộc lộ một
số tồn tại, hạn chế như về cơ sở pháp lý điều chỉnh; sức ỳ, độ nhờn trong các
công cụ của chính sách, tính hiệu quả của các công cụ…
Nếu các vấn đề trên không được khắc phục, chỉnh sửa, bổ sung kịp
thời, chính sách Bảo hiểm tiền gửi không thể tiếp tục đi vào cuộc sống, khi đó
sẽ thành lực cản đối với nền kinh tế và đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy vấn đề đặt ra cho
hướng lựa chọn đề tài là nghiên cứu chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một
1
số nước và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt
nam.
Khóa luận vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… dựa trên các tài liệu thu thập
được để một mặt phân tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi của Việt


nam, mặt khác cũng tìm hiểu một số vấn đề trong quá trình hoạt động của các
tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Đài Loan. Đây là hai tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi tiêu biểu trên Thế giới và của khu vực Châu á mà có nhiều kinh
nghiệm để Việt nam có thể học hỏi, áp dụng vào quá trình hoàn thiện chính
sách Bảo hiểm tiền gửi của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận bao gồm ba chương cơ bản:
Chương 1: Tổng quan về Bảo hiểm tiền gửi
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam và một
số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn ThS. Hồ Hồng Hải và
các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã nhiệt tình giúp
đỡ em hoàn thành bài khóa luận này.

2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. Sự ra đời, khái niệm, đặc điểm bảo hiểm tiền gửi
1.1. Sự ra đời
Vào những năm cuối thế kỷ 20, sự không ổn định của hệ thống ngân
hàng đã nổi lên như một vấn đề khó khăn đối với các quốc gia, đặc biệt là ở
các quốc gia đang phát triển và phát triển. Để đối phó với tình trạng này,
Chính phủ nhiều quốc gia đã thực hiện những biện pháp để đưa hệ thống ngân
hàng trở lại trạng thái hoạt động lành mạnh, phát triển ổn định. Một trong
những biện pháp đó là Luật Bảo hiểm tiền gửi hay còn gọi là Chính sách Bảo
hiểm tiền gửi của Quốc gia.
1.2.Khái niệm Bảo hiểm tiền gửi
“ Thị trường đối phó với rủi ro bằng cách phân tán rủi ro. Đó là quá
trình mang rủi ro vốn rất lớn đối với một người rồi phân tán nó cho nhiều

người sao cho nó chỉ còn là rủi ro nhỏ đối với số đông. Hình thức phân tán rủi
ro chính là bảo hiểm” (Fredic S.Mishkin (2001)- Tiền tệ, ngân hàng và thị
trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, tái bản lần thứ
3).
John Black định nghĩa bảo hiểm tiền gửi trong từ điển kinh tế Oxford
phát hành năm 1997, New York như sau: “ Bảo hiểm tiền gửi là dịch vụ bảo
hiểm rủi ro các ngân hàng hoặc các trung gian tài chính bị phá sản cho người
có tiền gửi tại các ngân hàng hoặc trung gian tài chính đó”. Định nghĩa này đã
phản ánh tương đối rõ ràng nội dung của bảo hiểm tiền gửi. Thực tế bảo hiểm
tiền gửi là bảo hiểm trách nhiệm dân sự của tổ chức huy động tiền gửi đối với
3
người gửi tiền.
Rủi ro trong bảo hiểm tiền gửi là trường hợp các ngân hàng hoặc tổ
chức huy động tiền gửi khác bị phá sản. Thông thường trong các trường hợp
như vậy mức đền bù cho người có tiền gửi tại tổ chức bị phá sản phụ thuộc
vào giá trị tài sản còn lại và người gửi tiền có thể mất trắng số tiền gửi của
mình. Tuy nhiên khi tồn tại cơ chế bảo hiểm tiền gửi thì tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi sẽ thực hiện cam kết bảo hiểm đó là thanh toán một phần hoặc toàn
bộ số tiền gốc và lãi của các khoản tiền gửi cho người gửi tiền. Người hưởng
lợi từ dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là những người có tiền gửi tại các ngân hàng
và tổ chức huy động tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
Theo tài liệu “Xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả” của
Diễn đàn ổn định tài chính (Financial Stability Forum) tháng 9 năm 2001,
“Bảo hiểm tiền gửi được hiểu là một sự đảm bảo rằng số dư gốc và lãi cộng
dồn của các tài khoản tiền gửi nhất định sẽ được thanh toán đến một giới hạn
nhất định”. Định nghĩa này của Diễn đàn ổn định tài chính có thể được hiểu
rằng có một giới hạn nhất định trong việc chi trả tiền bồi thường và chỉ những
khoản tiền gửi nhất định mới được bảo hiểm. Điều này cho thấy sự khác biệt
cơ bản giữa bảo hiểm tiền gửi và cơ chế bảo lãnh trọn gói. Trong cơ chế bảo
lãnh trọn gói, khi tổ chức huy động tiền gửi bị phá sản, Chính phủ đứng ra

