1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHIỀU CAO CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 3-5 TUỔI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
BÀI TẬP TỐT NGHIỆP HỆ ĐẠI HỌC TẠI CHỨC
NGÀNH MẦM NON
Sinh viên : Dương Huyền Chân (lớp K5 ĐHMN CÀ MAU)
Người HD : Thạc sĩ Hoàng Quý Tỉnh
Cà Mau, ngày 20 tháng 09 năm 2011
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này chúng tôi đã
nhận được sự dạy bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình.
Đặc biệt, khoá luận này được với sự hướng dẫn tận tình của thầy Hoàng Quý
Tỉnh – Thạc sỹ - Giảng viên khoa Giáo dục Mầm non, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
Toi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban Chủ nhiệm khoa Giáo Dục
Mầm Non và các thầy cô trong Tổ Bộ môn Giáo Dục Thể chất đã tạo mọi điều kiện
trong quá trình hoàn thành khoá luận của mình.
Chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu nhà trường và các bậc
phụ huynh Trường Mẩu Giáo Quách Phẩm Bắc –Xã Quách Phẩm Bắc – Huyện Đầm
Dơi – Tỉnh Cà Mau đã tận tình giúp đỏ trong quá trình thu thập số liệu.
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn mọi sự giúp đở quý báu đó.
Sinh viên: Dương Huyền Chân
2
MỤC LỤC
CHƯƠNG I : PHẦN MỞ ĐẦU 4
1.Lý do chọn đề tài 4
2.Tên đề tài nghiên cứu 5
3.Mục đích nghiên cứu 5
CHƯƠNG II.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 6
I.Đặc diểm sinh lý và nhu cầu năng của trẻ em 6
II.Một số chỉ số nhân trắc 6
III.Một số khái niệm liên quan 6
IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
1.Những nghiên cứu trên thế giới 7
2.Nghiên cứu tại việt nam 8
CHƯƠNG III:ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I.Đối tượng nghiên cứu 10
II.Địa bàn nghiên cứu 10
III.Phương pháp nghiên cứu 10
1.Phương pháp nhân trắc
2.Phương pháp phỏng vấn sử dụng bảng hỏi kết hợp với phỏng vấn sâu
3.Phương pháp xử lý số liệu
4.Hạn chế của nghiên cứu
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
I. Thông số thông tin chung 12
II.Sự phát triển chiều cao trong nghiên cứu 14
3
III.Mối liên quan giữa tình trạng SDD với sự phát triển chiều cao
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
PHỤ LỤC 26
CHƯƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong bất kỳ thời kỳ lịch sử nào và với mọi chế độ xã hội thì việc đào tạo con
người vô cùng quan trọng đặc biệt là ở trẻ nhỏ vì mổi trẻ em là một tài sản quý giá ,là
chủ nhân tương lai của đất nước, là những con người sẻ tiếp bước kế tục sự nghiệp
của cha ông. Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
.Vì nền giáo dục mầm non nhằm phát triển các khả năng của trẻ,đặt nền móng đầu tiên
cho nhân cách toàn diện của con người .
Một quốc gia cường thịnh văn minh chỉ khi có những con người khỏe mạnh.Vì
vậy chăm sóc giáo dục trẻ càng mang một ý nghĩa nhân văn cụ thể và trở thành một
đạo lý của thế giới văn minh.Cho nên để có một thế hệ hoàn thiện nhân cách toàn diện
trong tương lai thì phải đảm bảo cung cấp cho trẻ nền móng phát triển thể chất tốt.
Giáo dục mầm Non là một mắc xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
ở nước ta. Mục đích chung của giáo dục mầm non là phát triển tất cả các khả năng của
trẻ , hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, tạo điều kiện
cho trẻ, có nhiều cơ may thắng lợi trên co n đường học hành cũng như trên cuộc sống.
Để tạo ra những con người phát triển toàn diện, đáp ứng các nhu cầu của xã hội
đề ra thì một trong những yếu tố cần thiết đó là phải có một sức khoẻ tốt. Nếu không
có một sức khoe, một thể lực tốt thì sẽ ảnh hưởng mọi hoạt động.
Việc xác định các kích thước nhân trắc của trẻ mầm non (đặc biệt là chiều cao
và cân nặng) là một việc quan trọng và cần được tiến hành lại sau một khoảng thời
gian nhất định để theo dõi sự phát triển của trẻ. Các kích thước này là những chỉ số
quan trọng nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng, thể lực của trẻ mầm non, rồi từ đó có
thể đưa ra những biện pháp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng, thể lực, chăm sóc
sức khoẻ của trẻ mầm non trong cộng đồng nghiên cứu. Năm 2006 WHO đã công bố
chuẩn tăng trưởng thứ nhất trẻ em dưới 5 tuổi gồm các chuẩn về chiều cao theo tuổi
(chiều cao /tuổi), cân nặng theo tuổi (cân nặng- tuổi), cân nặng theo chiều cao (cân
nặng /chiều cao) và BMI theo tuổi(BMI/tuổi)
Suy dinh dưởng(SDD) nhất là SDD chiều cao là loại SDD mãn tính, để lại khá
nhiều hậu quả lâu dài và nặng nề về thể chất. Khi trẻ trưởng thành dễ mắc các bệnh
như: thừa cân, béo phì đái tháo đường, và một số bệnh truyền nhiễm khác.Giảm SDD
4
chiều cao sẻ trực tiếp cải thiện được tầm vóc, thể lực và trí tuệ. Đồng thời góp phần cải
tạo được giống nòi.
Ở nước ta mặc dù đã có những chính sách về dinh dưỡng được thực thi những tình
trạng suy dinh dưỡng ở nước ta vẫn còn cao. Theo số liệu của WHO tỷ lệ còi của trẻ em
dưới 5 tuổi ở Việt Nam vào loại cao (43,4%) của thế giới. Hội nghị dinh dưỡng toàn quốc
năm 2009 do viện dinh dưỡng - bộ y tế tổ chức cho biết tỷ lệ suy dinh dưỡng chung ở
Việt Nam đã giảm nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng về chiều cao – chiều cao dưới mức chuẩn)
lại khá phổ biến tại tất cả các vùng sinh thái trong cả nước.
