Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 83 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ

NGUYỄN TRỌNG HIẾU


NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2011



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ ĐA KHOA




CẦN THƠ, 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ

NGUYỄN TRỌNG HIẾU

NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN


VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2011


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ ĐA KHOA

Người hướng dẫn khoa học
ThS.BS. NGUYỄN TẤN ĐẠT



CẦN THƠ, 2012
LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Sinh viên thực hiện đề tài




Nguyễn Trọng Hiếu

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN




Từ viết tắt Diễn giải
CES-D Center of Epidemiologic Studies Depression:
Thang đo trầm cảm của trung tâm nghiên cứu dịch tễ

ĐLC Độ lệch chuẩn
HIV/AIDS Human immunodeficiency virus/
Acquired Immune Deficiency Syndrome
Virus gây suy giảm miễn dịch người/
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
HS Học sinh
KTC Khoảng tin cậy
OR Odds ratio: Tỷ số chênh
SKTT Sức khỏe tâm thần
TB Trung bình
TH Tiểu học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
WHO World Health Organization: Tổ chức y tế thế giới


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục từ viết tắt
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. ĐỊNH NGHĨA VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN 3
1.1.1. Trầm cảm 3

1.1.2. Lo lắng 6
1.2. ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN 8
1.3. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ BẢO VỆ CỦA SỨC KHỎE TÂM THẦN 9
1.4. BỐI CẢNH VỀ CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở VIỆT NAM .13
1.5. SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 14
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 17
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 17
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: 17
2.2.2. Cỡ mẫu: 17
2.2.3. Cách chọn mẫu: 17
2.2.4. Các biến số nghiên cứu: 18
2.2.5. Không gian và thời gian nghiên cứu: 23
2.2.6. Quản lý và phân tích số liệu: 23
2.2.7. Đạo đức trong nghiên cứu: 24
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ
CẦN THƠ 25
3.1.1. Đặc điểm nhân chủng học của học sinh 25
3.1.2. Đặc điểm về môi trường gia đình của học sinh 27
3.1.3. Đặc điểm về môi trường trường học của học sinh 29
3.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG 31
3.2.1. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh 31
3.2.2. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo giới 31
3.2.3. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo trường 32
3.2.3. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo khối lớp 32
3.3. LIÊN QUAN GIỮA SỨC KHỎE TÂM THẦN VỚI ĐẶC ĐIỂM NHÂN
CHỦNG HỌC, MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH VÀ MÔI TRƯỜNG TRƯỜNG HỌC
CỦA HỌC SINH 32

3.3.1. Liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm nhân chủng học, môi trường gia
đình và môi trường trường học của học sinh 32
3.3.2. Liên quan giữa lo lắng với đặc điểm nhân chủng học, môi trường gia
đình và trường học của học sinh 37
Chương 4 BÀN LUẬN 41
4.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ
CẦN THƠ 41
4.1.1. Đặc điểm nhân chủng học của học sinh 41
4.1.2. Đặc điểm môi trường gia đình của học sinh 42
4.1.3. Đặc điểm môi trường trường học của học sinh 44
4.2. THỰC TRẠNG CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ 44
4.2.1. Đặc điểm chung về sức khỏe tâm thần của học sinh 44
4.2.2. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo giới 45
4.2.3. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo trường 46
4.2.4. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo khối lớp 47
4.3. LIÊN QUAN GIỮA SỨC KHỎE TÂM THẦN VỚI CÁC ĐẶC ĐIỂM
NHÂN CHỦNG HỌC, MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG HỌC CỦA HỌC SINH 48
4.3.1. Liên quan giữa trầm cảm với các đặc điểm nhân chủng học, môi trường
gia đình và môi trường trường học của học sinh 48
4.3.2. Liên quan giữa lo lắng với các đặc điểm nhân chủng học, môi trường gia
đình và môi trường trường học của học sinh 51
4.4. ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA NGHIÊN CỨU 53
4.4.1. Ưu điểm của nghiên cứu 53
4.4.1. Khuyết điểm của nghiên cứu 53
KẾT LUẬN 55
KIẾN NGHỊ 57
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các yếu tố nguy cơ và bảo vệ của SKTT và sự khỏe mạnh 10
Bảng 3.1. Đặc điểm giới tính và nhóm tuổi của học sinh 25
Bảng 3.2. Đặc điểm nới sinh sống của học sinh 25
Bảng 3.3. Đặc điểm về sự phân bố theo trường học và khối lớp của học sinh 26
Bảng 3.4. Đặc điểm dân tộc và tôn giáo của học sinh 26
Bảng 3.5. Đặc điểm về trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ học sinh 27
Bảng 3.6. Đặc điểm về việc lớn lên và chung sống của học sinh với gia đình 28
Bảng 3.7. Đặc điểm kinh tế gia đình và tình trạng hôn nhân của cha mẹ học sinh 28
Bảng 3.8. Đặc điểm về môi trường sống gia đình của học sinh 29
Bảng 3.9. Đặc điểm về kết quả học tập trong học kì trước của học sinh 29
Bảng 3.10. Đặc điểm về mâu thuẫn của học sinh với thầy cô và nhân viên khác
trong trường trong 12 tháng qua 30
Bảng 3.11. Đặc điểm về áp lực học tập của học sinh 30
Bảng 3.12. Đặc điểm chung về sức khỏe tâm thần của học sinh 31
Bảng 3.13. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo giới 31
Bảng 3.14. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo trường 32
Bảng 3.15. Đặc điểm sức khỏe tâm thần của học sinh theo khối lớp 32
Bảng 3.16. Liên quan giữa trầm cảm với giới tính của học sinh 33
Bảng 3.17. Liên quan giữa trầm cảm với việc lớn lên của học sinh 33
Bảng 3.18. Liên quan giữa trầm cảm với trình độ học vấn của cha 33
Bảng 3.19. Liên quan giữa trầm cảm và môi trường sống trong gia đình 34
Bảng 3.20. Liên quan giữa trầm cảm và tình trạng kinh tế gia đình 35
Bảng 3.21. Liên quan giữa trầm cảm với kết quả học tập trong học kì trước 35
Bảng 3.22. Liên quan giữa trầm cảm và áp lực học tập của học sinh 36
Bảng 3.23. Liên quan giữa trầm cảm và mâu thuẫn với thầy cô của học sinh 36
Bảng 3.24. Liên quan giữa lo lắng và giới tính của học sinh 37
Bảng 3.25. Liên quan giữa lo lắng với việc chung sống của học sinh 37
Bảng 3.26. Liên quan giữa lo lắng và trình độ học vấn của mẹ học sinh 38

