Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.71 KB, 87 trang )

Lời mở đầu
1. tính cấp thiết của đề tài
Chính sách bảo hộ từ xưa tới nay luôn tồn tại như một chính sách thiết
yếu và quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mọi quốc gia bởi tất
cả các quốc gia dù mạnh hay yếu, dù phát triển hay đang phát triển đều muốn
xây dựng và phát triển các ngành sản xuất trong nước đồng đều và bền vững.
Bước sang thế kỉ XXI, khi mà tiến trình toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đã
đi được một chặng đường khá dài với sự ra đời của các tổ chức kinh tế như
WTO, EU, AFTA, NAFTA… tạo ra một sân chơi chung và những quy tắc
nhằm phát triển thương mại quốc tế, thì vấn đề bảo hộ lại được nâng lên một
tầm cao mới đó là bảo hộ hợp lý để làm cơ sở cho hội nhập kinh tế toàn cầu.
Trong xu thế mạnh mẽ của toàn cầu hoá trên thế giới, Việt Nam cũng
đang nỗ lực hết mình: gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998)
và gần đây nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO (2006),
chứng tỏ chúng ta đang cố gắng hết mình để có thể hội nhập kinh tế một cách
toàn diện và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng với một nền kinh
tế mà sức cạnh tranh còn kém thì nếu hội nhập, chúng ta cần thiết phải áp
dụng một cơ chế chính sách bảo hộ hợp lý để không bị “tổn thương” trước
nguy cơ cạnh tranh từ bên ngoài và làn sóng mạnh mẽ của toàn cầu hoá, để
phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế an toàn và hiệu quả.
Chính vì thế, một trong những khía cạnh được quan tâm nhất của chính
sách bảo hộ hiện nay với tất cả các quốc gia trên thế giới là làm thế nào để
chính sách bảo hộ thực sự mang lại hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế đất
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển với trình độ phát triển kinh tế chưa
cao. Đối với các nước phát triển, những nước đã có một nền kinh tế hàng hoá
phát triển cao thì việc áp dụng một chính sách bảo hộ hợp lý là hết sức có lợi.
Nhưng còn đối với các nước đang phát triển, mặc dù có quyết tâm rất cao,

nhưng để thực hiện và thu được lợi ích thực sự bảo hộ hợp lý không phải là
đơn giản. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Đây chính là
lý do tác giả chọn viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Chính sách bảo hộ


hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài này là chính sách bảo hộ hợp lý theo quy định của
WTO, thực tiễn áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số quốc gia tiêu
biểu trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… và một số kinh nghiệm cho
Việt Nam về bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập. Do phạm vi đề tài khá
rộng nên khoá luận không thể đi sâu, chi tiết vào từng biện pháp bảo hộ cụ thể
áp dụng của từng quốc gia trong từng ngành nghề, mà chỉ phân tích những nét
chung , những nét cơ bản nhất về chính sách bảo hộ hợp lý của các quốc gia
này và rút ra một số kinh nghiệm áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong
nước của một số quốc gia trên thế giới sẽ có ý nghĩa nhất định đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam. Những kinh nghiệm trong việc sử dụng
các bịên pháp bảo hộ hơp lý của các quốc gia, đặc biệt là của những trụ cột
kinh tế thế giới như Mỹ, EU, và Trung Quốc sẽ là cơ sở thực tiễn để Việt
Nam tiến hành xây dựng, phát triển và hoàn thiện chính sách bảo hộ hợp lý
tuân thủ theo những quy định của WTO, cũng như sẽ giúp Việt Nam có thêm
kinh nghiệm để tiếp cận thị trường đầy tiềm năng của những nước này.
4. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận này bao gồm 3
chương:

Chương I: Một số vấn đề lý luận về Bảo hộ và Chính sách Bảo hộ hợp
lý sản xuất trong nước
Chương II: Thực tiễn áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số
quốc gia trên thế giới
Chương III: Một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc áp dụng

chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận này kết hợp chặt chẽ các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thông kê và xử lý thông tin
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp so sánh
Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn
Để hoàn thành bài khoá luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương, những người đã truyền thụ
cho em những kiến thức quý báu trong suốt hơn bốn năm học qua. Đặc biệt,
em xin cảm ơn TS. Bùi Thị Lý, Bộ môn Quan hệ Kinh tế quốc tế, người đã
trực tiếp hướng dẫn em viết bài khoá luận này. Mặc dù thời gian có hạn
nhưng cô đã giành cho em những phút giây quý báu. Cô đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận.
Chương I
Một số vấn đề lý luận về Bảo hộ và
Chính sách Bảo hộ hợp Lý sản xuất trong nước

I. Khái quát Chính sách bảo hộ trong thương mại quốc tế
1. Khái niệm về chính sách bảo hộ

Bảo hộ (Tiếng Anh là Protection) có nghĩa là che chở, bảo vệ để không
gây ra tổn hại. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về
Bảo hộ.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, “Chính sách bảo hộ là
chính sách kinh tế hay học thuyết kinh tế của nhà nước áp dụng một loạt các
biện pháp thuế quan hay hành chính để cấm hay hạn chế nhập khẩu một số
mặt hàng của nước ngoài, nhằm kích thích phát triển nền kinh tế trong nước,
không bị nước ngoài cạnh tranh và khuynh đảo”
(1)

.
Theo Từ điển thương mại quốc tế (Walter Goode), “Bảo hộ là mức độ
các nhà sản xuất nội địa và các sản phẩm của họ được bảo vệ khỏi sự cạnh
tranh của thị trường quốc tế”
(2)
. Biện pháp cơ bản để đạt được điều này là
thuế quan, trợ cấp, các hạn chế xuất khẩu tự nguyện và các biện pháp phi thuế
quan. Những trường hợp phức tạp hơn có thể bao hàm cả lĩnh vực văn hoá,
môi trường và các mối quan tâm khác. Chính sách bảo hộ có thể cũng xuất
hiện thông qua việc sử dụng những biện pháp bảo hộ có điều kiện.
Theo bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia, “Bảo hộ mậu dịch là
thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế để chỉ việc áp dụng nâng cao một số tiêu
chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi
trường, xuất xứ… hay việc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số mặt
hàng nhập khẩu nào đó để bảo vệ ngành sản xuất các mặt hàng tương tự (hay
dịch vụ) trong một quốc gia”
(3)