thanh toán toàn bộ số tiền gửi cho người nhận tiền gửi.
Để hiểu rõ thêm, chúng ta có thể tham khảo quy chế bảo hiểm của
Công ty bảo hiểm tiền gửi Canada, trong đó quy định: “Bảo hiểm tiền gửi bảo
vệ những khoản tiền gửi quy định tại các tổ chức thành viên của hệ thống bảo
hiểm tiền gửi trong trường hợp tổ chức thành viên bị phá sản. Nếu một tổ
chức thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bồi thường
4
cho những người gửi tiền tại tổ chức đó.”
Như vậy có thể hiểu rằng: Bảo hiểm tiền gửi là việc Nhà nước đưa ra
lời đảm bảo tới một giới hạn đối với tiền gửi nhất định nhằm bảo vệ tiền gửi
thông qua các quy định về bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền hay tiền
gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức nhận tiền gửi.
1.3. Đặc diểm của Bảo hiểm tiền gửi
Nói chung bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các nước đều có chung một số
đặc điểm như sau:
- Chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi. Nhiều quốc gia loại trừ không bảo
hiểm các khoản tiền đầu tư, tiền gửi liên ngân hàng và các khoản tiền gửi của
ban lãnh đạo, các cổ đông lớn của tổ chức huy động tiền gửi. Lý do loại trừ đó
là các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh ngân hàng là những người nắm vững
quy luật thị trường, do vậy trước khi đầu tư họ đã cân nhắc mức độ rủi ro, ban
lãnh đạo và các cổ đông lớn của các tổ chức huy động tiền gửi là những người
nắm vững và chịu trách nhiệm về tình hình tài chính của tổ chức này, do vậy
họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình mà không phải dựa vào bảo hiểm tiền
gửi.
- Người mua bảo hiểm là các ngân hàng, các tổ chức huy động tiền gửi
khác. Người hưởng lợi từ bảo hiểm tiền gửi là những người gửi tiền tại tổ
chức được bảo hiểm
Người gửi tiền không phải làm thủ tục đăng kí mua bảo hiểm tiền gửi.
Bằng việc tham gia hệ thống Bảo hiểm tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi, tất
cả các khoản tiền gửi trong giới hạn và phạm vi bảo hiểm tại tổ chức tham gia

bảo hiểm tiền gửi đều tự động được bảo hiểm.
- Bảo hiểm tiền gửi là loại dịch vụ (hàng hoá) mang tính xã hội cao,
5
xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp
phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng
dịch vụ là toàn xã hội. Theo cách phân loại của nhà kinh tế học Stiglitz, bảo
hiểm tiền gửi là hàng hoá công cộng (hàng hoá công) không thuần tuý.
Xuất phát từ mục đích của chính sách bảo hiểm tiền gửi mà dịch vụ
Bảo hiểm tiền gửi được coi là hàng hoá công. Tính chất công cộng của dịch
vụ Bảo hiểm tiền gửi là ở chỗ Bảo hiểm tiền gửi đáp ứng nhu cầu chung của
toàn xã hội, tức là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và bảo đảm sự phát triển
an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Ai cũng có quyền bình đẳng được
tiếp cận đến loại hàng hoá dịch vụ này, và việc người này sử dụng không ảnh
hưởng nhiều đến người khác sử dụng chúng.
Dù muốn hay không, ta cũng không thể loại trừ sự thụ hưởng dịch vụ
Bảo hiểm tiền gửi một cách tuyệt đối. Mặc dù người hưởng lợi trực tiếp từ
Bảo hiểm tiền gửi là người gửi tiền và các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
thì những đối tác khác vẫn được hưởng lợi một cách gián tiếp.
Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm được hưởng
lợi trực tiếp khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khi có rủi ro ngân hàng, tổ chức
nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, bị đóng cửa, người gửi tiền sẽ được tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền bảo hiểm. Đây chính là số tiền mà tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi cam kết với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi khi
thực hiện bảo hiểm.
Các tổ chức huy động tiền gửi cũng được hưởng lợi. Hơn ai hết, người
sản xuất thường biết rõ hơn người tiêu dùng về sản phẩm mà họ bán. Các chủ
ngân hàng và giám đốc ngân hàng biết rõ về tình hình tài chính của họ hơn là
6
khách hàng. Do thiếu khả năng tiếp cận thông tin nên trong điều kiện vốn

nhàn rỗi có hạn, khách hàng đắn đo khi quyết định đem tiền gửi vào tổ chức
huy động tiền gửi hay lựa chọn một kênh đầu tư sinh lời khác và cũng đắn đo
khi quyết định lựa chọn ngân hàng để gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm,
khách hàng an tâm hơn khi lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi. Các tổ chức huy
động tiền gửi, nhờ vậy sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng và huy động
được nhiều tiền gửi hơn.
Trên thực tế khi ngân hàng được bảo hiểm đã góp phần làm cho kinh tế
ít biến động, ổn định hơn, rủi ro sẽ giảm bớt đối với các doanh nghiệp. Mặt
khác các đối tượng vay tiền sẽ sử dụng tiền vay an toàn và hiệu quả hơn, các
dự án đầu tư cũng hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho phát triển các ngành nghề
kinh tế khác. Xã hội bình ổn, các ngành nghề kinh tế phát triển, tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp,…đời sống nhân dân được
nâng cao.
Như vậy trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta đều dược hưởng lợi từ Bảo
hiểm tiền gửi, và thật sự là không thể loại trừ sự thụ hưởng một cách tuyệt đối
một cá nhân, hoặc một tổ chức trong xã hội, hoặc việc loại trừ này rất khó
khăn và tốn kém. Chính vì đặc tính này mà Bảo hiểm tiền gửi được xếp vào
loại hàng hoá công không thuần tuý.
- Bằng chứng của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi là giấy chứng nhận Bảo
hiểm tiền gửi do tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cấp cho tổ chức tham gia Bảo
hiểm tiền gửi.
- Tất cả các tổ chức bảo hiểm đều quy định phạm vi và giới hạn bảo
hiểm một cách áp đặt. Người gửi tiền không thể mua thêm bảo hiểm cho các
khoản tiền gửi của mình để được các tổ chức bảo hiểm chi trả nhiều hơn giới
7
hạn bảo hiểm. Các khoản tiền gửi ngoài giới hạn bảo hiểm sẽ không được các
tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán mà được xử lý như các món nợ khác của
tổ chức tài chính bị phá sản. Giới hạn bảo hiểm này bao gồm cả tiền gửi gốc
và lãi cộng dồn từ ngày gửi tiền đến thời điểm tổ chức tham gia bảo hiểm bị
phá sản. Tuy nhiên các khoản tiền gửi có tính chất khác nhau có thể được bảo