2.Tên đề tài nghiên cứu
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“ Thực trạng phát triển chiều cao
và các yếu tố liên quan ở trẻ em mầm non ” thuộc trường Mẫu Giáo Quách Phẩm Bắc
– Quách Phẩm Bắc – Đầm Dơi – Cà Mau.
3.Mục đích nghiên cứu
1.Tìm hiểu chỉ số chiều cao của trẻ mẫu giáo.
2.Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới chiều cao của trẻ em mầm non.
3.Đặt ra một số kiến nghị về công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.
5
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I. Đặc điểm sinh lý và nhu cầu năng lượng của trẻ em.
Sự phát triển cơ thể của trẻ em là một quá trình sinh học rất phức tạp trong đó tầm
vóc, trọng lượng và kích thước cơ thể phát triển nhanh và các loại cơ quan có sự hoàn
thiện về chức năng. Vì vậy mọi lứa tuổi trẻ em có đặc điểm sinh học riêng.
Theo thống kê của viện dinh dưỡng quốc gia từ khi lọt lòng đến tuổi đi học trẻ phát
triển nhanh cả về thể chất và tinh thần. So với người lớn đã trưởng thành nhu cầu về
dinh dưỡng của trẻ là rất lớn trẻ càng nhỏ thì nhu cầu năng lượng càng lớn nhằm đáp
ứng nhu cầu cung cấp đầy đủ năng lượng cho quá trình phát triển nhanh chóng của cơ
thể.
Theo số liệu của viện dinh dưỡng quốc gia (2006) tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi
trên phạm vi toàn quốc là (27,65%) tỷ lệ SDD thể chiều cao theo tuổi là 31,9% mức
cao so với chuẩn thế giới .Trẻ em 3-5 tuổi là giai đoạn đầu của thời kỳ niên thiếu, là lứa
tuổi đặc thù và mang tính quyết định cả về thể chất và tinh thần. Tình trạng SDD ở lứa
tuổi này để lại những hậu quả nặng nề đến chiều cao và khả năng lao động ở lứa tuổi
trưởng thành sau này.
II. Một số chỉ số nhân trắc
Để đánh giá sự phát triển cơ thể trẻ, người ta sử dụng các kĩ năng, chiều cao, chu
vi các vòng, tỷ lệ giữa các phần của cơ thể chiều cao theo tuổi phản ánh tiền sử dinh
dưỡng, chiều cao theo tuổi thấp phản ánh sự chậm tăng trưởng do điều kiện dinh dưỡng
không hợp lý và sức khỏe kém. Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tỷ lệ SDD mản tính
(Trẻ thấp còi) nghĩa là trẻ bị thiếu dinh dưỡng từ trước kéo dài đã lâu ở các nước nghèo
và các nước đang phát triển thì tỷ lệ SDD chiều cao (thể thấp còi) ở trẻ càng cao.
III. Một số khái niệm liên quan
1. Dinh dưỡng
Dinh dưỡng là một quá trình phức hợp bao gồm vịêc đưa vào cơ thể những thức
ăn cần thiết qua quá trình tiêu hóa và hấp thụ để bù đắp hao phí năng lượng trong quá
trình hoạt động sống của cơ thể,tạo ra sự đổi mới các tế bào và mô cũng như diễn ra
các chức năng sống của cơ thể.
2. Vai trò của dinh dưỡng
6
Dinh dưỡng là nhu cầu sống hằng ngày của mỗi người đặc biệt là trẻ nhỏ.Trẻ em
được nuôi dưỡng tốt thì khỏe mạnh, thông minh ngược lại nếu không được chăm sóc
nuôi dưỡng tốt thì sẽ bị còi cọc, chậm phát triển và có nguy cơ mắc bệnh cao.
Ở trẻ em nếu thiếu ăn thì cơ thể chịu hậu quả nặng nề của các bệnh về dinh
dưỡng: (đần độn do thiếu iốt, hỏng mắt do thiếu vitamin A, thấp còi do thiếu Canxi).
Đặc biệt là trẻ em ở các nước nghèo và các nước đang phát triển.
3. Suy dinh dưỡng (SDD)
SDD là tình trạng cơ thể không được cung cấp đủ các chất phát sinh năng lượng
protein và cá chất dinh dưỡng khác.Bệnh thường gặp ở trẻ em, biểu hiện ở các nước
khác nhau làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ, trường hợp nặng sẽ
dẫn đến tử vong.
- Phân loại SDD: có 3 thê
+ Thể cân nhẹ (cân nặng/tuổi thấp)
+ Thể còi cọc dựa trên chỉ tiêu(chiều cao/tuổi)
+ Thể còm được đánh giá khi chỉ tiêu cân nặng/chiều cao tụt xuống thấp so với chỉ
số nên có ở lứa tuổi.
IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. Những nghiên cứu trên thế giới
Ngay từ khi sinh ra để tồn tại thì con người đã phải tìm kiếm thức ăn cho mình.
Ban đầu chỉ nhằm chống lại cái đói thì sau này xã hội ophats triển người ta ăn cần phải
ngon và đủ chất.
Ngay từ thời kì trước công nguyên, danh y học phương tây Hipocrat đã cho rằng
ăn uống có vai trò quan trọng trong điều trị (Thức ăn cho bệnh nhân phải là một
phương tiện điều trị trong phương tiện điều trị của chúng ta có các chất dinh dưỡng)
Năm 1729, quyển sách đầu tiên về sự tăng trưởng chiều dài ở người J.S.Stoeller
đã xuất bản ở Đức. Nhưng trong quyển sách này chưa có số liệu đo đạc cụ thể. Và cũng
ở Đức trong năm này thì đã nghiên cứu về sự tăng trưởng chiều cao ở người và sự phát
triển axit amin đã đánh dấu bước ngoặt khởi đầu về nghiên cứu sự phát triển chiều cao
ở người và các phát hiện cụ thể về dinh dưỡng.
Năm 1754 Chistian Friedrich Jumbpet (Đức) đã trình bày số liệu đo đạc về cân
nặng, chiều cao đó là công trình nghiên cứu cắt ngang đầu tiên về tăng trưởng ở trẻ em.
Tuy nhiên phải đến năm 1925 R.Martina(Đức) đã đề xuất phương pháp và dụng cụ đo
kích thước cơ thể cong người. Từ đó đế nay đã có nhiều nhà khoa học trên thế giới
nghiên cứu về vấn đề này.những phương pháp của R.Martina ngày càng được bơ sung
và hoàn thiện.