Theo Từ điển tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên “Bảo hộ mậu
dịch là chính sách bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của
hàng hoá nước ngoài trên thị trường nước mình”
(4)
(1)
/>param=143AaWQ9MzIxNTYmZ3JvdXBpZD04JmtpbmQ9JmtleXdvcmQ9&page=3
(2)
Walter Goode, Từ điển Chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội 2003, tr. 28
(3)
%BB%8Bch
(
4)

Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994, trang 37

Tóm lại, Chính sách bảo hộ nói chung trong thương mại quốc tế
(Protectionism) là việc chính phủ áp dụng các biện pháp rào cản thuế quan và
phi thuế quan cùng những rào cản thương mại khác nhằm bảo vệ nền sản xuất
trong nước, đẩy mạnh việc sản xuất và xuất khẩu ra nước ngoài.
2. Những bước phát triển của chính sách bảo hộ.
Về mặt lịch sử, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ra đời từ rất sớm, trước
cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu, thế kỷ 17 - đây là thời kỳ tích luỹ
nguyên thuỷ của Chủ nghĩa Tư bản. Với mục tiêu bảo hộ sản xuất, thúc đẩy
xuất khẩu nhằm đạt thặng dư thương mại, chính sách này đã có tác động khá
mạnh tới sự mở mang và phát triển sản xuất của các quốc gia Tây Âu thời bấy
giờ.
Bước sang thế kỷ 18, Adam Smith – một đại diện tiêu biểu và xuất sắc
của Kinh tế chính trị cổ điển Anh đã đề xướng tư tưởng kinh tế tự do. Nét nổi
bật trong lý thuyết kinh tế của A.Smith là tin vào sự điều tiết của thị trường và
phản đối sự can thiệp của nhà nước. Triết lý tự do kinh doanh của A.Smith,
cũng như của David Ricardo đã được mọi giới chấp nhận và trở thành học
thuyết kinh tế ngự trị trong suốt thời kỳ tự do cạnh tranh của Chủ nghĩa tư
bản. Trong thời kỳ này, mặc dù sự kiểm soát của nhà nước có giảm đi, những
trở ngại kinh tế dần được cắt giảm và bãi bỏ nhằm mục tiêu phát triển thương
mại quốc tế, nhưng chính sách bảo hộ vẫn tồn tại, với mục đích nâng đỡ các
ngành sản xuất non kém để chúng có đủ sức cạnh tranh trên thị trường nội địa
và thị trường ngoài nước.
Thế kỷ 19 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa độc quyền,
nhất là giai đoạn cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20 (1890 – 1910). Trong thời kỳ
này, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tự do mậu dịch gây ra những khó
khăn về vấn đề thị trường và cạnh tranh. Hầu hết các nước tư bản phát triển
(trừ Anh và Hà Lan) đều áp dụng một chính sách bảo hộ rất cao, đánh thuế
nhập khẩu rất cao đối với nhiều loại hàng và mở rộng danh mục mặt hàng


chịu thuế. Theo thống kê, thuế nhập khẩu (chiếm tỷ lệ % giá cả hàng hoá)
đánh vào hàng công nghệ năm 1925 tại Mỹ cao tới 35%-40%, tại Pháp và ý là
25%-30%, tại Bỉ và Thụy Sỹ là 10%-15%, chỉ có Anh và Hà Lan là chưa tới
10%.
Có thể thấy rằng, trước thời kỳ độc quyền, chính sách bảo hộ mang tính
ôn hoà, thường che chở cho những ngành sản xuất non trẻ không đủ sức cạnh
tranh với hàng hoá nước ngoài giúp những ngành này phát triển. Trong thời
kỳ độc quyền chính sách bảo hộ lại như một lá chắn bảo vệ cho những ngành
công nghiệp phát đạt nhất, có đủ sức cạnh tranh để giữ vững một giá độc
quyền duy nhất thật cao trên thị trường nội địa và tránh được sự cạnh tranh
của nước ngoài. Điểm nổi bật nhất của chính sách bảo hộ mới này là nó mang
tính tấn công và xâm lược, trở thành công cụ quan trọng và hữu hiệu để tổ
chức độc quyền độc chiếm không những thị trường trong nước mà còn thị
trường nước ngoài.
Trong quá trình phát triển, bên cạnh những lợi ích mang lại cho nền sản
xuất trong nước, chính sách bảo hộ - đặc biệt là của các quốc gia phát triển đã
bộc lộ những nhược điểm lớn. Nó tạo ra những mâu thuẫn, cản trở việc trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau, không phát huy được những lợi ích
to lớn mà tự do hoá thương mại mang lại. Sự ra đời của GATT (1947) và tiếp
đó là Tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 1995 nhằm khắc phục
những khuyết điểm của chính sách bảo hộ, tháo gỡ những rào cản thương mại
và đầu tư trên phạm vi từng quốc gia, từng khu vực và toàn cầu, nhanh chóng
đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Nhưng trên thực tế, bảo hộ vẫn là vấn đề
then chốt và nhạy cảm trong chính sách thương mại của từng quốc gia, cũng
như của từng nhóm nước có trình độ phát triển khác nhau.
Ngày nay, trong điều kiện kinh tế – chính trị hiện đại của thế giới, với
xu hướng quốc tế hoá nền sản xuất và thị trường thế giới, nhiều tổ chức kinh
tế quốc tế, công ty xuyên quốc gia, cộng đồng kinh tế – thị trường thuế quan


khu vực của các nước ra đời , các mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại,
đầu tư trên phạm vi thế giới phát triển mạnh, học thuyết cũng như các chính
sách đóng cửa và tự cung tự cấp không thể tồn tại. Do đó, chính sách bảo hộ
mậu dịch không còn thịnh hành như trước. Tuy nhiên, trong công cuộc cạnh
tranh giữa các nước công nghiệp phát triển, giữa các nước phát triển với các
nước đang phát triển, cũng như giữa các khối kinh tế, nhiều nước vẫn áp dụng
chính sách bảo hộ vì những mục tiêu chính trị hay kinh tế nhất định để bảo vệ
nền độc lập của đất nước và phát huy lợi thế trong cạnh tranh. Chính sách bảo
hộ của các nước tư bản phát triển phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền
lớn nhất trong nước và các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia với mục đích
chủ yếu là chiếm đoạt, phân chia và phân chia lại các thị trường tiêu thụ hàng
hoá và đầu tư. Với các nước đang phát triển, chủ nghĩa bảo hộ nhằm bảo vệ
nền kinh tế của những nước này chống lại sự bành trướng kinh tế của các
cường quốc đế quốc chủ nghĩa, góp phần củng cố nền kinh tế dân tộc độc lập.
3. Mục tiêu của chính sách bảo hộ
Chính sách bảo hộ được đặt ra nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong
nước tránh được sự cạnh tranh từ bên ngoài, góp phần phát triển sản xuất,
thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế nội địa. Việc đánh thuế nhập khẩu và
việc áp dụng các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với
một số loại hàng hoá dịch vụ sẽ làm cho giá bán của những hàng hoá dịch vụ
này tăng lên cao hơn so với hàng hoá được sản xuất trong nước. Do đó, thay
vì tiêu dùng những hàng hóa dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng trong nước
sẽ quay sang dùng những hàng hoá dịch vụ cùng loại được sản xuất trong
nước với giá rẻ hơn. Khi nhu cầu tiêu dùng hàng hoá dịch vụ nhập khẩu giảm
sút các nhà nhập khẩu sẽ hạn chế số lượng hàng hoá dịch vụ nhập khẩu và
ngược lại, các nhà sản xuất trong nước chủ nhà sẽ có điều kiện mở rộng và
phát triển sản xuất kinh doanh của mình.