Bảng 3.27. Liên quan giữa lo lắng với môi trường sống trong gia đình 38
Bảng 3.28. Liên quan giữa lo lắng với kết quả học tập trong học kì trước 39
Bảng 3.29. Liên quan giữa lo lắng và áp lực học tập của học sinh 39
Bảng 3.30. Liên quan giữa lo lắng và mâu thuẫn với thầy cô của học sinh 40






DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH

Hình 2.1. Sơ đồ biến số trong nghiên cứu 18
Biểu đồ 3.1. Thực trạng về trầm cảm và lo lắng của học sinh 31



1

ĐẶT VẤN ĐỀ


Sức khỏe tâm thần là một yếu tố quyết định quan trọng của chất lượng cuộc
sống và sức khỏe tổng thể [7]. Sức khỏe tâm thần mô tả một cảm giác sức khỏe chủ
quan, khả năng sống trong một cách tích cực và hạnh phúc, có khả năng hồi phục để
đối phó với những thách thức cuộc sống hiện tại, kiểm soát được tình cảm, và có thể
chịu trách nhiệm [34]. Những người mắc rối loạn sức khỏe tâm thần có nguy cơ
bệnh tật cao và tử vong sớm [40]. Nhìn chung, họ có sức khỏe kém cũng như có
nguy cơ cao thực hiện vào những hành vi gây hại cho sức khỏe như uống rượu, hút
thuốc lá và ít vận động [28]. Các vấn đề sức khỏe tâm thần cũng có thể làm cho việc

thực hiện những công việc bình thường hằng ngày trở nên khó khăn [37].
Tuổi trưởng thành là một giai đoạn phát triển đặc biệt, ở giai đoạn này trẻ em
bắt đầu được xem như là người lớn trong sự cân bằng giữa trách nhiệm cá nhân và
xã hội; điều này thường đi kèm với phát triển các mối quan hệ thân mật với người
khác, bắt tay vào sự nghiệp hoặc lựa chọn những con đường nghề nghiệp khác
nhau. Bằng chứng cho thấy rằng trong suốt giai đoạn phát triển này các vấn đề về
sức khỏe tâm thần rất phổ biến và đỉnh cao là các rối loạn tâm thần [28]. Tỷ lệ trầm
cảm và lo lắng trong giai đoạn này cao hơn so với bất kỳ giai đoạn nào khác của
cuộc sống, đặc biệt là các phụ nữ trẻ, những người thường có nguy cơ tham gia vào
những hành vi tự làm tổn hại bản thân, cố ý tự tử, hoặc xuất hiện các rối loạn ăn
uống [11].
Số hiện mắc và những vấn đề sức khỏe tâm thần đặc biệt là ở nhóm vị thành
niên và thanh niên trong cộng đồng ngày một tăng. Ước tính có khoảng 10% học
sinh báo cáo rằng có ý định tự tử trong vòng 12 tháng trước [25]. Bên cạnh đó,
khoảng 20% thanh thiếu niên và trẻ em Việt Nam có sức khỏe tâm thần kém [14],
[32] mà chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam đặc biệt là vùng đồng bằng sông
Cửu Long chưa được quan tâm và chỉ tập trung điều trị các bệnh lý rối loạn tâm
thần ở các bệnh viện, các trung tâm tâm thần và chủ yếu trên người lớn. Trên thế
2

giới có rất nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần của thanh niên, đặc biệt là các
quốc gia nói tiếng Anh. Tuy nhiên vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ với khu vực
Đông Nam Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Và do đó, so với các lĩnh vực
khác, sức khỏe tâm thần chưa được sự quan tâm đúng mức. Trong báo cáo của
WHO năm 2006 về chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam, tác giả Trudy
Harpham và Trần Tuấn nhận định rằng “Ở Việt Nam những bằng chứng về gánh
nặng bênh tật do các vấn đề sức khỏe tâm thần gây ra khá phức tạp và những nghiên
cứu trên lĩnh vực này chưa được phát triển” [14]. Xuất phát từ nhu cầu muốn tìm
hiểu về các vấn đề sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến sức
khỏe tâm thần của thanh thiếu niên như thế nào, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên

đối tượng học sinh trung học phổ thông để tìm hiểu các vấn đề sức khỏe tâm thần và
các yếu tố có liên quan ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của học sinh trung học
phổ thông tại thành phố Cần Thơ.
Mục tiêu của đề tài:
- Mục tiêu tổng quát: nghiên cứu thực trạng sức khỏe tâm thần và các yếu
tố liên quan của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Cần Thơ năm
2011.
- Mục tiêu chuyên biệt:
1. Xác định tỷ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học phổ
thông trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. ĐỊNH NGHĨA VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN
SKTT được định nghĩa là một trạng thái của sự khỏe mạnh và hạnh phúc,
nhận thức được khả năng của chính mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình
thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và thành công, đóng góp cho cộng đồng
của họ [38].
SKTT và các rối loạn hành vi bao gồm một loạt các rối loạn tâm lý với các
triệu chứng khác nhau nhưng nói chung chúng được đặc trưng bởi sự kết hợp hành
vi bất thường của nhận thức, tình cảm và trạng thái tâm lý tiêu cực như trầm cảm, lo
lắng làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người không chỉ về mặt sinh
học mà còn tác động lên tâm lý xã hội [38].
Cải thiện SKTT là một mục tiêu quan trọng, nó mang lại lợi ích đáng kể về
sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người và cộng đồng. Những lợi ích