hiểm khác nhau.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có quyền chủ nợ thế quyền đối với các
khoản tiền gửi được bảo hiểm đã chi trả. Nói chung tất cả các quốc gia đều
không chi trả cho các khoản tiền gửi được chi trả ở nước ngoài do không kiểm
soát được mức độ rủi ro cho các khoản tiền gửi đó.
2. Mục tiêu, đối tượng của chính sách Bảo hiểm tiền gửi
2.1. Mục tiêu
Chính sách Bảo hiểm ở mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau: phi lợi
nhuận hay vì lợi nhuận. Nhưng dù là có mục tiêu nào thì cũng hướng tới một
số nội dung cơ bản như sau:
- Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền: thể hiện ở việc hạn chế rủi ro đến
mức thấp nhất và có một cơ chế bồi thường nhanh chóng.
- Bảo vệ các trung gian thanh toán có hoạt động ngân hàng: phòng
ngừa nguy cơ đổ vỡ, hiệu ứng dây chuyền.
- Bảo vệ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, góp phần làm minh bạch thị
trường tiền tệ, đảm bảo an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Chính sách Bảo hiểm tiền gửi có vai trò vị trí quan trọng trong hệ
thống chính sách của Nhà nước, nó biểu hiện không chỉ trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ mà cả trong lĩnh vực đảm bảo an ninh chính trị và xã hội, nhất là
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khi có một ngân hàng bị đổ vỡ sẽ
8
dẫn đến sự mất lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt
khi có khủng hoảng ngân hàng, người gửi tiền sẽ đổ xô cùng lúc để rút tiền
gốc bỏ qua cả lãi. Và có thể sẽ ảnh hưởng đến chính trị an ninh xã hội. Ví dụ:
khủng hoảng ngân hàng tại Anbani năm 1987 làm sụp đổ hệ thống quỹ tiết
kiệm, dẫn đến nội chiến gây sụp đổ chính phủ và hệ thống chính trị.
2.2. Đối tượng
Bao gồm: tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (gọi tắt là tổ chức tham
gia), tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền, loại tiền gửi được bảo hiểm
2.2.1.Tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi

Là các ngân hàng, trung gian tài chính được phép thực hiện một số hoạt
động ngân hàng theo quy định của pháp luật có nhận tiền gửi. Tuỳ mục tiêu
và chính sách của mỗi quốc gia mà cơ chế tham gia được quy định cho phù
hợp, nhưng nhìn chung là một trong hai hình thức: tự nguyện hoặc bắt buộc.
Hình thức tự nguyện: tổ chức có nhận tiền gửi có quyền lựa chọn có
tham gia hay không.
Hình thức bắt buộc: các tổ chức có nhận tiền gửi phải tham gia bắt
buộc. Bảo hiểm bắt buộc là hình thức bảo hiểm mà bên được bảo hiểm và bên
bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện đúng đắn các quy định không được tự ý
thay đổi.
Mỗi hình thức đều có những hạn chế nhưng hiện nay hình thức bảo
hiểm bắt buộc có ít hạn chế hơn, đang được hầu hết các hệ thống Bảo hiểm
tiền gửi trên Thế giới áp dụng.
2.2.2.Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Là tổ chức được nhà nước cho phép nhận đóng góp tiền gửi từ phía tổ
chức tham gia và thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi
9
tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia, khi tổ chức đó mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn và bị phá sản, phải chi trả tiền bảo hiểm.
Các loại hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi:
+ Theo mục tiêu hoạt động: Mục tiêu vì lợi nhuận là các tổ chức thực
hiện kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi, mục tiêu lấy thu bù chi sao
có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Mục tiêu phi lợi nhuận là các tổ chức
hoạt động chính là bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.
+ Theo quy mô chức năng: gồm loại hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
đa chức năng- là các tổ chức với chức năng thực hiện các nội dung hoạt động
theo hầu hết các công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi. Và loại hình đơn
năng- là những tổ chức chỉ thực hiện một hoặc một số ít chức năng với nội
dung vận hành một số công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, cũng có khi
chỉ như một bộ phận quản lý tiền quỹ bảo hiểm.

+ Theo loại hình doanh nghiệp: gồm loại hình đa hình thức sở hữu,
hoạt động được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp; và loại hình tổ chức tài
chính Nhà nước chỉ thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động theo sự điều chỉnh của
pháp luật về lĩnh vực Bảo hiểm tiền gửi.
2.2.3.Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm
Là đối tượng có các loại tiền gửi được bảo hiểm (chỉ nội tệ hay cả
ngoại tệ) gửi tại tổ chức tham gia. Tuỳ theo mục tiêu, chính sách của quốc gia
mà đối tượng được bảo hiểm là cá nhân hay tổ chức.
Người gửi tiền được bảo hiểm nhưng không phải nộp phí.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm, nhận tiền bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm tại tổ chức tham gia đến một hạn mức chi trả nhất
10
định hoặc nhận toàn bộ số tiền được bảo hiểm mà họ đã gửi các tổ chức tham
gia khi các tổ chức đó bị đổ vỡ. Số tiền bảo hiểm tuỳ thuộc chính sách Bảo
hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia quy định.
2.2.4.Các loại tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi được pháp luật bảo vệ và chịu sự
điều chỉnh của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, ngược lại là loại tiền gửi không
được bảo hiểm. Trong nhiều hệ thống Bảo hiểm tiền gửi đang quy định một
số hay toàn bộ các loại tiền gửi sau không thuộc diện bảo hiểm: tiền gửi ở
nước ngoài của các ngân hàng trong nước, tiền gửi bằng bản tệ của các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, tiền gửi là ngoại tệ, tiền gửi liên ngân hàng.Các
khoản tiền gửi trên thường là các khoản lớn, nên với cơ chế Bảo hiểm tiền gửi
có hạn chế, các loại tiền gửi trên có thuộc diện được bảo hiểm hay không
cũng không có khác biệt đáng kể. Một số nước không bảo hiểm cho các
khoản tiền gửi của người làm trong ngân hàng (lãnh đạo ngân hàng), điển
hình là hệ thống tiền gửi của Pháp.
3. Các công cụ của Bảo hiểm tiền gửi
3.1.Cấp vốn, hỗ trợ tài chính cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi
3.1.1.Cấp vốn hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia

Vấn đề duy trì tỷ lệ vốn tự có của mỗi thành viên và nguồn vốn đảm
bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của mỗi thành viên cũng như
các tổ chức tham gia luôn là mục tiêu phải đạt tới của tổ chức Bảo hiểm tiền
gửi. Đây luôn là những vấn đề khó khăn đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi
các quốc gia, đặc biệt trong thời điểm hệ thống ngân hàng gặp khó khăn hoặc
nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới đang đứng trước nguy cơ bùng
nổ cuộc khủng hoảng.
11
Vốn tự có của các ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của cả hệ
thống Bảo hiểm tiền gửi. Vì khi hoạt động của ngân hàng có biểu hiện bất ổn
sẽ làm nảy sinh tâm lý nghi ngờ và tâm lý này sẽ được lan truyền trong những
người có tiền gửi ở ngân hàng. Vì vậy việc tăng cường năng lực tài chính của
tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi luôn được mỗi hệ thống Bảo hiểm tiền gửi
quan tâm, đưa ra những cảnh báo cho tổ chức chưa duy trì đủ tỷ lệ này.
3.1.2.Cấp vốn và hỗ trợ tài chính cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Một số cơ sở xác định vốn và nguồn vốn cần thiết cho tổ chức Bảo
hiểm tiền gửi:
+ Dựa vào tỷ lệ vốn và quỹ dự trữ của tổng tổ chức tham gia trên tiền
gửi được bảo hiểm hoặc tổng tiền gửi tại tổ chức đó nhằm xác định số tiền
cần có trong quỹ bảo hiểm một cách tương đối phù hợp cho tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi. Vấn đề đặt ra là xác định số tiền (vốn cấp) phải là bao nhiêu cho phù
hợp. Đây thật sự là một vấn đề khó khăn bởi rất khó ước tính, dự toán số
lượng, quy mô của các tổ chức tham gia đổ vỡ trong một kỳ nhất định hay khả
năng vỡ nợ của các ngân hàng. Ban đầu khi mới thành lập tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi thì vốn cấp cũng là vốn huy động. Sau một thời gian thì tổ chức Bảo
hiểm tiền gửi mới có thêm thu nhập từ đóng góp tài chính của tổ chức tham
gia và từ nguồn khác. Khi đó vốn cấp không đồng nhất với vốn hoạt động.
Như vậy tỷ lệ vốn hoạt động cần xác định và duy trì phụ thuộc vào hai yếu tố:
Sự gia tăng vốn hoạt động từ đầu tư, phát triển vốn cấp và các quỹ; sự gia
tăng của tiền gửi được bảo hiểm hay tổng tiền gửi làm tăng thu nhập từ đóng

góp tài chính.
Để giúp tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thực hiện tốt vai trò, chức năng của
mình, mỗi quốc gia phải xây dựng chính sách Bảo hiểm tiền gửi giải quyết
12
được hai vấn đề quan trọng đặt ra là : Xử lý các khoản tổn thất về tiền gửi; hỗ
trợ cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp những khoản tổn thất có
tính thảm hoạ vượt quá năng lực tài chính của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi,
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi.
Khi xảy ra tổn thất có tính thảm họa đòi hỏi chính phủ phải có vai trò
hậu thuẫn quan trọng, trong đó có hỗ trợ tài chính cho tổ chức Bảo hiểm tiền
gửi. Hình thức hỗ trợ có thể là:
+ Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được vay từ Ngân hàng Trung ương hoặc
Chính phủ để đảm bảo lòng tin của người gửi tiền và đẩy tỷ lệ vốn hoạt động
trở lại biên độ bình thường. Ví dụ: ngày 27 tháng 2 năm 1991, Quốc hội Mỹ
thông qua đạo luật củng cố FDIC( Federal Deposit Insurance Corporation)
cho phép FDIC được vay từ kho bạc Mỹ tối đa 30 tỷ USD, hoàn trả trong 15
năm; hoặc được Chính phủ bảo lãnh phát hành một lượng trái phiếu hợp lý.
+ Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể vay các trung gian tín dụng để thực
hiện nghĩa vụ của mình. Biện pháp này ít được khuyến khích, đặc biệt khi tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi có vai trò, chức năng giám sát đối với tổ chức tham
gia Bảo hiểm tiền gửi.
3.2.Phí Bảo hiểm tiền gửi
Phí bảo hiểm tiền gửi là một trong những công cụ quan trọng và có tính
nhạy cảm của chính sách Bảo hiểm tiền gửi đối với hệ thống Bảo hiểm tiền
gửi ở mỗi quốc gia. Tùy theo mục tiêu thiết lập hệ thống Bảo hiểm tiền gửi là
hoạt động vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận ở mỗi nước mà định ra một chính
sách phí là cao hơn, thấp hơn hay ở điểm cân bằng giữa các khoản thu nhập
so với tổn thất mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phải chi ra, nói cách khác nó chi
phối việc định ra mức phí bảo hiểm công bằng và phù hợp ở mỗi quốc gia.
13