Những phải đến năm 1925 R. Martina (Đức) đã đề xuất phương pháp và dụng cụ
để đo kích thước trên cơ thể con người. Từ đó đến nay trên thế giới đã có nhiều nhà
khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này. Những phương pháp của R. Martina ngày cang
được bổ sung và hoàn thiện.
Cũng trong năm 1925, Tổ chức Y tế của liên minh quốc gia nghiên cứu về mối
liên quan giữa dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng, vàJ. Boyd Orrda đã phát hiện ra mối
7
liên quan trực tiếp giữa tầng lớp xã hội và sức khoẻ của họ. Tác giả Brnet và Aykroyd
cho rằng suy thoias kinh tế 1930 làm cho những người nghèo bị suy dinh dưỡng nhiều
nhất.
Năm 1983 C. William phát hiện ra beengj gọi là suya dinh dưỡng thiếu Protein-
Năng lượng thể phù (Kwwashiokor).
Năm 1942, Đaray Thompson đã đưa khái niệm tốc độ tăng trưởng cùng 2 đại
lượng của tăng trưởng chiều cao và cân nặng như những chỉ tiêu về sức khỏe.
Sự phát triển cơ thể coi như là chỉ số đánh giá tình trạng sức khỏe con người nói
chung và trẻ em nói riêng trong đó các thông số về hình thái như chiều cao, cân nặng
là chỉ tiêu quan trọng. Nhận thấy rõ giá trị của hai chỉ tiêu này nên năm 1979 WHO đã
đưa khuyến cáo dùng hai chỉ tiêu chiều cao và cân nặng để đánh giá sự phát triển thể
lực và tinh trạng dinh dưỡng.
Năm 1984, WHO đã tổ chức 1 chức 1 hội nghị về dinh dưỡng ở Fiji để dánh giá
tình hình và kinh nghiệm phòng chống suy dinh dưỡng ở các nước trong khu vực Tây
Thái Bình Dương. Hội nghị kết thúc đã đưa ra một quyết định quan trọng: “ Suy dinh
dưỡng trẻ em có rất nhiều nguyên nhân, cho nên việc phòng chống suy dinh dưỡng trẻ
em không thể hoạt động riêng rẽ của từng ngành, ngành nhi, ngành phòng dịch, ngành
nông nghiệp và chế biến thực phẩm, mà phải do những người cầm đầu các nước đứng
ra nhận trách nhiệm phối hợp các ngành và giáo dục vận động nhân dân, các gia đình
tự giác tham gia bằng khả năng và phương tiện hiện có của mình”. Hội nghị đã đưa ra
việc phòng chống suy dinh dưỡng bắt đầu từ thời kỳ nhi khoa chuyển sang thời kỳ
phòng dịch.
Từ đó đế nay trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Hiện nay trên thế giới, ở các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển,
tình hình trẻ em bị mắc các bệnh do thiếu dinh dưỡng có tỷ lệ cao. Các bệnh này đã ảnh
hưởng tới sự phát triển thể chất, trí tuệ của trẻ.
Hội nghị dinh dưỡng quốc tế họp ở Roma tháng 12 năm 1992 ước tính 20% dân
số ccas nước đang phát triển lâm vào cảnh thiếu đói, 192 triệu trẻ em suy dinh dưỡng
do thiếu prtein và năng lượng, thiếu các chất vi lượng: 40 triệu người thiếu Vitanmin
A, 2000 triệu người thiếu máu thiếu sắt, 1000 triệu người thiếu iot.
Theo báo cáo của Quĩ Nhi đồng của Liên Hiệp Quốc UNICEF năm 2008 thì trên
thế giới có khoản 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi được xem là thiếu cân (một chỉ tiêu chính
của định nghĩa “suy dinh dưỡng”), trong đó có khoảng 20 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị
suy dinh dưỡng nặng cần được chăm sóc khẩn cấp, phần lớn tập trung ở Châu Á, Châu
phi và Mỹ latin. Trong số này có khoảng 2 triệu trẻ em Việt Nam.
2.Những nghiên cứu tại Việt nam
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà bình lập lại ở miền Bắc, đây là thời kì phát
triển mạnh mẽ của khoa học dinh dưỡng. Các giáo sư: Hà Huy Khôi, Lê Thành Uyên,
Đỗ Xuân Hợp, phó giáo sư Đào Ngọc Diễn…. với các nghiên cứuđược triển khia mạnh
mẽ ở các viện vệ sinh dịch tễ, trường Đại học quân Y, Đại học Y Hà Nội vầ thể lực và
dinh dưỡng. Ccas công trình nghiên cứu như: Sự tiêu hao năng lượng, thành phần thức
ăn, vấn đề tiêu hoá, hấp thụ và sự ảnh hưởng của chúng đối với sự tăng trưởng và dinh
dưỡng cơ thể.
8
Ngày 13/06/1980, Viện dinh dưỡng quốc gia được thành lệp để nghiên cứu các
vấn đề dinh dưỡng có tầm quan trọng hàng đầu đối với sức khoẻ cộng đồng Việt Nam.
Viện đã tiến hành các cuộ tổng điều tra dinh dưỡng, dịch tễ học các bệnh thiếu dinh
dưỡng Protein – Năng lượng, đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo nuôi con bằng sữa
mẹ, hội thảo hội nghị phòng chống thiếu vitamin A.
Từ những năm 80 đến nay, hàng năm đều có những cuộc điều tra về tình hình
suy dinh dưỡng do rất nhiều các dự án và các tổ chức, các cá nhân tiến hành:
Viện dinh dưỡng hàng năm vẫn đưa ra số liệu thống kê về tỉ lệ suy dinh dưỡng
của trẻ em Việt Nam có những số liệu cụ thể về tỉ lệ ở các vùng miền về tình trạng suy
dinh dưỡng với những tiêu chí khác nhau như: Cân nặng theo độ tuổi, chiều cao theo
tuổi, cân nặng theo chiều cao.
Viện Bảo vệ sức khoẻ trẻ em “ Chuyên đề về hô hấp và suy dinh dưỡng ở trẻ
em” – Y học (1980)
Sở y tế nghiên cứu trên trẻ em từ 0-60 tháng tuổi trên địa bàn thành phố 1997.