này không những là kết quả của không bệnh tật mà còn là sự hiện diện của SKTT
tích cực.
1.1.1. Trầm cảm
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, đặc trưng bởi sự buồn bã,
mất sự hứng thú trong hoạt động và giảm năng lượng [5], [19]. Trầm cảm được xem
như là “một rối loạn tâm thần phổ biến biểu hiện bằng khí sắc trầm buồn, mất mọi
quan tâm và thích thú, mặc cảm tự ti và ý tưởng bị tội, mất ngủ, ăn mất ngon, thiếu
quyết đoán và giảm tập trung” [38].
Trầm cảm được phân chia thành nhiều loại như sau:
- Rối loạn trầm cảm: theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia của Hoa Kỳ,
rối loạn trầm cảm chủ yếu được đặc trưng bởi sự kết hợp các triệu chứng gây cản
trở khả năng của một người bình thường để làm việc, ngủ, học tập, ăn, và tận hưởng
các hoạt động vui chơi giải trí [6].
4

- Trầm cảm mãn tính được đặc trưng bởi một tâm trạng chán nản dài hạn
(hai năm hoặc nhiều hơn). Trầm cảm mãn tính là ít nghiêm trọng hơn so với trầm
cảm nặng và thường không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động bình thường của con
người. Nếu mắc trầm cảm mãn tính, bạn đã từng trải qua một hoặc nhiều giai đoạn
trầm cảm nặng trong suốt cuộc đời [6].
- Trầm cảm không điển hình: các triệu chứng chính của bệnh trầm cảm
không điển hình bao gồm: ăn quá nhiều, ngủ nhiều, mệt mỏi, dễ dàng từ bỏ mọi thứ
và tâm trạng xấu đi hay cải thiện ngay lập tức trong một số vấn đề [6].
- Trầm cảm lưỡng cực: rối loạn lưỡng cực - đôi khi được gọi là bệnh hưng
trầm cảm là một rối loạn tâm trạng phức tạp thay đổi theo các giai đoạn của trầm
cảm lâm sàng và thời gian hưng cảm [6].
- Trầm cảm theo mùa: thường được gọi là rối loạn tình cảm theo mùa, là
một loại trầm cảm xảy ra mỗi năm tại cùng một thời điểm. Nó thường bắt đầu vào
mùa thu hoặc mùa đông, và kết thúc vào mùa xuân hoặc đầu mùa hè. Một dạng
hiếm của loại trầm cảm này được gọi là "trầm cảm mùa hè", bắt đầu vào cuối mùa

xuân hoặc đầu mùa hè và kết thúc vào mùa thu [6].
- Trầm cảm tâm thần: các triệu chứng của trầm cảm sẽ đi kèm với các triệu
chứng của rối loạn tâm thần như ảo giác và ảo tưởng [6].
- Trầm cảm sau sinh: theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia của Hoa Kỳ,
trầm cảm sau sinh được chẩn đoán khi một người mẹ trải qua một giai đoạn trầm
cảm trong vòng một tháng sau khi sinh [6].
Các triệu chứng của rối loạn trầm cảm: khí sắc trầm buồn, mất mọi quan
tâm và hứng thú, ăn mất ngon, rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm thần vận động, mất
sinh lực, mặc cảm tự ti và ý tưởng bị tội, thiếu quyết đoán và giảm tập trung, ý
tưởng tự sát, lo lắng, ảo giác, ảo tưởng, các triệu chứng thực thể như buồn nôn, táo
bón, thở sâu, đau ngực, chuột rút,… [5], [6].
Nguyên nhân của trầm cảm: trầm cảm là một căn bệnh vô cùng phức tạp,
có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến trầm cảm như mắc bệnh lý thực thể hoặc
5

thay đổi cuộc sống như sự di cư hoặc mất mát người thân yêu, trong gia đình có
người bệnh trầm cảm và có thể không tìm được nguyên nhân.
- Lạm dụng về thể chất, tình dục và tình cảm.
- Một số thuốc ví dụ thuốc điều trị tăng huyết áp.
- Mâu thuẫn hoặc tranh chấp với các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè.
- Cái chết hoặc sự mất mát.
- Di truyền học: gia đình có người bị trầm cảm có thể làm tăng nguy cơ.
- Các sự kiện chính trong cuộc đời ngay cả những sự kiện như bắt đầu một
công việc mới, tốt nghiệp hoặc kết hôn có thể dẫn đến trầm cảm.
- Vấn đề cá nhân khác như sự cô lập và cách ly xã hội hoặc bị đuổi khỏi gia
đình có thể dẫn đến trầm cảm.
- Bệnh tật
- Lạm dụng chất kích thích, gần 30% những người lạm dụng chất gây nghiện
có nguy cơ trầm cảm nặng [6].
Trầm cảm là một vấn đề y tế công cộng quan trọng vì nó là tương đối phổ