Chính sách bảo hộ còn góp phần tạo việc làm cho một bộ phận dân
chúng nước chủ nhà. Nhờ các ưu đãi từ chính sách bảo hộ nên một số ngành

sản xuất trong nước sẽ mở rộng quy mô sản xuất và kéo theo đó là nhu cầu về
nguồn nhân lực sẽ tăng lên.
Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ hạn chế việc nhập khẩu và
tiêu dùng một số loại hàng hoá dịch vụ không thực sự cần thiết hoặc không
phù hợp với thuần phong mỹ tục của nước chủ nhà. Đồng thời, số lượng hàng
hoá nhập khẩu hạn chế do áp dụng các chính sách bảo hộ sẽ làm giảm việc
tiêu dùng ngoại tệ và góp phần cân đối cán cân thanh toán nước chủ nhà.
Chúng ta không phủ nhận rằng các chính sách bảo hộ đã mang lại lợi
ích không nhỏ cho nền kinh tế nước chủ nhà trong những giai đoạn nhất định.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách bảo hộ không phải lúc nào cũng đạt
được kết quả như mong muốn. Vấn đề đặt ra là phải áp dụng một chính sách
bảo hộ hợp lý để bảo hộ sản xuất trong nước một cách hữu hiệu nhất
II. Chính sách bảo hộ hợp lý và sự cần thiết phải áp dụng chính sách bảo hộ
hợp lý với sản xuất trong nước.
1. Thế nào là Chính sách bảo hộ hợp lý?
Như đã đề cập ở trên, bảo hộ là những biện pháp của chính phủ nhằm
hỗ trợ sản xuất trong nước và giảm tính cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài
trên thị trường nội địa. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng các chính sách bảo
hộ và coi đó là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách phát triển kinh
tế đất nước bởi nó mang lại rất nhiều lợi ích như giúp bảo vệ các ngành sản
xuất còn non kém trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm. Tuy
nhiên, không phải lúc nào chính sách bảo hộ cũng đưa lại những kết quả như
ý muốn. Chính sách bảo hộ đơn phương gây ra những mất mát về kinh tế – xã
hội và ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng và các ngành nghề khác trong
nền kinh tế. Nếu chính phủ thực hiện một chế độ bảo hộ không hợp lý, bảo hộ
tràn lan, tuỳ tiện, bảo hộ quá mức trong thời gian quá dài thì không những

không đạt được mục đích mà còn gây ra các tác động tiêu cực. Các ngành sản
xuất được bảo hộ sẽ không dần lớn mạnh lên mà trái lại, rất có thể rơi vào
trạng thái trì trệ, giảm sức cạnh tranh, sản xuất không hiệu quả, làm sai lệch

lợi thế so sánh cuả đối tác tham gia trên thị trường. Bảo hộ còn dẫn đến việc
phân bổ sai nguồn lực, chi phí cơ hội lớn và làm thiệt hại cho giới tiêu dùng
trong nước. Tương tự như thế, một chính sách bảo hộ thiên về tạo công ăn
việc làm mà không tính toán đến các yếu tố khác sẽ làm cho tình trạng thất
nghiệp của đất nước ngày một gia tăng.
Tuy nhiên, chúng ta có nên loại bỏ hoàn toàn chính sách bảo hộ? Câu
trả lời là không hoàn toàn như vậy. Tất cả các nước trên thế giới, thậm chí
những nước được coi là phát triển nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung
Quốc…vẫn áp dụng những chính sách bảo hộ nhất định đối với một số ngành
hàng của mình. Mặt khác, các quy định của WTO vẫn chấp nhận việc các
nước thành viên sử dụng các biện pháp phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu
trong những trường hợp cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia, văn hoá
truyền thống, môi trường và sức khoẻ con người…
Vậy điều mà các quốc gia cần làm để bảo vệ các ngành sản xuất trong
nước một cách hữu hiệu nhất là gì? Đó chính là xây dựng và thực hiện một
chính sách bảo hộ hợp lý, tức là bảo hộ nhằm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy
phát triển chứ không phải để “nuông chiều” các ngành sản xuất trong nước.
Bảo hộ hợp lý không phải chỉ là tạo ra những rào cản ngăn chặn sự xâm nhập
của hàng hoá nước ngoài vào nước mình, hoặc trợ cấp dưới mọi hình thức cho
sản xuất nội địa, mà quan trọng hơn là những biện pháp bảo hộ đó phải đạt
được mục tiêu phân bổ nguồn lực hợp lý, nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm nội địa trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Điều này cũng có
nghĩa là không nên bảo hộ những ngành sản xuất “ốm yếu”, không có tiền đồ
phát triển và không có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, với các
ngành sản xuất “non trẻ”, khi mới bước vào thị trường, nhất là thị trường thế

giới, thường gặp không ít những khó khăn và rất cần sự hỗ trợ của nhà nước
dưới các hình thức khác nhau để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm
của mình. Kinh nghiệm cho thấy không quốc gia nào trên thế giới tăng trưởng
nhanh nhờ vào bảo hộ. Chính vì thế, bảo hộ phải tạo đà cho tự do hoá thương