Bệnh viện Xanh – Pôn, bệnh viện Nhi Thuỵ Điển với những nghiên cứu của
ĐinhTuấn Bá - Nguyễn Tự Lập “ Nguyến nhân gây tử vong ở trẻ em suy dinh dưỡng
tại bệnh viện Xanh – Pôn Hà Nội từ năm 1965 – 1975”…
Lê Thị Ngọc Anh “Một số Ý kiến về ăn uống trong điều trị suy dinh dưỡng trẻ
em tại bệnh viện Xanh – Pôn Hà Nội” 1978.
Nguyễn Thị Vân Anh “nghiên cứu thực trạng 1 số chỉ tiêu thể lực và suy dinh
dưỡng ở trẻ em từ 0-60 tháng tại một số xã, phường thuộc quận Đống Đa, huyện Sóc
Sơn và Từ Liêm Hà Nội.”(1)
Lê Doanh Tuyên “Dịch tễ học và một số yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng thể còi
trẻ dưới ở một số vùng sinh thái khác nhau ở nước ta hiện nay”.
Điểm qua lịch sử dinh dưỡng chúng ta thấy rằng từ trước đến nay vấn đề ăn
uống, dinh dưỡng đã được chú ý đáng kể, chúng ta hiện nay tuy nước ta đã cải thiện và
giảm được tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng xuống đáng kể với những giải pháp, những
chương trình phòng chống quốc gia… nhưng tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trẻ em vẫn là một
trong những nước có tỷ lệ cao nhất thế giới nên vẫn cần có những sự quan tâm của các
cấp, các ngành cũng như sự phối kết hợp của toàn xã hội vẫn cần có nhnwgx công trình
nghiên cứu về vấn đề này để có những giải pháp giúp giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh
dưỡng xuống mức thấp nhất.
Những năm gần đây, đất nước đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc
giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở trẻ em. Tỷ lệ trẻ SDD đã giảm nhiều nếu tính từ năm
1985 (51,5%) đến 1995 (44,9%) mỗi năm giảm trung bình 0,66%. Từ năm bắt đầu
KHQGDD (1995), chỉ sau 4 năm tỷ lệ suy dinh dưỡng đã giảm xuống còn 36,7%
(1999), trung bình mỗi năm giảm 2%, là tốc độ được quốc tế công nhận là giảm nhanh.
Như vậy, mỗi năm đã đưa khoảng gần 200 ngàn trẻ dưới 5 tuổi thoát khỏi suy dinh
dưỡng. Năm 2000, theo số liệu điều tra MICS của Tổng cục thóng kê, tỷ lệ trên còn
33,1%.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em tiếp tục giảm nhanh và bền vững từ 31,9% năm
2001 xuống còn 25,2% năm 2005. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng trong năm 2007 đã giảm
từ 23,4% năm 2006 xuống còn 21,2%, nghĩa là giảm khoảng 150.000 trẻ.
9
Ngày 23/12/2008, lễ tổng kết 10nawm Chương trình mục tiêu phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em ở Việt Nam (1998 – 2008) đã diến ra tại Hà Nội. Trong 10 năm các
hoạt động nhằm làm giảm và giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ vem, vì một thế
hệ người Việt cao lớn và thông minh hơn trong tương lai đã được triển khai trên cả
nước.
Qua 10 năm thực hiện, mục tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em dưới 5
tuổi thể hiện nhẹ cân ở trẻ em Việt Nam là dưới 20% vào năm 2010, nhưng với ự nỗ
lực của ngành Y tế, sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương, Bộ, ngành và sự phát
triển về kinh tế - xã hội, Việt Nam đã đạt được mức 19,9% ngay trong năm 2008.
Đến năm 2009 thì tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân ở Việt
Nam giảm còn 18,9% đã vượt trước 2 năm so với Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc
lần X. Đây là dấu mốc quan trọng khi lần đâuù tiên Việt Nam đã giảm suy dinh dưỡng
thể nhẹ cân xuống dưới ngưỡng “cao” theo phân loại của tổ chức Y tế Thế giới.
Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể còi vẫn còn là một vấn đề hết sức nghiêm
trọng với 32,6% trẻ em bị suy dinh dưỡng về chiều caop, có ngu cơ để lại hậu quả lâu
dài về thể chất khi trưởng thành, dễ mắc các bệnh như thừa cân béo phì, đái tháo đường
và một số các bệnh truyền nhiễm khác.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng có sự khác biệt giữa các vùng sinh thái, giữa các tỉnh cụ
thể:
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân ở khu vực Tây Nguyên cao
nhất cả nước (28,5%), trong khi tỷ lệ này ở khu vực Đông Nam bộ là 16,4%, thấp nhất
cả nước.
Ở các tỉnh khác nhau, nhất là giữa nông thôn và thành thị cũng có sự chênh lệch
lớn về tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em thấp nhất cả nước là ở các thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng. Thành phố Hồ Chí Minh, với thể nhẹ cân (5,3 – 12,6%) và còi (6-23,4%). Trong
khi tỷ lệ này ở các tỉnh Đắk Nông, Kon Tum, Lào Cai cao nhất cả nước, với thể nhẹ
cân là 28,4 – 29,5% và thể còi là 40,1 – 41,9% Có điều này là do những thành phố
lớn kinh tế phát triển, kéo theo mức sống người dân cao, nhận thức và tiếp thu những
kiến thức về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ tốt. Cụ thể ở Hà Nội:
Năm 2008 Sở Y tế Hà Nội đã tổ chức tổng kết 10 năm Chương trình phòng
chống suy dinh dưỡng trẻ em. (1998 – 2008) và đưa ra tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em trên
địa bàn Hà Nội: “tỷ lệ suy dinh dưỡng trên địa bàn thành phố giảm nhanh qua các năm
còn 8,2% (năm 2008) và khu vực Hà Tây cũ còn 17, 1%. Đây là kết quả của chương
trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em được triển khai điểm tại Hà Nội và mở rộng
ra tất cả các xã phường của thành phố.
Cũng theo số liệu của Viện dinh dưỡng Quốc gia năm 2009 sau khi sát nhập Hà
Tây vào Hà Nội thì con số thống kê trẻ bị suy dinh dưỡng ở Hà Nội là 12,6% trẻ bị suy
dưỡng dưỡng thể nhẹ cân, trẻ bị suy dinh dưỡng thể còi chiếm 23,4 %, và trẻ suy dinh
dưỡng thể còm chiếm 6,1%. Số liệu cho thấy rằng tỷ lệ trẻ em bị còi còn chiếm tỷ lệ rất
cao.