biến và tính chất tái phát của nó đã phá vỡ một cách sâu sắc cuộc sống của bệnh
nhân. Trầm cảm dẫn đến rối loạn chức năng đáng kể trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống đối với bệnh nhân. Mặc dù, trầm cảm chủ yếu là bệnh tâm lý nhưng triệu
chứng thực thể rất phổ biến ở những người bị trầm cảm. Trầm cảm xuất hiện trong
nhiều bệnh lý và những người bị trầm cảm có thể mắc các bệnh lý thứ phát khác.
Hơn nữa, tự tử là một nguy cơ chính trong quá trình trầm cảm. Vì vậy, trầm cảm
phải được chẩn đoán và điều trị giống như bất kì bệnh lý khác. Sự hỗ trợ về xã hội
và thuốc men tốt đều rất cần thiết để phục hồi sức khỏe tốt ở những bệnh nhân trầm
cảm [19].
Theo WHO, trầm cảm đang trở nên phổ biến và là một trong những nguyên
nhân hàng đầu dẫn đến bệnh tật trên toàn thế giới, ước tính khoảng 121 triệu người.
Đến năm 2020, trầm cảm sẽ là nguyên nhân gây bệnh đứng hàng thứ hai cho mọi
lứa tuổi, mọi giới [40]. Một nghiên cứu tổng hợp trên trầm cảm ở trẻ em và thanh
thiếu niên cho thấy khoảng 1% đến 2% trẻ trước tuổi dậy thì và 3% đến 8% thanh
6

thiếu niên từng bị trầm cảm ở bất cứ thời điểm nào trong cuộc sống [12]. Trong
những nghiên cứu khác, tỉ lệ trầm cảm thay đổi từ 22% đến 60% trong thanh thiếu
niên nói chung phụ thuộc vào các thang đo. Ước tính có khoảng 5- 10% dân số ở
bất cứ thời điểm nào mắc chứng trầm cảm mà họ có thể nhận biết được và cần điều
trị tâm thần hay can thiệp tâm lí xã hội. Trầm cảm tạo ra một gánh nặng bệnh tật rất
lớn và điều này dự kiến cho thấy một xu hướng gia tăng trong 20 năm nữa [19].
Kết quả tìm thấy từ nghiên cứu Yaacob S. N. và cộng sự (trường đại học
Putra Malaysia) ở vị thành niên Malaysia lứa tuổi từ 13 đến 17 cho thấy có 24,2%
HS THPT và THCS tuổi từ 13 đến 17 được xếp loại trầm cảm (có điểm số trên 20
dựa trên Children Depression Inventory thông qua bộ câu hỏi tự điền). Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy rằng sự cô độc, căng thẳng tâm lý và lòng tự trọng có mối
liên quan đến trầm cảm và sự căng thẳng là yếu tố dự đoán quan trọng nhất đối với
trầm cảm ở vị thành niên [41]. Một nghiên cứu cắt ngang (đề tài nghiên cứu sinh
của Choo Wan Yuen) cũng được tiến hành ở 20 trường THPT (bao gồm 2 khu vực

thành thị và nông thông) ở Malaysia cho thấy rằng ngược đãi tình cảm có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê đối với trầm cảm, lo lắng, lòng tự trọng và tự tử ở HS
THPT [8].
1.1.2. Lo lắng
Lo lắng được mô tả như “một trong những cảm giác mà chúng ta trải qua khi
chúng ta chịu áp lực từ các vấn đề thể chất, xã hội, kinh tế và tâm lý” [36], [41]. Lo
lắng là một cảm xúc bình thường của con người mà tất cả mọi người đã từng trải
qua trong cuộc sống như khi phải đối mặt với các vấn đề khó khăn trong công việc,
trước khi tham gia một kì thi hoặc khi đưa ra một quyết định quan trọng. Tuy nhiên
rối loạn lo lắng thì khác biệt, chúng gây ra những căng thẳng về mặt tâm lý ảnh
hưởng và cản trở khả năng điều khiển cuộc sống bình thường của con người [6].
Rối loạn lo lắng là một bệnh lý tâm thần nghiêm trọng. Đối với những người
bị rối loạn lo lắng, sự lo âu và sợ hãi luôn xuất hiện, lấn át cuộc sống và làm tê liệt
họ. Có rất nhiều loại rối loạn lo lắng bao gồm:
7

- Rối loạn hoảng sợ: những người có tình trạng có cảm giác khiếp sợ xuất
hiện đột ngột và lặp lại mà không có bất cứ một cảnh báo nào [6].
- Rối loạn ám ảnh bắt buộc: những người này bị ảnh hưởng bởi những suy
nghĩ hoặc nỗi sợ hãi liên tục khiến họ làm những hành động hoặc có những thói
quen không bình thường, đây là những ám ảnh có tính bắt buộc. Ví dụ một người sợ
vi khuẩn một cách vô lý thì rửa tay của họ liên tục [6].
- Rối loạn căng thẳng sau sang chấn tâm lý: đây là một rối loạn có thể xuất
hiện sau một sang chấn tâm lý hoặc một sự kiện đáng sợ, chẳng hạn như sau khi bị
cưỡng hiếp, xâm hại thể chất, cái chết bất ngờ của một người thân yêu hoặc một
thảm họa tự nhiên [6].
- Rối loạn lo âu xã hội: còn được gọi là ám ảnh xã hội, liên quan đến việc lo
lắng quá nhiều và tự suy nghĩ về những tình huống xã hội hàng ngày. Những lo lắng
thường tập trung vào nỗi sợ hãi bị người khác đánh giá hoặc cư xử một cách nào đó
có thể gây bối rối hoặc bị mọi người chế giễu [6].