mại, là cơ sở để phát triển bền vững trong tự do hoá thương mại.
WTO hướng tới sự tự do hoá toàn cầu trên các lĩnh vực, từng bước xoá
bỏ các rào cản đối với thương mại. Gia nhập WTO, các nước thành viên phải
tuân theo những qui tắc cơ bản của tổ chức này, thực hiện những cam kết để
hạn chế tối đa các rào cản thương mại, tiến tới hội nhập vào “ngôi nhà
chung”, không phân biệt đối xử. Song, gia nhập WTO không có nghĩa là các
nước phải hoàn toàn xoá bỏ sự giúp đỡ và bảo hộ đối với các ngành sản xuất
trong nước, mà điều quan trọng là phải biết dựa theo quy tắc của WTO để xây
dựng một chính sách bảo hộ hữu hiệu sao cho vừa thúc đẩy sản xuất trong
nước phát triển, vừa không vi phạm nguyên tắc tự do hoá thương mại mà
WTO đã đề ra.
Tóm lại, chính sách bảo hộ hợp lý theo quy định của WTO là chính sách
bảo hộ mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế cho đất nước, đồng thời tuân thủ
đầy đủ các quy định của WTO cũng như các cam kết mà các quốc gia đã ký
kết.
Dựa trên các chuẩn mực quốc tế, các quy định của WTO và thực tiễn
bảo hộ của một số quốc gia trên thế giới và của Việt Nam trong những năm
mở cửa thì chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch cần phải quán triệt
các quan điểm sau:
 Bảo hộ phải tạo được lợi thế về năng lực cạnh tranh cho hàng hoá nội
địa trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
 Các biện pháp bảo hộ phải được thực hiện một cách có chọn lọc, có
điều kiện và có thời hạn.

 Việc áp dụng chính sách bảo hộ phải được áp dụng thống nhất cho mọi
thành phần kinh tế.
 Các biện pháp bảo hộ phải tuân thủ các quy định của quốc tế, đặc biệt
là của WTO.
Một hệ thống chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với các hiệp định
thương mại và các nguyên tắc thương mại quốc tế để bảo hộ sản xuất trong

nước là vấn đề hết sức cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện nhiều ngành sản
xuất của các quốc gia đang phát triển và kém phát triển với thiết bị, kỹ thuật
và công nghệ còn lạc hậu. Để các chính sách bảo hộ vừa phù hợp với các
thông lệ quốc tế, vừa có tính hiệu quả cao, các nhà hoạch định chính sách có
thể xem xét một số vấn đề cụ thể:
Thứ nhất: Lựa chọn các đối tượng bảo hộ.
Đây là một khâu hết sức quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả
của
các chính sách bảo hộ sau này. Những ngành sản xuất được bảo hộ phải là
những ngành thực sự có lợi thế so sánh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, có tiềm
năng phát triển và có ảnh hưởng lan truyền tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Nếu các đối tượng được lựa chọn không có lợi thế cạnh tranh so với các
ngành tương ứng trong khu vực hoặc trên thế giới thì sự ưu tiên, ưu đãi và các
khoản đầu tư sẽ có thể bị lãng phí và trở nên phi hiệu quả. Vì vậy, cần xem
xét, phân tích kỹ các số liệu thống kê, tham khảo ý kiến của các nhà nghiên
cứu kinh tế trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề để có được sự lựa chọn
chính xác nhất.
Thứ hai: Quan điểm bảo hộ phải mang tính nhất quán và được đầu tư
một cách thoả đáng.
Sau khi đã lựa chọn được đối tượng bảo hộ thì phải khẳng định và theo
đuổi đến cùng mục tiêu bảo hộ của mình thông qua việc lập kế hoạch ưu tiên
cho các ngành sản xuất được lựa chọn: Các ưu tiên đặc biệt về thuế, các

chương trình đầu tư và vay vốn ngân sách nhà nước, ưu tiên sử dụng ngoại tệ
để mua máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến hoặc cung cấp tín dụng với lãi
suất thấp để nhập khẩu công nghệ tiên tiến… Việc áp dụng đồng bộ những
giải pháp này trong thời gian nhất định sẽ thúc đẩy các đối tượng được bảo hộ
phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều lao động và hạ giá thành sản phẩm. Nói
cách khác, tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm sẽ
được nâng lên. Bên cạnh đó, một lần nữa tầm quan trọng của việc lựa chọn

đối tượng được bảo hộ lại được khẳng định vì những ngành nghề được bảo hộ
nếu có tác dụng lan truyền tới nhiều lĩnh vực trong xã hội thì hiệu quả của các
chính sách bảo hộ lúc này sẽ vô cùng to lớn. Tuy nhiên, nếu như những giải
pháp trên làm tăng tính hiệu quả của việc bảo hộ thì đổi lại, sẽ gây ra sự mất
công bằng đối với các ngành nghề khác trong toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề là
phải chấp nhận đánh đổi tính công bằng trong một giai đoạn nhất định để theo
đuổi mục tiêu bảo hộ của mình và khi các ngành sản xuất này đã thực sự phát
triển, đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế đất nước bù đắp cho các lĩnh vực
còn lại.
Thứ ba: Các doanh nghiệp được bảo hộ cần sự trợ giúp của chính phủ
về nhiều mặt. Chính phủ phải cung cấp cho doanh nghiệp một cách đầy đủ
các thông tin như giá cả, đặc điểm thị trường, các rào cản phi thuế… và
chuyển dần các hình thức trợ cấp khu chế xuất sang hỗ trợ doanh nghiệp tìm
hiểu, nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, Mặt khác, cũng có thể áp
dụng các rào cản phi thuế quan như quy định về bán phá giá và thuế chống
bán phá giá, trợ cấp và thuế đối kháng, các tiêu chuẩn kỹ thuật về lao động và
môi trường… Đây chính là những rào cản mà Mỹ và một số quốc gia khác đã
và đang áp dụng thành công để bảo hộ một số ngành hàng của mình mà ngành
nuôi cá tra, cá basa là mội ví dụ.
Tóm lại, bảo hộ với những đặc điểm của nó đều đem lại những lợi ích
to lớn không thể phủ nhận cho nền kinh tế của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó,

bảo hộ cũng gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế mỗi quốc gia và
toàn cầu, quan hệ thương mại giữa các nước… Nhận thức rõ ràng cả mặt tích
cực lẫn tiêu cực của bảo hộ sẽ giúp mỗi quốc gia đưa ra chính sách bảo hộ
hợp lý để có thể tranh thủ được mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực sao
cho có lợi cho nền kinh tế.
2. Sự cần thiết của chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập
2.1. Tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại và hội nhập .
Trong thời điểm hiện nay, tự do hoá thương mại đang là một xu thế