3.2.1.Phương pháp định phí bảo hiểm
Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi ở
các nước trên Thế giới rất cần hình thành những phương pháp tính phí bảo
hiểm có tính nguyên lý và chung nhất, nhằm xây dựng một cơ chế Bảo hiểm
tiền gửi có hiệu quả. Để đáp ứng những nhu cầu bức thiết này của các hệ
thống Bảo hiểm tiền trên Thế giới một số phương pháp định phí đã ra đời.
Một số hệ thống Bảo hiểm tiền gửi mà tiêu biểu là ở các quốc gia như: Hoa
Kỳ, Canada, Đài Loan, Philippin…đã vận dụng thành công một trong các
phương pháp định phí này vào quốc gia mình. Các phương pháp đó là: định
phí dựa trên cơ sở thông tin thị trường và định phí dựa trên cơ sở thông tin kế
toán. Mỗi phương pháp định phí được xây dựng trên một mô hình khác nhau,
đã có nhiều mô hình được xây dựng, cải biến, bổ sung nhằm khắc phục hạn
chế của các mô hình trước đó, nhưng tóm lại có hai mô hình chủ yếu: mô hình
quyền lựa chọn- còn gọi là “mô hình quyền chọn của Merton”, và mô hình
“tổn thất dự kiến”.
+ Phương pháp định phí dựa trên cơ sở thông tin thị trường theo mô
hình “quyền chọn của Merton”. Phương pháp này xây dựng năm 1977. Theo
mô hình này phí bảo hiểm được coi như một quyền chọn bán dựa trên tài sản
của ngâm hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Thực chất đây là một hợp đồng
quyền lựa chọn. Người mua hợp đồng quyền lựa chọn không thể loại bỏ rủi ro
mà chỉ làm giảm thiểu rủi ro hoặc hạn chế rủi ro tới một mức độ nhất định vì
người ta phải trả phí khi thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn. Người mua loại
hợp đồng này coi hợp đồng là một công cụ để hạn chế rủi ro. Người bán chấp
nhận rủi ro và đổi lại họ được hưởng một khoản phí và coi đó như một công
cụ tạo thu nhập từ rủi ro.
Nội dung của mô hình là thiết lập mối liên hệ trực tiếp giữa giá trị của
hợp đồng bảo hiểm với giá trị tài sản của ngân hàng, trong đó giá trị tài sản
14
của ngân hàng được xác định dựa trên cơ sở đánh giá của thị trường về vốn và
tài sản của ngân hàng chứ không dựa trên cơ sở giá trị kế toán.

Mô hình quyền chọn của Merton đã chứng minh được việc trả tiền với
sự bảo lãnh đáng tin cậy của bên thứ ba trong việc thanh toán nợ cho các trái
chủ của khách hàng mà không chắc chắn có xảy ra và được thực hiện hay
không, tương tự như một quyền chọn bán.
Mô hình “quyền chọn của Merton” đã giúp một số hệ thống Bảo hiểm
tiền gửi có điều kiện áp dụng có thể vận dụng phương pháp này định phí cho
các tổ chức tham gia được công bằng. Tuy nhiên mô hình cũng bộc lộ một số
hạn chế. Đó là hạn chế về tính thực tiễn và việc bỏ qua mức độ giới hạn về
nguồn vốn huy động tiền gửi theo tỷ lệ tối thiểu cho phép. Phương pháp này
chỉ áp dụng khi thông tin về giá trị tài sản của ngân hàng có sẵn trên thị
trường, còn tổ chức chưa niêm yết trên thị trường thì không áp dụng được.
Từ những hạn chế trên đòi hỏi cần có phương pháp định phí khác và
phương pháp định phí dựa trên cơ sở thông tin kế toán theo mô hình “tổn thất
dự kiến” đã khắc phục được hạn chế trên. Phương pháp này ra đời năm 1995,
ưu điểm là có thể áp dụng cho mọi loại hình ngân hàng chứ không chỉ các
ngân hàng đã niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tính chất của phương pháp là đi xác định “tổn thất dự kiến” thông qua
ước lượng giá trị tài sản ròng của một ngân hàng dựa trên các bản báo cáo
dòng tiền chu chuyển để định phí bảo hiểm cho ngân hàng. Mô hình được xác
định:
Tổn thất dự kiến = Xác suất chi trả bảo hiểm dự kiến * Tiền gửi bảo
hiểm* Tỷ lệ chi trả bảo hiểm thực tế
Trong đó:
- Tổn thất dự kiến: là mức độ tổn thất đối với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
(nhà Bảo hiểm) được xác định theo tỷ lệ của tiền gửi bảo hiểm, từ đó đo
15
lường được chi phí bảo hiểm để đảm bảo bù đắp được khoản chi phí bảo hiểm
để đảm bảo bù đắp được khoản chi phí của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi đã bỏ
ra.
- Xác suất chi trả bảo hiểm dự kiến hay xác suất vỡ nợ dự kiến của

ngân hàng có thể được xác định bằng cách sử dụng các phân tích cơ bản, phân
tích thị trường.
16
- Tiền gửi bảo hiểm: có thể là tiền gửi được bảo hiểm, có thể là tổng
tiền gửi.
- Tỷ lệ chi trả bảo hiểm thực tế: được xây dựng theo tỷ lệ giữa các
khoản tiền gửi đã được chi trả bảo hiểm trong thực tế so với tiền gửi bảo
hiểm.
Nếu thị trường là hiệu quả, thì giá cả thị trường phải phản ánh giá trị
thật về tài sản của ngân hàng. Điều kiện để một thị trường hoạt động hiệu quả
là việc cung cấp thông tin phải luôn sẵn sàng, dễ khai thác, đáng tin cậy. Vì
thế ở các nước có thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán) phát
triển, phương pháp định phí dựa trên dựa trên cơ sở thông tin thị trường thích
hợp hơn phương pháp định phí bảo hiểm trên cơ sở thông tin kế toán. Tuy
nhiên phương pháp thứ hai lại đơn giản hơn, áp dụng được cho mọi hình thức
tổ chức tham gia. Trong thực tế không có một phương pháp nào là hoàn toàn
phù hợp cho mỗi quốc gia mà cần sự điều chỉnh, kết hợp hài hoà ưu điểm của
các phương pháp định phí vào đặc thù của mỗi quốc gia.
Để đánh giá phí bảo hiểm thường lựa chọn một trong các cơ sở sau:
tiền gửi bảo hiểm, tổng tiền gửi, tỷ lệ nợ ròng khó đòi.
Sử dụng tiền gửi bảo hiểm làm cơ sở định giá phí bảo hiểm công bằng
hơn vì cơ sở đánh giá cân bằng với trị giá bảo vệ dành cho người gửi tiền.
Dựa vào tổng tiền gửi không công bằng vì trong nhiều trường hợp cơ sở đánh
giá có thể vượt quá giá trị bảo vệ, dẫn đến việc đối xử không công bằng giữa
các ngân hàng, vì một số ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi được bảo hiểm trên tổng
tiền gửi lớn hơn so với các ngân hàng khác và có thể nhận được sự bảo vệ lớn
hơn tương quan với cơ sở đánh giá của họ. Tuy nhiên phương pháp này vẫn
được sử dụng bởi các ngân hàng dễ dàng biết tổng tiền gửi của họ, còn để xác
17
định khối lượng tiền gửi được bảo hiểm sẽ khó khăn và tốn kém vì các ngân