- Ám ảnh đặc biệt: một nỗi ám ảnh một đối tượng hoặc tình hình cụ thể,
chẳng hạn như rắn, độ cao hoặc đi máy bay [6].
- Rối loạn lo lắng không chuyên biệt: rối loạn này liên quan đến việc lo
lắng, căng thẳng quá mức ngay cả khi có rất ít hoặc không có yếu tố kích phát lo
lắng [6].
Các triệu chứng của rối loạn lo lắng: tùy thuộc vào loại rối loạn lo lắng,
nhưng triệu chứng chung bao gồm: cảm giác hoảng loạn, sợ hãi và lo lắng; những
suy nghĩ ám ảnh không thể kiểm soát được; sự hồi tưởng về sang chấn tâm lý lặp đi
lặp lại; ác mộng; hành vi bất thường, chẳng hạn như rửa tay lặp đi lặp lại; rối loạn
giấc ngủ; bàn tay, bàn chân lạnh, vã mồ hôi; khó thở, đánh trống ngực; không có
khả năng giữ bình tĩnh; khô miệng, tê hoặc ngứa ran ở bàn tay hoặc bàn chân, buồn
nôn, căng cơ, chóng mặt [6].
Nguyên nhân của sự lo lắng: nguyên nhân phổ biến của sự lo lắng chính là
các bệnh lý tâm thần. Tuy nhiên, các yếu tố bên ngoài có thể gây ra sự lo lắng như:
- Áp lực công việc, học tập, tài chính,…
8

- Áp lực trong mối quan hệ cá nhân như hôn nhân.
- Sang chấn tình cảm.
- Áp lực từ bệnh lý của cơ thể.
- Tác dụng phụ của thuốc.
- Sử dụng một loại thuốc bất hợp pháp, chẳng hạn như cocaine…
- Triệu chứng của một căn bệnh (như đau tim, hạ đường huyết, đột quỵ,…)
- Thiếu oxy trong những trường hợp như say độ cao, khí phế thủng, hoặc
thuyên tắc phổi (một cục máu đông trong mạch phổi) [6].
Lo lắng là một phản ứng bình thường của sự căng thẳng. Nó có thể giúp một
người phản ứng nhanh chóng trong một tình huống nguy hiểm, để đối phó với một
hoàn cảnh khó khăn trong công việc hoặc ở trường bằng cách thúc đẩy người đó đối
phó với nó. Khi lo lắng trở nên quá nhiều, nó được xếp vào phân loại của một rối
loạn lo lắng [24]. Lo lắng khi gặp hay tiếp xúc với những người lạ là một giai đoạn

phát triển chung của những người trẻ tuổi. Đối với những người khác, nó có thể kéo
dài đến khi trưởng thành và trở thành lo lắng xã hội hay ám ảnh xã hội. Ở tuổi
trưởng thành, một nỗi sợ hãi người khác quá mức không phải là một giai đoạn phát
triển bình thường mà được gọi là lo lắng xã hội.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng sự lo lắng không chỉ bao gồm triệu
chứng thể chất mà còn bao gồm nhiều triệu chứng liên quan đến cảm xúc, chúng
bao gồm: "cảm giác lo lắng hoặc sợ hãi, khó tập trung, cảm giác căng thẳng hoặc
bồn chồn, dự đoán những điều tồi tệ nhất, cáu gắt, không được nghỉ ngơi, xem xét
(và chờ đợi) cho các dấu hiệu (hoặc các sự cố) hoặc sự nguy hiểm, và cảm giác
giống như tâm trí của bạn trống rỗng" [29]. Ngoài ra, "cơn ác mộng, ám ảnh về cảm
giác, một cảm giác bị mắc kẹt trong tâm trí của bạn và cảm giác giống như mọi thứ
đều đáng sợ".
1.2. ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN
Những rối loạn hành vi, thần kinh, tâm thần xảy ra trên toàn cầu và gây ra
hậu quả to lớn. Những người này thường bị xã hội cô lập, chất lượng cuộc sống trở
nên nghèo nàn và thường chết sớm [39]. Hàng trăm, hàng triệu người trên toàn thế
9

giới bị ảnh hưởng bởi những rối loạn tinh thần, hành vi, thần kinh và sử dụng chất
gây nghiện. Ví như các ước tính của WHO năm 2002 cho thấy rằng 154 triệu người
trên toàn cầu bị trầm cảm và 25 triệu người tâm thần phân liệt, 91 triệu người bị ảnh
hưởng bởi rối loạn sử dụng rượu, và 15 triệu người bị rối loạn do sử dụng ma túy
[39]. Ngoài ra, báo cáo về gánh nặng bệnh tật toàn cầu ghi nhận rằng 850000 người
chết do tự tử mỗi năm, 86% trong số đó ở các nước đang phát triển và có thu nhập
thấp và hơn nửa trong số đó có độ tuổi từ 15 đến 44 [40].
Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng SKTT vẫn còn một sự ưu tiên thấp ở các
nước đang phát triển và thu nhập thấp. Các nước này có xu hướng ưu tiên kiểm soát
và loại trừ các bệnh truyền nhiễm và sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ hơn so với
SKTT [26]. Trung bình, cứ một trong bốn bệnh nhân đến một dịch vụ y tế tại bất kỳ
thời gian nào có ít nhất một bệnh nhân có rối loạn tâm thần, thần kinh hoặc hành vi

nhưng hầu hết các rối loạn này không được chẩn đoán cũng như điều trị [28]. Bệnh
tâm thần ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi các bệnh mãn tính như tim mạch, ung thư,
đái tháo đường và HIV/AIDS [28]. Thiếu nhận thức về SKTT và thiếu hiểu biết về
lợi ích của SKTT tích cực là những rào cản để xác định bệnh tâm thần. Hầu hết các
nước phát triển và có thu nhập thấp dành ít hơn 1% chi phí y tế của họ cho SKTT;
việc điều trị bệnh tâm thần, chính sách và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng
không được ưu tiên trong ngân sách chăm sóc sức khỏe.
1.3. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ BẢO VỆ CỦA SỨC KHỎE TÂM THẦN
Yếu tố nguy cơ liên quan với "một xác suất gia tăng của sự khởi đầu, sự kéo
dài lâu hơn và nghiêm trọng hơn của các vấn đề sức khỏe chủ yếu". Yếu tố bảo vệ
liên quan đến tình trạng "cải thiện sức đề kháng của con người đến các rối loạn và
các yếu tố nguy cơ". Chúng được định nghĩa là những yếu tố "làm sửa đổi, cải thiện
hoặc thay đổi phản ứng của một người đối với sự nguy hiểm của môi trường mà tạo
ra sự thích nghi không hiệu quả" [27]. Bảng 1.1 tóm lược về các yếu tố nguy cơ và
bảo vệ ảnh hưởng đến SKTT và sự khỏe mạnh của con người.
10