khách quan tất yếu mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc nếu
không muốn để lỡ những cơ hội phát triển mà xu thế này có thể mang lại.
Nhưng tất cả các quốc gia, dù phát triển hay đang phát triển, dù giàu hay
nghèo, khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá đều phải chịu những tác động
mặt trái của nó ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Trong xu thế này,
các quốc gia đang phát triển phải chịu nhiều thiệt thòi nhất và dễ bị tổn
thương nhất bởi tự do hoá thương mại đặt các quốc gia này trước những thách
thức vô cùng to lớn về khả năng cạnh tranh quốc tế và làm trầm trọng thêm
những vấn đề kinh tế – chính trị - xã hội.
Thứ nhất, về kinh tế: Tự do hoá thương mại làm tăng tính dễ bị tổn
thương của các nền kinh tế đang phát triển.
Nền kinh tế trong thời đại tự do hoá có các cơ cấu tùy thuộc lẫn nhau
và các thị trường tài chính hội nhập chặt chẽ hàm chứa những nguy cơ to lớn
về khủng hoảng tài chính tiền tệ đối với các quốc gia đang phát triển. Trong
điều kiện tự do hoá thương mại đang chịu sự chi phối của các nước tư bản
phát triển thì sự phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế - tài chính quốc tế tất yếu sẽ dẫn
đến sự phụ thuộc của các nước đang phát triển vào các thế lực tư bản tài chính
quốc tế và sự thu hẹp phạm vi và quyền lực của các chính quyền quốc gia với
chính quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước mình. Các cuộc khủng
hoảng kinh tế và tài chính ở châu á và Mỹ Latinh đã phơi bày những nguy cơ

có thể nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế , mà đặc biệt là toàn cầu
hoá tài chính và đầu tư, cũng như những xu hướng thái quá mà quá trình này
có thể đưa đến. Những cuộc khủng hoảng ở Mỹ Latinh vào thập kỷ 80, khủng
hoảng ở Mehico năm 1994 và khủng hoảng Tài chính tiền tệ châu á
(1997-1999) đều là các cuộc khủng hoảng mang tính cơ cấu với sắc thái tài
chính - tiền tệ rất đậm nét chứ không phải khủng hoảng chu kỳ hay sự đổ vỡ
của một mô hình phát triển nào đó. Các cuộc khủng hoảng đó đều kèm theo
suy thoái kinh tế mạnh diễn ra theo tính chất làn sóng như “Hiệu ứng
Đôminô” và bắt đầu từ các “trung tâm nhạy cảm” của từng khu vực. Đó chính

là những thông điệp - những lời cảnh báo chung đối với các nước đang phát
triển về chính sách tài chính - tiền tệ và phát triển kinh tế trong kỷ nguyên tự
do hoá thương mại.
Tự do hoá thương mại đặt các nước đang phát triển trước nguy cơ đối
đầu với sự cạnh tranh khốc liệt và sân chơi không bình đẳng. Việc hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu thông qua tham gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu
và khu vực bắt buộc tất cả các nước phải chấp nhận luật chơi tự do cạnh
tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư.
Tất nhiên, điều này theo lý thuyết đem lại nhiều lợi ích cho các nước đang
phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện hầu hết các nền kinh tế đang phát triển
còn đang ở một trình độ phát triển thấp và kém hiệu quả với những biểu hiện
như: ít vốn, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, thiếu kinh nghiệm,
trình độ quản lý yếu kém, thiếu kỹ năng tiếp thị, thiếu hiểu biết về môi trường
kinh doanh quốc tế, sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng thấp, kiểu
dáng mẫu mã không đáp ứng được yêu cầu của thị trường…thì chính luật tự
do cạnh tranh này lại họ trước những thách thức vô cùng to lớn. Khi mở cửa
thị trường cho các hàng hoá và dịch vụ nước ngoài thì nguy cơ các doanh
nghiệp nội địa bị lấn sân thậm chí bị bóp nghẹt là điều hoàn toàn có thể xảy

ra. Các doanh nghiệp nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia, với đầy đủ các
thế mạnh về vốn, công nghệ và chất xám sẽ không gặp nhiều khó khăn để
đánh bại các doanh nghiệp bản xứ ngay tại sân nhà của họ.
Bên cạnh đó, nếu chơi theo đúng luật "tự do cạnh tranh", "tự do thương
mại" mà các nước phát triển vẫn kêu gọi thì hiện tại các nước đang phát triển
vẫn còn có thể tận dụng được những lợi thế của mình trên thị trường thế giới.
Nhưng nực cười thay, trong khi hô hào các nước đang phát triển mở cửa thị
trường cho hàng hoá của mình thì chính họ, các nước phát triển giàu có lại
tìm mọi cách để hạn chế hàng hoá của các nước đang phát triển tràn vào thị
trường nước mình.

Tự do hoá thương mại còn góp phần làm gia tăng các khoản nợ của các
nước nghèo. Để có thể tăng trưởng kinh tế trong thời kì hội nhập, các nước
nghèo cần vốn để đầu tư cho các chương trình phục vụ mục tiêu này. Do đó,
họ cần vay vốn thông qua các tổ chức tài chính tiền tệ (WB, IMF) hoặc vay
trực tiếp của các nước phát triển. Theo lý thuyết, vốn được vay sẽ được sử
dụng vào các chương trình nhằm tăng trưởng kinh tế và sẽ được hoàn trả
trong tương lai. Và trên thực tế, đã có một số quốc gia thực hiện được lý
thuyết này như các nước NICs. Tuy nhiên, con số các quốc gia mất khả năng
trả nợ, trở thành con nợ dai dẳng của WB, IMF và các nước giàu thì lại lớn
hơn nhiều. Họ không những không trả được nợ mà ngược lại gánh nặng nợ
nần trên vai họ lại ngày càng chồng chất.
Tự do hoá thương mại làm tăng nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc về mặt
công nghệ của các nước đang phát triển. Không thể phủ nhận rằng khoa học
công nghệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng của đối với sự phát triển kinh
tế- xã hội trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Sự phát triển của khoa học
công nghệ chính là một trong những động lực của quá trình toàn cầu hoá.
Nhiều ý kiến lạc quan cho rằng cuộc cách mạng khoa học công nghệ mang
tới cho các nước đang phát triển những cơ hội để rút ngắn khoảng cách phát