Đến năm 2010, thành phố Hà Nội đặt mục tiêu giảm 0,7% tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi suy dinh dưỡng (thể nhẹ cân) và 1% tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuoir (thể
10
còi) so với năm 2009 thông qua các hoạt động như nâng cao chất lượng công tác phòng
chống suy dinh dưỡng trẻ em, đẩy mạnh xã hội hoá công tác phòng chống suy dinh
dưỡng trẻ em và phát huy tính sáng tạo triển khai những mô hình phù hợp với điều kiện
kinh tế từng khu vực.
Đào Huy Khuê nghiên cứu về kích thước hình thái và sự tăng trưởng và phát
triển cơ thể học sinh phổ thông 6-17 tuổi ở thị xã Hà Đông - Hà Sơn Bình Năm 1991.
Cho rằng giai đoạn từ 6-9 tuổi trẻ em phát triển đồng đều, phát triển mạnh ở thời kì tiền
dậy thì ở nữ 11-13 tuổi.
Đinh Bích Thu và cộng sự( 1995) đã sử dụng hai kích thước trọng lượng và
chiều dài của trẻ sơ sinh trong nghiên cứu của mình. Tác giả đã chia ra số liệu về trọng
lượng và chiều dài trung bình của trẻ sơ sinh quận Đống Đa, Hà Nội điều tra năm
1983-1986. Khi so sánh với hằng số sinh học Việt Nam 1975 tác giả nhận thấy trọng
lượng trung bình của trẻ không tăng nhưng chiều cao trẻ tăng.
Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích trên các kích thước tổng thể, một số
kích thước vòng và một số chỉ số phát triển cơ thể và đưa ra những nhận xét về quy luật
phát triển cơ thể tốc độ tăng trưởng và kích thước hình thái đồng thời so sánh các tài
liệu trước đây ở Việt Nam và nước ngoài.
11
CHƯƠNG III : ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là 250 trẻ em dưới 6 tuổi trường Mẫu giáo Quách Phẩm
Bắc – Quách Phẩm Băc – Đầm Dơi – Cà Mau.
Tuổi 3 4 5
Nam 45 36 27
Nữ 35 54 33
Tổng 80 90 60
Và 230 phụ huynh của các trẻ này.
I.Địa bàn nghiên cứu:
Nghiên cứu làm một điều tra cắt ngang được tiến hành tại trường mẫu giáo Quách
Phẩm Bắc – Quách Phẩm Bắc – Đầm Dơi – Cà Mau.
II.Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp nhân trắc:
Để xác định kích thước chiều cao đứng của các đối tượng trong nghiên cứu. Sử
dụng thước dây căn thẳng áp sát vào tường nhà, vuông góc với mặt đất nằm ngang. Trẻ
đi chân không đứng quay lưng vào thước đo. Gót chân, mông, vai và đầu theo một
đường thẳng nằm ngang, hai tay bỏ thõng bên mình. Dùng thước vuông áp sát đỉnh đầu
thẳng góc với thước đo để đọc kết quả. Chiều cao đứng được tính bằng cm với hai số
thập phân sau dấu phẩy.
2. Phương pháp phỏng vấn sử dụng bảng hỏi kết hợp với phỏng vấn sâu:
Chúng tôi dùng bảng hỏi in sẵn và phỏng vấn sâu để thu thập các thông tin định
tính và định lượng về việc chăm sóc cũng như các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh
dưỡng của trẻ.
3. Phương pháp xử lí số liệu.
Để thu thập xử lí và phân tích kết quả nghiên cứu, số liệu thu thập được trong
nghiên cứu được xử lí bằng phần mềm SPSS và microsoft excel
Sau khi thu thập thông số về điều tra, ngày sinh, ngày đo, giới tính của trẻ
trong nghiên cứu cho phép đánh giá được tình trạng suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi
(tình trạng còi) của trẻ trong nghiên cứu. Bởi vì phần mềm này được tích hợp chuẩn
suy dinh dưỡng của WTO.
Khi đã có số liệu về tình trạng còi của trẻ trong nghiên cứu, tôi tiến hành tìm
mối liên quan giữa tình trạng còi với một số yếu tố trong quá trình chăm sóc trẻ.
12
4. Hạn chế của nghiên cứu :
Việc điều tra cắt ngang chỉ cho phép xác định mối liên quan chứ không xác
định được nguyên nhân một cách chính xác.
Với một nghiên cứu về sự phát triển cơ thể thông qua các kích thước nhân trắc
thì số lượng mẫu càng lớn thì độ tin cậy càng cao. Tuy nhiên do kinh nghiệm nghiên
cứu còn hạn chế nên chưa thể điều tra trên với một số lượng lớn trẻ và xem xét nhiều
yếu tố liên quan được.
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA BÀN LUẬN
I. Một số thông tin chung về đói tượng điều tra:
Để tìm hiểu về tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ từ 3 – 5 tuổi chúng tôi tiến
hành nghiên cứu trên 230 trẻ độ tuổi từ 3 - 5 tuổi.
Bảng 1: Sự phân bố theo nhóm tuổi và giới tính
Nhóm tuổi
Giới tính
Nữ Nam
n % n %
3 35 43,75 45 56,25
4 54 60,00 36 40,00
5 27 45,00 33 55,00
Tổng 116 50,43 114 49,56
Bảng 1 cho thấy: xét về từng nhóm tuổi, số lượng bé gái chiếm ưu thế hơn số
lượng bé trai:
- Tỷ lệ bé gái (50,43%), cao hơn tỷ lệ bé trai (49,56%) là 0,87%. Tỷ lệ này được
thể hiện cụ thể từng nhóm tuổi như sau:
Xét theo nhóm 3 tuổi thì tỷ lệ bé trai cao hơn bé gái là: 12,50 % còn nhóm 4 tuổi
thì tỷ lệ bé trai là 40,00 % thấp hơn tỷ lệ bé gái 20,00 %
Xét theo nhóm 5 tuổi thì tỷ lệ bé trai (55,00%) cao hơn tỷ lệ bé gái (45,00%) là
10%.