Bảng 1.1. Các yếu tố nguy cơ và bảo vệ của SKTT và sự khỏe mạnh
Yếu tố bảo vệ Yếu tố nguy cơ
- Tham gia tích cực các hoạt động
- Thời thơ ấu: những trải nghiệm tích cực.
- Bản sắc văn hóa
- Được hoan nghênh, chia sẻ, quý trọng
- Giáo dục: dễ tiếp cận
- Môi trường sống: an toàn
- Sự cảm thông.
- Tự cường và tự quyết.
- Gia đình: linh hoạt, kiến thức nuôi con,
quan hệ tốt với cha mẹ và các thành viên
khác trong gia đình.

- Thực phẩm; dễ mua, chất lượng
- Nhà cửa: giá phù hợp, dễ tìm.
- Thu nhập: an toàn, dễ tìm việc, điều kiện
làm việc tốt.
- Linh hoạt và kĩ năng xã hội tốt.
- Sức khỏe tốt.
- Sự tôn trọng.
- Tham gia công tác xã hội: quan hệ tốt
mạng lưới nhóm và cộng đồng.
- Thể thao và giải trí: tham gia tốt.
- Phương tiện vận chuyển: dễ tiếp cận và
giá cả phù hợp.
- Dịch vụ: dễ tiếp cận.
- Đời sống tinh thần.
- Rượu và ma túy: tiếp cận và lạm dụng.
- Bất lợi xã hội và kinh tế
- Sự đổi chỗ: tị nạn và xin tị nạn.
- Khuyết tật.
- Sự phân biệt chủng tộc và sự sỉ nhục.
- Giáo dục: không tiếp cận được.
- Môi trường: không an toàn, đông đúc,
nghèo tài nguyên.
- Gia đình: tan vỡ, bất hòa, bỏ bê con
cái, trầm cảm sau sinh.
- Thực phẩm: không đủ, không mua
được.
- Bệnh di truyền, bệnh lý thực thể.
- Sự cô lập và cách ly: xã hội và địa lý.
- Thiên tai và thảm họa.
- Vô gia cư.

- Bạn bè xa lánh.
- Sự đàn áp về chính trị.
- Không vận động thể lực.
- Sự nghèo đói: xã hội và kinh tế.
- Sự phân biệt chủng tộc.
- Thất nghiệp, điều kiện làm việc kém,
công việc không an toàn.
- Nạn bạo hành: giữa người với người.
- Công việc: căng thẳng.
Nguồn: Điều lệ Melbourne cho tăng cường sức khỏe tâm thần và ngăn
ngừa các rối loạn hành vi và tâm thần. (Điều lệ Melbourne, 2008)[35].
11

Các yếu tố bảo vệ là lòng tự trọng, tình cảm kiên cường, suy nghĩ tích cực,
giải quyết vấn đề và kỹ năng xã hội, kỹ năng đối phó với sự căng thẳng và cảm giác
làm chủ. Có nhiều bằng chứng chứng minh rằng các yếu tố nguy cơ và bảo vệ có
liên quan đến sự phát triển của rối loạn tâm thần [17]. Cả hai yếu tố nguy cơ và bảo
vệ có thể là mô hình của từng cá nhân, đặc điểm liên quan đến gia đình, các hoạt
động xã hội (trong và ngoài trường học), tình trạng kinh tế của từng người hoặc của
gia đình và môi trường tự nhiên. Các tác động tích lũy của sự hiện diện nhiều yếu tố
nguy cơ, thiếu yếu tố bảo vệ và tương tác giữa các vấn đề rủi ro và bảo vệ có thể
dẫn con người chuyển từ tình trạng khỏe mạnh về tinh thần đến tăng nguy cơ mắc
bệnh và sau đó là các rối loạn tâm thần.
Đặc điểm nhân chủng học
Giới tính cũng đóng một vai trò trong việc quyết định SKTT. So với nam
giới, nữ giới có nguy cơ làm gia tăng sự trầm cảm, lo lắng, rối loạn ăn uống, gây hại
cho bản thân, ám ảnh, ám ảnh cưỡng bức và rối loạn hoảng sợ [11]. Theo Hankin,
nữ là yếu tố nguy cơ của các rối loạn trầm cảm và sự gia tăng các triệu chứng trầm
cảm trong thanh thiếu niên [13] trong khi tình trạng kinh tế xã hội gia đình thấp có
mối liên kết với trầm cảm ở các nước phương Tây và châu Á [15], gia đình nghèo

khó từng trải trầm cảm nhiều hơn các gia đình có thu nhập cao. Các nghiên cứu của
các tác giả trong nước cũng tìm thấy mối liên quan của giới tính với trầm cảm và lo
lắng [25], [35]. Hơn nữa, sống ở vùng nông thôn là một yếu tố dự đoán mạnh mẽ
của các rối loạn SKTT của thanh thiếu niên [23].
Đặc điểm môi trường gia đình
Trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ cũng có ảnh hưởng lên trầm
cảm ở lứa tuổi này. Ở Trung Quốc, HS từ các gia đình có trình độ học vấn của cha
mẹ thấp và làm những nghề bất lợi như nông dân hoặc thất nghiệp thì có mức độ
các triệu chứng trầm cảm cao hơn [30]. Các yếu tố cá nhân bao gồm lòng tự trọng,
hành động bắt chước tiêu cực, tiền sử bị lạm dụng và bỏ bê là yếu tố dự đoán mạnh
mẽ của trầm cảm và các rối loạn tâm thần khác [20]. Các nghiên cứu tại Việt Nam
cũng cho thấy mối liên quan của các vấn đề SKTT với đặc điểm gia đình như trình
12