triển đối với các nước công nghiệp. Tuy nhiên, nếu xem xét sâu hơn một chút
thì sẽ thấy ngay một sự thật rằng cụm từ “cuộc cách mạng công nghệ đang
diễn ra như vũ bão” thực chất, chủ yếu chỉ xảy ra ở những nước công nghiệp
phát triển, ở những tập đoàn khổng lồ. Còn ở những nước nghèo, người dân
chỉ nghe về nó chứ ít có cơ hội được tham gia, chứ chưa nói đến được hưởng
thành quả của nó. Thực trạng đáng buồn là quá trình toàn cầu hoá đã khiến
cho khoa học công nghệ càng phát triển thì hố ngăn cách về công nghệ giữa
các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng sâu sắc hơn, giống
như cái cách nó đã đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo.
Điều nguy hại hơn, và đáng buồn là lại khả phổ biến, là ngay cả khi đã
tiếp nhận công nghệ từ bên ngoài, phần lớn các nước đang phát triển không

làm chủ được công nghệ, không biến nó thành của mình được. Nguyên nhân
chính là do họ không có nguồn nhân lực để sử dụng công nghệ, đặc biệt là
những chuyên gia giỏi. Do đó, cùng với việc nhận viện trợ hoặc nhập khẩu
công nghệ, họ phải thuê cả chuyên gia nước ngoài để vận hành, bảo dưỡng và
sửa chữa. Chưa kể đến chi phí thuê chuyên gia đắt đỏ, điều này đã làm trầm
trọng hơn tình trạng phụ thuộc công nghệ của các nước nghèo.
Thứ hai, về mặt xã hội, tự do hoá thương mại làm tăng khoảng cách
giàu nghèo trên thế giới. Sự phân hoá giàu nghèo được coi là mặt trái mang
tính tổng hợp nhất của quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá hiện
nay. Theo báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1999 thì: “Trong
vòng 50 năm qua, thu nhập bình quân đầu người đã tăng hơn gấp 3 lần do
GDP toàn cầu tăng gấp 9 lần. Tỷ lệ những người được hưởng sự phát triển
con người ở mức trung bình tăng từ 55% năm 1975 lên 66% năm 1997. Tỷ lệ
được hưởng phát triển con người ở mức thấp giảm từ 20% xuống 10%”. Tự
do hoá thương mại đang làm thế giới ngày một thịnh vượng hơn, đem lại
những cơ hội để tăng thu nhập, thế nhưng cơ hội đó không phân chia đồng
đều cho tất cả mọi người. Và điều đáng buồn hơn là hầu hết cơ hội đó lại chỉ

rơi vào tay những người vốn đã giàu có, những người có khả năng tiếp cận và
tận dụng được cơ hội. Những người nghèo khổ rất khó có khả năng tiếp cận
với cơ hội này, do đó không thể tăng được thu nhập mà thậm chí còn nghèo đi
bởi họ không thể tự bảo vệ mình trước những tác động tiêu cực của toàn cầu
hoá. Bằng cách này, tự do hoá đã làm sâu sắc thêm tình trạng phân hoá giàu
nghèo.
Bên cạnh đó, cùng với quá trình tự do hoá thương mại diễn ra mạnh mẽ
thì nguy cơ chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển và tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng.
Thứ ba, về mặt chính trị, tự do hoá thương mại đe doạ chủ quyền của
các quốc gia nhỏ. Các quốc gia khi chấp nhận hội nhập kinh tế, tham gia vào
các thể chế hoặc khu vực hoặc toàn cầu đều phải tuân thủ luật chơi chung,

chấp nhận hạn chế thẩm quyền riêng biệt của mình trong nhiều lĩnh vực: kinh
tế - xã hội và thậm chí là chính trị, mà kẻ đứng đằng sau thao túng mọi hoạt
động của các tổ chức này lại là các nước tư bản phát triển mà đặc biệt là Mỹ.
Để được trở thành thành viên của WTO, một quốc gia phải chấp nhận mở
toang cửa nền kinh tế nước mình cho các công ty nước ngoài, không được bảo
hộ cho những ngành công nghiệp non trẻ của mình. Các nước đang phát triển
sẽ ngày càng phải đương đầu với áp lực của mâu thuẫn giữa yêu cầu hội nhập
vào xu thế toàn cầu hoá và yêu cầu duy trì an ninh quốc gia và độc lập chủ
quyền của họ. Nếu chiều theo mọi đòi hỏi tham lam của các thế lực bên ngoài,
họ sẽ mất chủ quyền quốc gia, ngày càng lệ thuộc vào bên ngoài, có thể dẫn
đến những hậu quả khôn lường trong tương lai.
2.2. Những tác động tích cực của chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý.
Tự do hoá thương mại và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thông qua
tham gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực bắt buộc tất cả các nước
phải chấp nhận “luật chơi” tự do cạnh tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường,
dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ

nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư. Nhưng cạnh tranh luôn là con dao hai
lưỡi. Một mặt, nó là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước vươn lên; mặt
khác, nó có thể giết chết sản xuất trong nước nếu không đủ sức mạnh để tồn
tại. Hơn nữa, trong bối cảnh mở cửa tự do, nền kinh tế luôn đứng trước nguy
cơ chịu tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài, nguy cơ tụt
hậu và phụ thuộc về mặt công nghệ của các nước đang phát triển, sự gia tăng
khoảng cách giàu nghèo, tình trạng chảy máu chất xám và những mối đe doạ
ô nhiễm môi trường sinh thái…
Đứng trước làn sóng mạnh mẽ của tự do hoá thương mại trên thế giới,
một chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý có khả năng bảo vệ thị trường nội địa
chống lại sự cạnh tranh, chèn ép của hàng hoá nước ngoài, từ đó tạo điều kiện
cho các ngành sản xuất trong nước phát triển. Nền kinh tế được bảo hộ sẽ
tránh được các cú sốc từ bên ngoài, có được môi trường tương đối ổn định để

dần dần lớn mạnh. Chính sách bảo hộ hợp lý sẽ cải thiện đáng kể các ngành
sản xuất nội địa. Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có những chiến
lược phát triển kinh tế nhất định, trong đó luôn xác định những lĩnh vực ưu
tiên đặc biệt. Nhưng để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đạt
được hiệu quả tối ưu và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế,
Nhà nước cần phải có những ưu đãi đặc biệt.
Bảo hộ là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để nâng
đỡ các doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp có ảnh
hưởng đến nền kinh tế nước chủ nhà hoặc các doanh nghiệp tập trung nguồn
nhân lực và tài chính lớn, thông qua đó cải thiện ngành sản xuất nội địa. Ví dụ
như Trung Quốc duy trì mức bảo hộ rất cao cho ngành công nghiệp ô tô, Nhật
Bản duy trì mức bảo hộ cao với ngành sản xuất nông nghiệp, Hoa Kỳ dù là
một nền kinh tế mạnh nhất thế giới, khởi xướng cho xu thế tự do hoá thương
mại và có tầm ảnh hưởng lớn trong WTO, nhưng vẫn áp dụng những biện