hàng phải kết các tài khoản của người gửi tiền riêng lẻ có từ hai tài khoản trở
lên tại ngân hàng. Tuy nhiên hệ thống Bảo hiểm tiền gửi không nên lựa chọn
tổng tiền gửi làm cơ sở đánh giá duy nhất.
3.2.2.Các hình thức đóng phí
+ Buộc các tổ chức tham gia gánh chịu các khoản tổn thất sau khi xảy
ra đổ vỡ ngân hàng, hình thức này ít được áp dụng.
+ Thành lập quỹ bảo hiểm và yêu cầu tổ chức tham gia định kỳ nộp một
khoản phí vào quỹ. Đây là hình thức đóng phí bảo hiểm trước- là hình thức tốt
nhất và được áp dụng chủ yếu.
Ngoài ra có thể kết hợp cả hai hình thức trên.
Xây dựng quỹ bảo hiểm đủ mạnh có thuận lợi là sẽ giúp củng cố lòng
tin của người gửi tiền vì đó là sự bảo đảm hữu hình mà người gửi tiền được
bảo hiểm mong đợi. Một thuận lợi khác là dần dần quỹ bảo hiểm này phát
triển, lớn lên đến một mức đủ mạnh sẽ có tác động quan trọng trong việc giảm
dần các khoản đóng góp phí bảo hiểm của tổ chức tham gia.
3.2.3.Các loại phí
+ Phí bảo hiểm đồng hạng: Được hiểu là tỷ lệ phí bảo hiểm theo một
mức chung, áp dụng cho mọi tổ chức tham gia hoạt động trong lãnh thổ một
quốc gia. Phí bảo hiểm đồng hạng còn gọi là phí “cố định”. Hầu hết các hệ
thống Bảo hiểm tiền gửi mới thành lập đều áp dụng loại phí này, vì dễ thực
hiện, dễ áp dụng, chi phí vận hành hệ thống thấp.
+ Phí bảo hiểm điều chỉnh theo mức độ rủi ro được bảo hiểm: Được
hiểu là tỷ lệ phí xác định trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro tương ứng với các
mức phí trong biên độ phí bảo hiểm (có trần và sàn) của hệ thống Bảo hiểm
18
tiền gửi, còn gọi là phí “linh hoạt”. Loại phí này hiện nay đang được nhiều quốc
gia nghiên cứu, áp dụng. Nó thể hiện tính thị trường và sự công bằng hơn. Tuy
nhiên nó đòi hỏi về công nghệ và quản trị hệ thống, cơ chế cung cấp thông tin,
chi phí cho hệ thống là tốn kém.
Chi trả tiền bảo hiểm là việc nhà bảo hiểm thực hiện trách nhiệm của

mình theo các quy định của pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi cho đối
tượng được bảo hiểm.
Chi trả tiền bảo hiểm chủ yếu gồm chi trả toàn bộ các khoản tiền gửi
cho đối tượng được bảo hiểm gọi là hình thức chi trả không giới hạn, chi trả
cho đối tượng được bảo hiểm đến giới hạn nhất định gọi là chi trả bảo hiểm
có giới hạn, hay gọi là hạn mức chi trả.
Hạn mức chi trả là giới hạn chi trả bảo hiểm tối đa mà tổ chức Bảo
hiểm tiền gửi có trách nhiệm chi trả cho người gửi tiền có các khoản tiền gửi
được bảo hiểm tại tổ chức Bảo hiểm tiền gửi bị đóng cửa hay phá sản. Hạn
mức chi trả luôn là vấn đề nhạy cảm đối với mọi hệ thống Bảo hiểm tiền gửi,
nó được hình thành để đáp ứng mục tiêu giữa một bên là sự ổn dịnh của hệ
thống tài chính, ngân hàng và điều tiết hành vi của người gửi tiền cũng như
công chúng có liên quan trong xã hội với một bên là sự phát triển bền vững
của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi. Cho nên việc xác định, điều chỉnh hạn mức
chi trả cho đối tượng được bảo hiểm có ý nghĩa quan trọng trong chính sách
Bảo hiểm tiền gửi. Nếu hạn mức chi trả quá cao sẽ làm nảy sinh tâm lý bất
cẩn và rủi ro đạo đức, ngược lại quá thấp sẽ không bảo vệ được số đông người
gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm và khuyến khích gia tăng tiền gửi.
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xác định hạn mức chi trả: mức phí bảo hiểm,
GDP/ đầu người, lạm phát, đặc điểm hệ thống Bảo hiểm tiền gửi.
19
Hạn mức chi trả có xu hướng cao hơn ở các nước áp dụng loại phí điều
chỉnh theo mức độ rủi ro, với cơ chế phức tạp trong tính toán, việc áp dụng
loại phí này thường phổ biến ở các nước phát triển hơn so với các nước đang
và chậm phát triển.
3.3.Giám sát tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Rủi ro trong quá trình hoạt động của tổ chức tham gia là không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên có nhiều loại rủi ro tổn thất: rủi ro trong biến động vốn,
rủi ro trong đầu tư vốn, rủi ro thanh toán và các rủi ro tổn thất khác như về
đạo đức, thay đổi thể chế chính trị, bị khủng bố…