độ học vấn của mẹ, nghề nghiệp của mẹ [35], trong khi đó nghiên cứu của tác giả
Trần Bích Phương lại tìm thấy mối liên quan với việc sống chung cha mẹ của HS,
tình trạng hôn nhân của cha mẹ và nghề nghiệp của cha [25].
Liên quan đến môi trường gia đình, HS từ những gia đình tan vỡ có cha mẹ
ly dị, mối quan hệ trong gia đình kém dễ xảy ra các rối loạn về tâm thần hơn. Hơn
nữa, các nghiên cứu về mối quan hệ cha mẹ và con cái chỉ ra rằng con cái cãi nhau
liên tục với cha mẹ về các vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống gia đình như công việc
nhà, lựa chọn quần áo, bạn bè và bài tập về nhà có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn
so với HS khác [22].
Đặc điểm môi trường trường học
Nghiên cứu của Resknick và cộng sự (1997) cho thấy mối liên hệ với nhà
trường tốt thì HS ít có rối loạn về cảm xúc, suy nghĩ tự tử, bạo lực, lạm dụng thuốc
và hành vi tình dục. Các nghiên cứu SKTT tại Việt Nam đều cho thấy mối liên quan
của trầm cảm, lo lắng với thành tích học tập, thành tích học tập trong học kì trước
càng thấp thì HS có nguy cơ lo lắng và trầm cảm càng cao [25], [35]. Ngoài thành
tích học tập, áp lực học tập trong nhà trường cũng là vấn đề đáng lưu tâm nhất là

hiện nay khi cải cách giáo dục đang còn nhiều tranh cãi, HS phải chịu một áp lực
học tập nặng nề từ chương trình học quá tải. Có nhiều nghiên cứu về vấn đề áp lực
học tập như của tác giả Sun, Thái Thanh Trúc đã chứng minh rằng có một sự liên
quan chặt chẽ giữa áp lực học tập, lo lắng về điểm số, sự chán nản, sự trông mong ở
bản thân và quá tải công việc với SKTT bao gồm trầm cảm [30], [31]. Ngày nay,
việc học thêm của HS trở nên khá phổ biến, ảnh hưởng của vấn đề này đến áp lực
học tập của HS được nghiên cứu trong thanh thiếu niên thành phố Hồ Chí Minh
nhưng chưa có nghiên cứu nào cho thấy liên quan của vấn đề này với SKTT của
thanh thiếu niên.
Các hành vi nguy cơ sức khỏe
Thanh thiếu niên là lứa tuổi dễ tác động nhất trong các giai đoạn của sự phát
triển, khi một đứa trẻ tiếp xúc với môi trường bên ngoài đòi hỏi sự tái thích nghi với
nhà trường, gia đình và xã hội. Các rối loạn SKTT làm gia tăng các nguy cơ bệnh
13

tật và các hành vi nguy cơ sức khỏe như hút thuốc lá, uống rượu, cố gắng giảm cân,
lái xe không an toàn và tự tử cho dù chúng được giải quyết.
Hành vi tự tử được tập trung nghiên cứu trên toàn thế giới trong những năm
gần đây vì nó có mối quan hệ mật thiết với các vấn đề SKTT ở thanh thiếu niên.
Theo WHO, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử, điều này làm mất đi 850000 mạng
người mỗi năm. 6,3% HS trong nghiên cứu của Thái Thanh Trúc suy nghĩ tự tử
trong vòng 12 tháng qua đồng thời nữ giới lại có khuynh hướng thực hiện hành vi tự
tử nhiều hơn nam giới chiếm đến 8,2% [31] trong khi đó nghiên cứu trong sinh viên
Đại học Y Dược Cần Thơ là 6,6% [9] và nghiên cứu trong sinh viên điều dưỡng và
y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh lên đến 9,5% [35].
Hút thuốc lá đang trở nên phổ biến trong thanh thiếu niên và là một trong
những hành vi nguy cơ quan trọng gây ra các vấn đề sức khỏe trong lứa tuổi này
nhiều hơn so với các yếu tố khác [10]. Những nghiên cứu tại Việt Nam báo cáo tỉ lệ
thanh thiếu niên hút thuốc lá như sau: 3,2% trong nghiên cứu ở sinh viên đại học
của Nguyễn Tấn Đạt và Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, 3,7% trong nghiên cứu của Thái

Thanh Trúc trong HS ở thành phố Hồ Chí Minh, 10,2% trong thanh thiếu niên
Malaysia [8], [9], [31], [35]. Hút thuốc được cho rằng có mối liên hệ chặt chẽ với
hành vi tự tử và các vấn đề SKTT cũng như khả năng học thuật [18].
Tại Việt Nam, một cuộc khảo sát năm 2010 khoảng 10044 thanh thiếu niên
(38% từ 14-17 tuổi) cho thấy rằng 59% người tham gia từng uống rượu – nam giới
nhiều hơn nữ giới và 20,4% người tham gia nghiên cứu từng hút thuốc lá (39,5%
nam và 0,6% nữ).
1.4. BỐI CẢNH VỀ CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở VIỆT NAM
Nước ta đã thay đổi một cách nhanh chóng trong hai thập kỷ qua. Sự phát
triển về mặt kinh tế và chính sách mở cửa đã thúc đẩy cả sự phát triển về mặt kinh
tế và sự thay đổi về mặt xã hội. Mặt trái của sự thay đổi đó là sự thay đổi về mô
hình bệnh tật. Các bệnh phổ biến của phần lớn các bộ phận dân số là những bệnh
liên quan đến nghèo đói trước đây không còn nữa, nhưng các bệnh lý được tìm thấy
phổ biến ở các xã hội có kinh tế phát triển đã bắt đầu tăng lên [2], [42]. Tuy nhiên,
14