pháp bảo hộ hàng sản xuất trong nước như phim ảnh, sắt thép, ô tô, may mặc,
nông sản…
Bên cạnh đó, đối với các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản và EU,
mục tiêu chính trong chính sách bảo hộ là duy trì việc làm cho những tổ chức
hay nhóm người nhất định, ổn định tương đối thu nhập và giảm bớt sức ép về
chính trị của các tổ chức đoàn thể. Để bảo hộ ngành công nghiệp dệt may vốn
là ngành công nghiệp thu hút khá nhiều lao động, EU đã đưa ra những thoả
thuận về hạn ngạch xuất khẩu với các nước khác, đặc biệt là các nước có
nguồn nguyên liệu phong phú và nguồn nhân công rẻ.
Với các nước đang phát triển và những nước có trình độ phát triển thấp,
mục đích bảo hộ ngoài đảm bảo công ăn việc làm, nâng đỡ các nhà sản xuất
non kém, còn là để duy trì cán cân thanh toán có lợi và cải thiện nguồn ngân
sách. Trước tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán và hạn hẹp về ngân sách,
phụ thuộc vào vay nợ nước ngoài, thì một chính sách bảo hộ hợp lý sẽ giúp
các quốc gia này phát triển những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc hướng

về xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết hay xa xỉ từ
đó hạn chế chi tiêu ngoại tệ và thu về nhiều hơn thông qua xuất khẩu.
3. Các biện pháp bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước
Hầu hết các biện pháp được áp dụng để bảo hộ nền sản xuất trong nước
đối với công nghiệp và nông nghiệp đều tương tự nhau xét về bản chất, chỉ
khác nhau về mức độ, hình thức và tính phức tạp khi áp dụng. Hiện tại có rất
nhiều các biện pháp được sử dụng để bảo hộ sản xuất trong nước, kiểm soát
và hạn chế hàng nhập khẩu, nhưng những biện pháp bảo hộ phù hợp với
những quy định của WTO và có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước tiêu
biểu có những biện pháp sau:
3.1. Hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ
3.1.1. Hàng rào kỹ thuật thương mại ( Technical Barriers to Trade)

Là các biện pháp đề cập đến các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật
đối với hàng nhập khẩu vào nước mình. Các tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho
thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy
cách, chất lượng sản phẩm và cũng gián tiếp trở thành rào cản thương mại
trong trường hợp những tiêu chuẩn, quy định đặt ra quá khác biệt giữa các
nước.
 Các yêu cầu về nhãn mác, bao bì, đóng gói hàng hoá: tập trung chủ yếu
vào chuẩn hoá quy cách của sản phẩm chế tạo, như nhãn mác, bao bì,
đóng gói…
 Các yêu cầu về quy trình và sản xuất, thu hoạch và chế biến
 Các yêu cầu về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS): nhằm bảo vệ
cuộc sống hoặc sức khoẻ con người và động thực vật thông qua việc
bảo đảm an toàn thực phẩm và ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch
bệnh có nguồn gốc từ động thực vật.
Theo Hiệp định Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) của WTO, các
nước thành viên WTO phải tuân thủ các yêu cầu sau:
 Các tiêu chuẩn hướng dẫn và khái niệm của các tổ chức tiêu chuẩn

quốc tế như ISO, CODEX, IEC... phải được dùng làm căn cứ để thực
hiện ở các quốc gia trừ khi các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan hoặc
một phần nào đó của các tiêu chuẩn này là các cách thức không có hiệu
quả hoặc không phù hợp cho việc thực hiện các mục tiêu hợp pháp
đang đeo đuổi, ví dụ như các yếu tố căn bản về khí hậu hoặc địa lý
hoặc các vấn đề cơ bản về công nghệ.
 Quá trình xây dựng và ban hành phải theo hình thức mà các tổ chức
quốc tế đã hướng dẫn.
 Các thành viên sẽ tích cực xem xét để chấp nhận các quy định kỹ thuật
tương ứng của các thành viên khác nếu như các thành viên đó thấy rằng

các quy định này đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra các quy định của
chính mình.
 Việc xây dựng các quy định mới có khả năng cản trở thương mại phải
được thông báo kịp thời cho các nước thành viên WTO.
Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn cũng như thủ tục xác định sự phù hợp với
các quy định kỹ thuật không được tạo ra các trở ngại vô lý đối với thương mại
quốc tế, phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử và đãi ngộ quốc gia,
phải minh bạch và tiến tới hài hòa hoá.

3.1.2. Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (Sanitary and Phytosanitary Measures)
Các nước thành viên WTO có quyền đưa ra các biện pháp về kiểm dịch
động vật và thực vật cần thiết với điều kiện phải tuân theo các quy định của
hiệp định SPS ( Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures)
Theo hiệp định SPS của WTO, các nước thành viên có quyền sử dụng các
biện pháp kiểm dịch động - thực vật cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của
con người nhưng chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức
khoẻ con người, động vật và thực vật, dựa trên các nguyên tắc khoa học không
được duy trì thiếu căn cứ khoa học xác đáng và đặc biệt là không được áp
dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử không hợp lý và tuỳ tiện hay

hạn chế một cách vô lý tới thương mại quốc tế.
3.2. Trợ cấp và chống trợ cấp trong thương mại quốc tế
Trong thương mại thế giới, buôn bán công bằng và ngay thẳng là điều
kiện quan trọng để thúc đẩy tự do hoá thương mại, góp phần bảo đảm sự ổn
định và minh bạch trong thương mại. Thoả thuận về trợ cấp và chống trợ cấp
đã đạt được trong thời kỳ GATT, sau đó Hiệp định này đã tiếp tục được sửa
đổi, hoàn thiện và cấu thành nên hệ thống pháp lý của WTO ngày nay. Không
giống như Hiệp định tiền nhiệm, Hiệp định mới về trợ cấp của WTO chứa
đựng định nghĩa về trợ cấp và đưa ra khái niệm về “trợ cấp đặc thù” hay còn
gọi là “trợ cấp riêng”. Chỉ các trợ cấp đặc thù hay trợ cấp riêng mới chịu sự
điều chỉnh bởi các nguyên tắc được quy định trong hiệp định này.
Những quy định về trợ cấp được làm rõ trong Hiệp định về trợ cấp và
các biện pháp đối kháng SCM (Subsidies and Countervailing Measures) và
Hiệp định Nông nghiệp AoA (Agreement on Agriculture).
3.2.1. Định nghĩa trợ cấp:
Trợ cấp xảy ra khi một số lợi ích được chuyển giao nhờ có sự hỗ trợ
của chính phủ về giá hay thu nhập, hay có sự đóng góp tài chính của chính
phủ cũng như các tổ chức công cộng, chẳng hạn như chuyển giao trực tiếp các