Thường thì tỷ lệ bé trai cao hơn tỷ lệ bé gái nhưng không quá chênh lệch như
trên. Có thể giải thích trường hợp này là do sự trùng lập ngẫu nhiên khi chọn trong
danh sách.
Bảng 2: Nghề nghiệp của cha mẹ
Nghề nghiệp n %
Buôn bán 5 2,17%
Cán bộ nhà nước 8 3,47%
Công nhân 25 10,86%
Nông nghiệp 156 67,82%
Nghề khác 36 15,65%
Tổng 230 99,99%
13
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy:
+ 5 trẻ có bố mẹ làm nghề buôn bán chiếm 2,17% ; số trẻ có bố mẹ làm cán bộ
nhà nước là 8 chiếm 3,47%; số trẻ có bố mẹ làm công nhân là 25 chiếm 10,86%, số
trẻ có bố mẹ làm nông nghiệp là 156 chiếm tới 67,86% và số trẻ có bố mẹ làm ngành
nghề khác là 36 chiếm 15,65%. Nhìn chung hơn ¾ số trẻ trong nghiên cứu tập trung
trong các gia đình làm nông nghiệp.
Bảng 3: Trình độ học vấn của cha mẹ.
Trình độ học vấn của cha hoặc mẹ. n %
Không biết chữ 2 0,86
Tiểu học 115 50,00
Trung học cơ sở 98 42,60
Trung học phổ thông trở lên 15 6,52
Tổng 230 99,98
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy:
Khi tìm hiểu về trình độ học vấn của phụ huynh trong nghiên cứu, chúng tôi thấy
các bậc phụ huynh của các trẻ em trong nghiên cứu đều học học có trình độ tiểu học
chiếm 50%. Số trẻ trong gia đình bố mẹ không biết chữ chiếm 0,86%, có trình độ tiểu
học chiếm 50,00% , có trình độ trung học cơ sở là 42,60%, có trình độ trung học trở lên
là 6,52% . Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng trình độ học vấn của cha mẹ cũng ảnh
hưởng đến đến tình trạng suy dinh dưỡng chiều cao của trẻ . Trình độ học vấn của mẹ
thể hiện qua cách nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ, theo viện chiến lược và chính sách quốc
tế: Học vấn của người phụ nữ đóng góp đến 43% đối với suy dinh dưỡng , trong khi an
ninh thực phẩm chỉ đóng góp 26,1% (3)
Bảng 4: Tình trạng kinh tế gia đình
Tình trạng kinh tế n %
Dư dật 76 33,04
Đủ ăn 154 66,95
Thiếu ăn từ 1-2 th 0 0
Thiếu ăn trên 2 th 0 0
Tổng 230 99,99
Kết quả cho thấy số trẻ trong gia đình có kinh tế dư dật chiếm 33,04% chủ yếu
trẻ trong gia đình đủ ăn chiếm 66,95%, và có điều đặc biệt là không có một trẻ nào
trong điều tra phải phải sống trong gia đình có tình trạng kinh tế thiếu ăn. Đây là một
điều đáng mừng vì “tình trạng dinh dưỡng của trẻ tốt hơn với điều kiện kinh tế khá
hơn”. Tuy nhiên thì điều kiên đó không có nghĩa rằng cứ nhà giàu thì con của họ không
bị suy dinh dưỡng, có gia đình tuy khá giả nhưng kiến thức chăm con và kiến thức dinh
14
dưỡng lại hạn chế, cho ăn quá nhiều chất bổ mà không cho ăn những chất khác khiến
cho trẻ thừa chất này mà thiếu chất kia, con họ vẫn bị thiếu dinh đưỡng. ngoài ra còn
do yếu tố bệnh tất ở trẻ, thời gian bố mẹ dành cho việc chăm lo con cái… nhưng cũng
không thể phủ nhận tình trạng kinh tế cũng phần nào ảnh hưởng đến tình trang dinh
dưỡng của trẻ.
Theo WHO tình trạng dinh dưỡng cá thể phụ thuộc vào mối tương tác giữa thức
ăn vào cùng với tình trạng tổng thể về sức khỏe và môi trường vật lý SDD vừa là một
rối loạn về y học.Vừa là một rối loạn có tính xã hội, thường có gốc rễ từ nghèo đói .Vì
vậy điều dễ nhận thấy là tình trạng thiếu ăn của gia đình có thể ảnh hưởng bất lợi tới
sự phát triển của cơ thể (10)
II. Sự phát triển chiều cao của trẻ trong nghiên cứu
Bảng 5 : Chiều cao trung bình của trẻ trong nghiên cứu.
Tuổi Chiều cao TB (cm) Độ lệch chuẩn
Nữ Nam Nam Nữ
3 92,8 93,7 2,61 2,81
4 97,6 98,4 3,49 4,47
5 103,8 105,7 5 ,05 5,18
Kết quả nghiên cứu cho thấy: chiều cao trung bình của bé trai 3 tuổi là 93,7 cm
cao hơn so với bé gái 3 tuổi (92,8cm) là 0,9cm. Chiều cao trung bình của bé trai 4 tuổi
(98,4cm) cao hơn so với bé gái cùng nhóm (97,6cm) là 0,8cm .Tương tự như vậy
.Chiều cao trung bình của bé trai cùng nhóm cao hơn so với bé gái (105,7cm so với
103,8 cm). Như vậy chiều cao của trẻ tăng dần theo độ tuổi và chiều cao của trẻ nam
cao hơn so với chiều cao của trẻ nữ,chiều cao của cơ thể nói lên được sức lớn của cơ
thể đó. Sự tăng chiều cao là một quá trình liên tục nhưng không đồng đều ở các giai
đoạn phát triển của trẻ ( 2 tuổi tăng 10cm, 3 tuổi tăng 8cm) và tăng chậm dần từ 3 -6
tuổi. Giữa bé trai và bé gái có sự khác biệt về chiều cao, bé trai thường cao hơn bé gái
cho đến khi 12 tuổi, hoàn toàn phù hợp với tính quy luật của sự phát triển chiều cao
theo nhóm tuổi.