Đối với phí linh hoạt, để xác định được đúng đắn loại rủi ro và mức độ
rủi ro, vấn đề đặt ra phải đảm bảo giữa một bên là yêu cầu phải có được
những thông tin cần thiết và đủ để đánh giá mức độ rủi ro nhằm xếp hạng, xếp
loại tổ chức tham gia vào mức phí phù hợp, một bên là yêu cầu sao cho yêu
cầu của hệ thống tính phí theo mức độ rủi ro không gây ra những vướng mắc,
khó khăn quá mức cho tổ chức tham gia.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể dựa vào một số mô hình như mô hình
CAMELS để giám sát đánh giá và xếp hạng các tổ chức tham gia. Từ đó có
những biện pháp, chính sách với từng tổ chức tham gia
3.4.Xử lý đổ vỡ hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tham gia Bảo
hiểm tiền gửi
Xử lý đổ vỡ hoạt đông ngân hàng trong cơ chế Bảo hiểm tiền gửi là quá
trình giải quyết các mối quan hệ về lợi ích theo các quy định của pháp luật về
Bảo hiểm tiền gửi, khi một tổ chức tham gia bị mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn và tổ chức đó bị giải thể bắt buộc hay bị phá sản phải chi trả tiền bảo
hiểm.
20
Khi xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, các quốc gia đề ra các quy
định trong luật Bảo hiểm tiền gửi hoặc những quy định của Chính phủ về
những vấn đề liên quan tới các phương thức giải quyết, xử lý đổ vỡ hoạt động
ngân hàng. Các quy định này cần đảm bảo rằng các phương thức được tổ chức
Bảo hiểm tiền gửi sử dụng phù hợp với đối tượng và hình thức của hệ thống
Bảo hiểm tiền gửi. Đây là một trong những chức năng quan trọng của tổ chức
Bảo hiểm tiền gửi. Thông thường tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể sử dụng
một số biện pháp xử lý sau: thứ nhất là liệt kê phương thức xử lý cụ thể mà tổ
chức có thể được sử dụng. Thứ hai là sử dụng khuôn khổ chung về mặt chính
sách mà tổ chức phải sử dụng (chỉ rõ từng phương thức phù hợp với từng đối
tượng và hình thức của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi). Biện pháp này có thể tốt
hơn vì nó cho phép tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được quyền linh hoạt trong xử
lý đổ vỡ ngân hàng.

Trong nhiều hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, sự cân nhắc duy nhất hoặc tập
trung lớn nhất là lựa chọn biện pháp có chi phí thấp. Một vài biện pháp giải
quyết đổ vỡ ngân hàng theo xu hướng có chi phí thấp hơn các biện pháp khác
vì chúng theo hướng bảo tồn giá trị tài sản của ngân hàng đổ vỡ. Thay vì đưa
những tài sản đó vào diện quản lý đặc biệt và sau đó được bán với giá “bán
tháo” sẽ làm mất đi một phần đáng kể giá trị của chúng thì chúng được
chuyển nhượng cho các ngân hàng khác dưới dạng giao dịch bán và đảm
nhiệm hoặc sáp nhập, như vậy sẽ bảo tồn được phần lớn giá trị của chúng.Tuy
nhiên trong một vài trường hợp việc giảm thiểu chi phí không phải là nhân tố
quan trọng nhất, duy nhất được xem xét khi xử lý đổ vỡ ngân hàng. Đặc biệt
nếu việc giảm thiểu chi phí có thể mâu thuẫn với mục tiêu của hệ thống Bảo
hiểm tiền gửi là bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng hoặc mâu thuẫn
21
với mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền và người vay khỏi sự
đổ vỡ một cách tốt hơn. Kết quả là, do chức năng của hệ thống ngân hàng là
phục vụ công chúng nên cho phép tổ chức Bảo hiểm tiền gửi tính tới sự tiện
lợi và quyền lợi hợp pháp cho công chúng trong khi giải quyết.
Để tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể chủ động khi một tổ chức tham gia
có dấu hiệu không lành mạnh thì ngoài quá trình kiểm soát việc gia nhập của
các ngân hàng và tổ chức trung gian thanh toán vào hệ thống Bảo hiểm tiền
gửi, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cần được giao quyền chấm dứt bảo hiểm tiền
gửi đối với một tổ chức tham gia có những hoạt động vi phạm, những vi
phạm gây tổn thất lớn cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức Bảo hiểm tiền
gửi có thể chấm dứt bảo hiểm tiền gửi nếu một tổ chức tham gia tiếp tục thực
hiện các hoạt động ngân hàng không đảm bảo an toàn và lành mạnh sau khi
nhận được cảnh báo của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, thanh tra ngân hàng trung
ương yêu cầu chấm dứt những hoạt động này, hoặc vi phạm nhiều lần luật
Ngân hàng, luật Bảo hiểm tiền gửi và các quy chế phòng ngừa rủi ro. Quá
trình xử lý đổ vỡ hoạt động ngân hàng thường tập trung vào một số các biện
pháp chủ yếu sau:

+ Tiền gửi được bảo hiểm sẽ được thanh toán hết: Khi ngân hàng đổ
vỡ, bị đóng cửa Bảo hiểm tiền gửi sẽ hoàn trả cho tất cả người gửi tiền được
bảo hiểm đến một hạn mức nhất định. Những người gửi tiền không được bảo
hiểm và các chủ nợ khác không nhận được bất kỳ một khoản thanh toán nào
từ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sau khi chi trả được
quyền đòi bồi thường khi thanh lý ngân hàng.
+ Chuyển nhượng các giao dịch bán và giao dịch đảm nhiệm: Tương tự
như trên nhưng có một số khác biệt. Với tiền gửi được bảo hiểm, tổ chức Bảo
22
hiểm tiền gửi sẽ dàn xếp việc chuyển tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm
của tổ chức tham gia bị đóng cửa sang một tổ chức khác hoạt động lành mạnh
được đảm nhiệm chịu trách nhiệm thanh toán các khoản tiền gửi được bảo
hiểm. Tổ chức chịu trách nhiệm sẽ nhận được khoản thanh toán tiền mặt theo
thống nhất của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi từ quỹ bảo hiểm.
+ Hợp nhất với tổ chức tham gia lớn mạnh khác có sự hỗ trợ tài chính:
Trong quá trình dàn xếp, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi và tổ chức nhận sáp nhập
sẽ đàm phán các điều kiện của giao dịch này, bao gồm cả giá trị, hình thức
thanh toán, điều kiện liên quan khác mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ phải
thực hiện nhằm khuyến khích tổ chức nhận sáp nhập với một tổ chức bị đổ
vỡ. Vấn đề chính là có thể không có một tổ chức nào hoàn toàn vững mạnh,
đủ điều kiện để thực hiện đảm nhiệm. Thậm chí nếu có nhưng có thể họ sẽ
không sẵn sàng thực hiện đảm nhiệm, ít nhất là với các điều kiện có thể chấp
nhận đối với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Hơn nữa tổ chức đảm nhiệm sẽ muốn
đánh giá thận trọng tổ chức bị đổ vỡ.
+ Biện pháp này hay được sử dụng nhất khi người gửi tiền cần được
bảo vệ nhằm đảm bảo lòng tin của công chúng. Trong khi biện pháp thứ hai
và thứ ba vừa không khả thi lại vừa không được phép thực hiện theo chính
sách Bảo hiểm tiền gửi cũng như các quy định có liên quan. Trợ giúp tài chính
là biện pháp mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cung cấp có thể thực hiện dưới
nhiều hình thức, tùy tình hình, mức độ cụ thể và tùy theo quy mô hoạt động

của từng tổ chức.
Như vậy, Bảo hiểm tiền gửi là một chính sách, biện pháp hữu hiệu để
Nhà nước ổn định lòng tin của người dân, tạo điều kiện thuận lợi giúp các tổ
chức tín dụng thu hút thêm nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Hơn thế nữa, đây là
23
một trong những chính sách để ổn định và phát triển kinh tế đất nước nhất là
trong thời kỳ hội nhập, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều rủi ro thách thức
như hiện nay.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI, BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
I. Thực trạng Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam
1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi Việt nam
Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, cùng với sự chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường, sự hình thành phát triển của thị trường tài chính tiền tệ, đặc biệt là hệ
thống ngân hàng cũng được chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp. Bên cạnh
những thay đổi nhanh chóng về cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế,
những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường cũng phát huy tác dụng cả
hai mặt tích cực và tiêu cực. Đặc biệt trong lĩnh vực về ngân hàng thể hiện rõ
nhất, đó là cạnh tranh tụt hậu và một số tổ chức đi đến phá sản, những tổ chức
tín dụng hoạt động yếu kém bị thị trường đào thải. Nhất là những năm 1988-
1991, lạm phát gia tăng, tình trạng hoảng loạn hoạt động ngân hàng đã xảy ra
trên địa bàn cả nước, hàng loạt các quỹ tín dụng sụp đổ: 8000 quỹ tín dụng và
hợp tác xã tín dụng bị đổ vỡ theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước. Trong
bối cảnh này, những yêu cầu mới đặt ra là làm thế nào để bảo vệ người gửi
tiền, hệ thống ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng trước mặt trái của quy
24

luật thị trường. Vấn đề ở đây không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề
chính trị xã hội sâu sắc, làm khủng hoảng lòng tin của người gửi tiền, của
công chúng và các chính sách của nhà nước, trong đó có chính sách ngân
hàng. Nhận thức rõ vấn đề này, nhà nước đã thông qua hệ thống các Ngân
hàng thương mại Quốc doanh đứng ra nhận trả thay các khoản tiền gửi của
người gửi tiền tại một số tổ chức bị đổ vỡ này. Khoản tổn thất này của các
Ngân hàng thương mại Quốc doanh được nhà nước khoanh nợ, xóa nợ… hoặc
nhà nước dùng biện pháp khác để can thiệp nhằm giảm bớt hậu quả của tình
trạng đổ vỡ quỹ tín dụng đối với ngân hàng được giao đứng ra nhận trả thay.
Như vậy xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế nhà nước đứng ra chịu toàn bộ
tổn thất này, nhưng bù lại đã giữ được lòng tin của người gửi tiền và công
chúng. Tuy nhiên những biện pháp bảo vệ này không được công khai và đã
nảy sinh các vấn đề pháp lý giải quyết các vấn đề xung đột về quyền lợi hợp
pháp của công dân, của tổ chức trong các quan hệ pháp luật. Để giải quyết căn
bản những tồn tại vướng mắc đó, đồng thời chia sẻ rủi ro, giảm thiểu hậu quả
đổ vỡ ngân hàng, nhà nước ban hành cơ chế mới về “bảo vệ tiền gửi”. Đây
chính là nền tảng để hình thành chính sách Bảo hiểm tiền gửi của nhà nước.
Chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam là sách lược và kế hoạch cụ
thể của nhà nước về Bảo hiểm tiền gửi, để điều chỉnh các hoạt động Bảo hiểm
tiền gửi theo quy định của pháp luật. Nó được ban hành dựa vào đặc thù của
thị trường tiền tệ và đường lối chính sách chung của Việt Nam, nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các đối tượng tham gia hoạt động bảo hiểm tiền gửi,
góp phần giữ ổn định kinh tế chính trị trật tự xã hội. Bên cạnh đó Chính phủ
cũng xem xét để xây dựng một mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phù hợp
25

×