khoản tiền hay bảo lãnh tín dụng; hoặc bỏ qua các khoản tiền lẽ ra phải thu
cho ngân sách nhà nước, chẳng hạn như các ưu đãi về thuế (trừ thuế gián thu);
hoặc chính phủ cung cấp hàng hoá và dịch vụ không thuộc nhóm cơ sở hạ
tầng, hay thông qua việc mua hàng hoá.
(Trích điều 1-Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng).
Trợ cấp riêng là gì?
Trợ cấp riêng là loại trợ cấp chỉ dành cho một ngành hoặc một số ngành, một
doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp nhất định, và các cơ quan có thẩm
quyền hay các văn bản pháp luật không chỉ ra một cách rõ ràng, công khai các
tiêu chuẩn khách quan để đạt được trợ cấp.
Trợ cấp áp dụng giới hạn cho các doanh nghiệp nhất định nằm trong

một vùng địa lý xác định thuộc phạm vi thẩm quyền của nhà chức trách cấp
trợ cấp thì cũng được coi là trợ cấp riêng.
Việc xác định trợ cấp riêng phải được chứng minh rõ ràng trên cơ sở chứng cứ thực tế.
(Trích điều 2 - Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
3.2.2. Hiệp định của WTO về các loại trợ cấp và các biện pháp đối kháng áp
dụng cho mỗi loại trợ cấp SCM (Subsidies and Countervailing Measures
Agreement)
Hiệp định SCM đưa ra các quy định về việc sử dụng các biện pháp trợ
cấp cũng như các quy định về những hành động một thành viên WTO có thể
sử dụng để đối phó lại ảnh hưởng của các biện pháp trợ cấp. Theo Hiệp định,
một thành viên WTO có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
để yêu cầu một thành viên khác rút lại biện pháp trợ cấp mà họ đang áp dụng,
hoặc có những phương thức khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của biện pháp trợ
cấp đó. Thành viên bị ảnh hưởng cũng có thể thực hiện điều tra riêng của
mình và có thể áp một mức thuế nhập khẩu bổ sung (được gọi là thuế chống
trợ cấp) đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp mà theo kết quả điều tra gây tổn
hại đến ngành sản xuất trong nước.

Một số quy định của Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp chống Trợ
cấp cũng tương tự như các quy định của Hiệp định về chống bán phá giá.
Thuế chống trợ cấp tương tự như thuế chống bán phá giá, chỉ có thể được áp
dụng khi nước nhập khẩu đã tiến hành điều tra tỉ mỷ về hành động trợ cấp.
Một giải pháp khác tránh cho việc áp dụng các biện pháp trợ cấp là người
xuất khẩu được trợ cấp có thể đồng ý tăng giá xuất khẩu của họ.
Hiệp định SCM công nhận rằng trợ cấp có thể đóng một vai trò quan
trọng ở các nước phát triển cũng như trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các nước kém phát triển và các
nước đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người ít hơn 1.000 Đô la Mỹ/
năm được miễn áp dụng các quy định về trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Các nước
đang phát triển khác có thời hạn là năm 2003 để dỡ bỏ các khoản trợ cấp xuất

khẩu của mình.
Có thể phân ra các loại trợ cấp sau:
Đối với các sản phẩm phi nông nghiệp, bao gồm 3 loại trợ cấp: trợ cấp bị cấm,
trợ cấp có thể đối kháng, và trợ cấp không thể đối kháng.
 Trợ cấp bị cấm
Trợ cấp có thể được sử dụng để hỗ trợ cho một ngành sản xuất non trẻ
vươn lên chiếm lĩnh thị trường hoặc vì các mục đích khác. Tuy nhiên, có một
số hình thức trợ cấp bị cấm trong WTO.
WTO đặc biệt cấm các thành viên không được sử dụng các biện pháp
trợ cấp gắn với thành tích xuất khẩu (trợ cấp xuất khẩu) cũng như các trợ cấp
gắn với việc ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng nhập khẩu (tức là trợ cấp
để sản xuất ra những sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu)
(Trích điều 3 - Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
 Trợ cấp có thể đối kháng
Điều 5 - Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO quy
định những trường hợp sau đây sẽ được coi là trợ cấp có thể đối kháng:

 Trường hợp trợ cấp được xác định rõ là đã gây ra phương hại (tổn hại) cho
nền công nghiệp nội địa của một nước hoặc vô hiệu hoá hoặc tước đi mất
lợi ích mà thông thường nước đó vẫn thu nhận được, đặc biệt là lợi ích thu
được do chế độ nhân nhượng lẫn nhau về thuế quan.
 Trường hợp trợ cấp gây ra phương hại (tổn hại) nghiêm trọng tới lợi ích
của nước thứ ba là thành viên của WTO. Quy định của WTO cũng chỉ ra
rõ rằng, phương hại (tổn hại) nghiêm trọng trong trường hợp này có nghĩa
là:
- Tổng trợ cấp tính theo giá trị của một sản phẩm vượt quá 5% trị giá
của nó.
- Trợ cấp để bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh
của một ngành sản xuất.
- Trợ cấp để bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của một doanh

nghiệp, trừ khi đó là một biện pháp nhất thời mang tính chất một lần
và không lặp lại với doanh nghiệp đó và được cấp chỉ thuần tuý để
cho phép có thời gian tìm kiếm một giải pháp lâu dài và tránh phát
sinh một vấn đề xã hội gay gắt.
- Trực tiếp xoá nợ cho doanh nghiệp, ví dụ như xoá một khoản nợ
Nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ.
Các nước thành viên của WTO sẽ không được áp dụng một trong các
loại trợ cấp đã nêu ở trên. Nếu một thành viên của WTO chứng minh được
rằng một nước thành viên khác đang áp dụng hay duy trì một khoản trợ cấp
dẫn đến thiệt hại, làm vô hiệu hoá, suy giảm hay gây phương hại nghiêm
trọng một ngành sản xuất của mình thì thành viên này có quyền khiếu nại lên
cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Nếu cơ quan này xác định điều
khiếu nại trên là đúng thì thành viên đang thực hành hay duy trì trợ cấp phải
rút bỏ ngay trợ cấp đó hoặc phải có những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác
động có hại từ việc trợ cấp đó gây ra cho các thành viên khác. Nếu không, cơ

×