Chiều cao theo tuổi thấp ( suy dinh dưỡng thể còi) phản ánh sự chậm phát triển
về chiều cao có tính trường diễn. Theo mô hình chu kỳ Dinh dưỡng –Vòng đời do ủy
ban thường trực về dinh dưỡng của liên hợp quốc đưa ra thì trẻ thấp còi sau này thì sẽ
trở thành những người trưởng thành có chiều cao thấp (bé gái bị còi lớn lên trở thành
người phụ nữ còi và khi đẻ con nguy cơ con bị còi là cao ) (4)
Tìm hiểu về tình trạng suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi của trẻ 3-5 tuổi
trong nghiên cứu chúng tôi thu được những kết quả như sau:
Bảng 6: Tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi của trẻ trong nghiên cứu.
Nhóm
tuổi
Đánh giá
Bình thường Còi (%) Rất Còi(%)
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
15
3 16,34 21,82 1,43 1,53 0,78 0,73
4 12,84 10,47 1,49 1,25 0,12 0,48
5 9,65 15,83 0,8 1,29 0,42 0,46
Tổng 40,83 48,33 3,75 4,17 1,32 1,67
Kết quả nghiên cứu cho thấy Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi là
không nhỏ (10,84%) nói cách khác là cứ 10 trẻ trong nghiên cứu thì có 1 trẻ bị suy
dinh dưỡng chiều cao theo tuổi. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở trẻ 3 tuổi là 5% (Nam là5%,
nữ là 2,5%).Tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao ở trẻ 4 tuổi là 2,92% (nam là 1,25%, nữ là
1,67%) Tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao ở trẻ 5 tuổi là 2,92% (nam là 1,25%, nữ là
1,67%) .
Chúng tôi thấy rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng thể còi ở nhóm trẻ 3 tuổi là cao nhất so
với các nhóm tuổi khác và tỷ lệ suy dinh dưỡng này của trẻ giảm dần theo độ tuổi.
III. Mối liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng với sự phát triển chiều
cao và các yếu tố liên quan .
Để tìm hiểu mối liên quan giữa tình trạng suy dinh chiều cao theo tuổi với một
số yếu tố, cho thấy: Trình độ học vấn của mẹ phản ánh sự quan tâm của xã hội đối với
việc nâng cao trình độ, địa vị xã hội cho người phụ nữ. Đồng thời có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tiếp thu kiến thưc mới nuôi dạy con cái.
Mẹ là người thường xuyên gần gũi và chăm sóc con. Chính vì vậy mà việc cung
cấp cho con đầy đủ và hợp lý các chất dinh dưỡng là rất phụ thuộc nhiều vào kiến thức
của cácbậc cha mẹ. Trình độ học vấn của cha mẹ và điều kiện kinh tế gia đình có liên
quan đến tình trạng suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi của trẻ trong nghiên cứu không
tìm thấy mối liên quan giữa nghề nghiệp của cha mẹ thời diểm bổ sung, thời điểm cai
sữa, tình trạng hút thuốc lá của phụ huynh với suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi của
trẻ 3-5 tuổi trong nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong các bảng sau:
1.Bảng 7: Mối liên quan giữa trình độ học vấn của cha/mẹ với tình trạng suy
dinh dưỡng chiều cao của trẻ.
Trình độ học
vấn của cha
Suy dinh dưỡng Bình thường
n % n %
Tiểu học 68 19 39 10,8
Trên tiểu học 26 7,2 227 63
Bảng số liệu cho ta thấy có 19% số trẻ mà sống trong gia đình bố mẹ có trình độ
học vấn dưới tiểu học bị suy dinh dưỡng chiều cao cao hơn so với số trẻ sống trong gia
đình bố mẹ có trình độ học vấn trên tiểu học chỉ là 7,2 %. Và số trẻ phát triển chiều cao
bình thường ở trong những gia đình bố mẹ có trình độ học vấn trên tiểu học là 63% cao
hơn nhiều lần so với 10,8% những trẻ có bố mẹ trình độ học vấn là tiểu học.
Nghiên cứu của Nita Bbandan về tình trạng dinh dưỡng trẻ em ở một vùng giàu
có tại Ấn Độ cho biết tỉ lệ SDD tại vùng này rất thấp(6%) và hầu hết các bà mẹ ở đây
16
học hết phổ thông(học hết 12 năm học) có ½ tổng số đó học hết đại học( học hết 17
năm học.(11)
Những nghiên cứu chúng tôi thu được hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu từ
trước đến nay của Sở y tế Hà Nội, cho thấy người mẹ có trình đọ học vấn càng cao thì
càng có điều kiện hiểu biết các kiến thức dinh dưỡng và các vấn đề liên quan trực tiếp
đến việc chăm sóc, nuôi dạy con tốt hơn, do vậy tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng thấp
hơn so với bà mẹ có trình đọ hoạ vấn thấp.
Bảng 8: Mối quan hệ giữa điều kiện kinh tế gia đình với tình trạng suy dinh
dưỡng chiều cao của trẻ .
Điều kiện
kinh tế gia
Suy dinh dưỡng Bình thường
n % n %
Không đủ ăn 64 18 36 10
Đủ ăn 24 6.5 236 65.5
Bảng số liệu trên cho thấy những trẻ sống trong gia đình không đủ ăn bị suy dinh
dưỡng chiều cao theo tuổi là 18% cao hơn những trẻ sống trong gia đình đủ ăn là 6.5%.
Và những trẻ sống trong gia đình đủ ăn phát triển chiều cao bình thường là 65.5% cao
hơn những trẻ sông trong gia đình khồng đủ ăn chỉ có 10%.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Văn Thị Mai Dung (2) và
Phạm Văn Hoan (7) Nghiên cứu của Văn Thị Mai Dung cho biết trẻ em trong những
gia đình nghèo có nguy cơ suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi cao gấp 1.6 lần trẻ em thuộc
những gia đình nghèo. Nghiên cứu của Pham Văn Hoan cho biết thiếu ăn mà chủ yếu
là thiếu lương thực có ảnh hưởng đến SDD trẻ em,
2. Yếu tố dinh dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng hàng đầu cho sự lớn và sự phát triển. Dinh
dưỡng rất cần thiết đối với con người nói chung và trẻ em nói riêng - một cơ thể có tốc
độ phát triển cao, đòi hỏi phải cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng lớn thì dinh dưỡng
với trẻ như là một yếu tố sống còn cho sự lớn và khỏe mạnh của trẻ. Chính vì vậy trẻ ăn
hợp lý ngon miệng và đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng đáp ứng cho nhu cầu của một
cơ thể đang lớn là vấn đề quan trọng. Như chúng ta đã biết mỗi giai đoạn phát triển lại
có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau nên nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi lứa tuổi khác
nhau. Đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và cho trẻ ăn uống đúng khoa học ở từng độ tuổi là
biện pháp tốt nhất giúp trẻ khỏe mạnh và phát triển bình thường. Vì thế hàng ngày
những chất dinh dưỡng này gia đình thường xuyên đưa vào cơ thể sẽ ảnh hưởng khá
lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Bảng 9: Mối liên quan giữa khẩu phần ăn với trẻ của tình trạng suy dinh
dưỡng thể thấp còm.