không có nhiều nghiên cứu tập trung vào SKTT trong dân số Việt Nam. Trong một
nghiên cứu có giá trị để đánh giá vốn xã hội và SKTT ở Việt Nam xuất bản năm
2003, Trần Tuấn và cộng sự ghi nhận rằng "sự quan tâm đến SKTT ở Việt Nam là
chậm phát triển" [33].
Trong những năm gần đây (từ năm 2006 đến nay), nhiều vấn đề SKTT
trong HS như căng thẳng tâm lý, lo lắng, trầm cảm và vấn đề tự tử đã được cảnh
báo rất nhiều. Ước tính có khoảng 20% thanh thiếu niên và trẻ em Việt Nam có sức
khỏe tâm thần kém [14], [32]. Vào thời điểm đó, McKelvey nhấn mạnh các dịch vụ
SKTT cho trẻ em ở Việt Nam đặc biệt hạn chế do ưu tiên về các vấn đề sức khỏe
khác, chẳng hạn như các bệnh truyền nhiễm và suy dinh dưỡng.
Gần đây, các kết quả từ nghiên cứu luận văn thạc sỹ Trần Bích Phương
(2007) đối với SKTT của HS trung học ở Việt Nam cho rằng sự lạm dụng ma túy và
rượu của cha mẹ, nghèo đói, mối quan hệ bất hòa của cha mẹ và hôn nhân tan rã
trong suốt thời thơ ấu có liên quan với nguy cơ gia tăng các triệu chứng trầm cảm,

lo lắng trong tuổi vị thành niên [25]. Trong khi đã có một số cơ sở, số liệu điều tra
thu thập trên tình trạng SKTT hiện tại của thanh niên Việt Nam ít được thực hiện để
khám phá chiều sâu, mức độ nghiêm trọng, yếu tố liên quan của những vấn đề này
và khả năng đáp ứng của các dịch vụ sức khỏe cộng đồng.
1.5. SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Một nghiên cứu cắt ngang trong đề tài nghiên cứu sinh của tiến sỹ Nguyễn
Thanh Hương, trường đại học Y tế công cộng Hà Nội – Ngược đãi trẻ em ở Việt
Nam: Tỷ lệ hiện mắc và đến các vấn đề sức khỏe tâm thần và thể chất, năm 2006 –
cho thấy có khoảng từ 17,6% ở HS THPT ở thành phố Hà Nội có cảm giác buồn
chán và tuyệt vọng mỗi ngày trong 2 tuần trong vòng 12 tháng qua và 9,2% HS đã
từng thực hiện hành vi tự tử trong vòng 12 tháng trước thời điểm thực hiện nghiên
cứu. Điều quan trọng được tìm thấy trong nghiên cứu này là mối liên quan có ý
nghĩa thống kê của mỗi hình thức ngược đãi và tác động cộng dồn của các hình thức
ngược đãi lên SKTT: hành vi nguy cơ, trầm cảm, lo lắng, lòng tự trọng và sức khỏe
thể chất của HS phổ thông [16].
15

Nâng cao sức khỏe tâm thần HS – Chương trình thí điểm tại 2 trường THCS
Chu Văn An và Tả Thanh Oai, Hà Nội được tiến hành từ năm 2007 đến 2008.
Trong đánh giá ban đầu trước can thiệp đã cho thấy rằng tình trạng lo lắng, trầm
cảm, hành vi nguy cơ đối với sức khỏe là đáng lưu ý (17% có biểu hiện lo lắng;
15,4% có biểu hiện trầm cảm; 10,5% có nghĩ đến tự tử; 6,3% có dự định tự tử…).
Tuy nhiên, đánh giá sau can thiệp chưa thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê và
đề tài cũng có một số hạn chế vi phạm vi nhỏ, triển khai chỉ ở 2 trường, không có
nhóm đối chứng nên hạn chế việc kiểm soát yếu tố nhiễu do chương trình can thiệp
mang lại [3].
Một nghiên cứu cắt ngang khác cũng đã được tiến hành trên HS THPT và
THCS ở thành phố Hà Nội, đề tài thạc sỹ của Trần Bích Phương, năm 2007 về “cải
thiện kiến thức về các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của học sinh Việt
Nam”. Nghiên cứu này đã cho thấy khoảng 10% HS báo cáo rằng có ý định tự tử

trong vòng 12 tháng trước. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng sự gắn kết của nhà trường,
sự quan tâm của cha mẹ là các yếu tố bảo vệ, trong khi đó bị bắt nạt ở trường và bảo
vệ quá mức của cha mẹ, tình trạng hôn nhân của cha mẹ, kinh tế gia đình, tình trạng
nghiện rượu của cha mẹ, có liên quan đến trầm cảm, lo lắng và hành vi tự tử của HS.
HS ở các trường thành thị có SKTT kém hơn HS ở vùng ngoại ô [25].
Trong một đề tài thạc sỹ của Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh năm 2009 – Khảo sát
sức khỏe tâm thần của sinh viên y tế công cộng và điều dưỡng tại thành phố Hồ Chí
Minh, cũng đã chứng minh rằng các yếu tố gia đình, trường học và xã hội có liên
quan đến SKTT của sinh viên [35].
Tương tự như nghiên cứu của tiến sỹ Nguyễn Thanh Hương, một nghiên cứu
cắt ngang – đề tài thạc sỹ của Nguyễn Tấn Đạt về ngược đãi trẻ em và sức khỏe tâm
thần của sinh viên năm thứ nhất của trường Đại Học Y Dược Cần Thơ năm 2009,
cho thấy tỷ lệ sinh viên có cảm giác buồn chán và tuyệt vọng mỗi ngày trong hai
tuần trong vòng 12 tháng trước nghiên cứu là rất cao 34%. Tỷ lệ sinh viên có ý định
tự tử và có hành vi tự tử trong vòng 12 tháng qua lần lượt là 6,6% và 1,2% [9].

×