Khẩu phần ăn
của trẻ
Suy dinh dưỡng Bình thường
n % n %
Thiếu dinh
dưỡng
70 19.5 28 7.8
Đủ dinh dưỡng 22 6.1 240 66.6
17
Theo số liệu trên cho thấy mối liên quan của khẩu phần ăn của trẻ hằng ngày và
tình trạng suy dinh dưỡng thể còm trong nghiên cứu. Có tới 19.5% trẻ trong gia đình có
khẩu phần ăn thiếu dinh dưỡng bị suy dinh dưỡng cao hơn so với những trẻ trong gia
đình có khẩu phần ăn đầy đủ chất dinh dưỡng là 6.1% và tỉ lệ trẻ bình thường khi khẩu
phần ăn đủ dinh dưỡng là 66.6% còn trẻ có khẩu phần ăn thiếu dinh dưỡng chỉ là 7.8%
như trên ta thấy yếu tố dinh dưỡng nói chung, khẩu phần ăn hàng ngày của trẻ có mối
quan hệ chặt chẽ đến tình trạng SDD chiều cao ở thể thấp còm. Chế độ ăn uống dinh
dưỡng không hợp lý ăn quá nhiều hay quá ít, sử dụng không hợp lý các thành phần
dinh dưỡng sẽ không có lợi cho sức khỏe. Trẻ cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng
như đạm, chát béo, chất đường, vitamin và các chất khoáng cân đối hợp lý.
+ Chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, đậu đỗ): là một chất dinh dưỡng quan trọng nhất
giúp cơ thể trẻ lớn nhanh. Chất dậm còn là nguyên liệu để tạo chất kháng thể. Vì vậy
cơ thể thiếu đạm sẽ làm cho cơ thể trẻ chậm lớn, dễ mắc các bệnh nhiễm trùng do khả
năng đề kháng kém. Nhưng ngược lại nếu thừa đạm gây nguy cơ dị ứng, ảnh hưởng
đến thận, làm hệ thần kinh dễ bị kích thích và gây táo bón.
+ Chất béo (dầu thực vật, mỡ động vật, lạc, vừng): là nguồn cung cấp năng
lượng cao giúp cơ thể trẻ phát triển tốt.Trong khẩu phần ăn của trẻ nếu thiếu chất béo
sẽ làm cho trẻ chậm phát triển, không hấp thu được các vitamin tan trong dầu như
vitamin A, D, E, K. Ngược lại, nếu trong khẩu phần ăn thừa chất béo sẽ làm cho trẻ béo
phì.
+ Chất bột đường (gạo, mì, ngô, khoai củ): là nguồn cung cấp năng lượng chính
cho cơ thể trẻ sống và hoạt động.Nếu thiếu chất bột đường thì cơ thể sẽ phải sử dụng
chất đạm để tăng năng lượng, gây ảnh hưởng đến sự chuyển hoá chất dậm. Nhưng nếu
khẩu phần ăn quá nhiều chất bột đường thì chất này được chuyển hoá thành mỡ để dự
trữ sẽ gây nên tình trạng béo phì.
Ngoài ra trẻ cần được bổ sung thêm các thực phẩm giàu chất vitamin và muối
khoáng từ rau quả tươi như Vitamin A, chất sắt, Iot, chất xơ hoà tan để có thể được
cung cấp đầy đủ cân đối các chất.
3. Điều kiện môi trường sống
Ngoài yếu tố dinh dưỡng thì trình độ văn hóa của bố mẹ trẻ, tình trạng ở
nhà cũng ảnh hưỡng lớn đến tình trạng phát triển chiều cao trẻ.
Sự phát triển thể chất, tình trạng sức khoẻ của con người phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: điều kiện xã hội, điều kiện môi trường sống:mức sống, điều kiện sinh hoạt,
vệ sinh, không khí, không gian đặc biệt là điều kiện giáo dục.
Đối với trẻ nhỏ, các điều kiện môi trường sống càng có ý nghĩa quan trọng đói
với sự phát triển cơ thể. Từ khi sinh ra, đứa trẻ đã sống ở trong môi trường mới điều
kiện hoàn toàn khá xa với môi trường trong bụng mẹ. Mà đối với trẻ cơ thể non nớt của
trẻ có các hệ cơ quan chưa hoàn thiện về cấu tạo và chức năng. Những tác động của
môi trường bên ngoài không thích hợp có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của trẻ.
Trong đó thì “gia đình và nhà trường là môi trường trực tiếp của trẻ về mặt sinh học,
xã hội và văn hóa”.
a. Trình độ học vấn của cha mẹ
18
Trình độ học vấn của cha mẹ thể hiện sự quan tâm của xã hội với việc nâng cao
trình độ, địa vị xã hội cho người phụ nữ. Đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
tiếp thu kiến thức nuôi dạy con cái, vì mẹ là người thường xuyên gần gũi và chăm sóc
con. Vì vậy cung cấp cho trẻ đầy đủ chất dinh dưỡng phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức
của cha mẹ.
Chúng tôi rút ra những nhận định sau
*Sự tương quan nghị giữa trình độ học vấn của mẹ với tỉ lệ SDD của trẻ trình đọ
học vấn của mẹ càng cao thì ti lệ SDD của các con càng thấp.
*Trình độ học vấn của mẹ càng thấp sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp thu những
phương pháp khoa học trong việc nuôi dạy và chăm sóc con là hạn chế. Việc tiếp cận
với những phương pháp nuôi con khoa học trên các phương tiện khoa học không được
nhanh nhạy. Cho nên việc nuôi con dễ dẫn đến những thói quen và theo tập quán lạc
hậu.
Những nghiên cứu của tôi thu được hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu từ
trước đến nay của sở y tế Hà Nội(8), cho thấy học vấn của mẹ càng cao thì càng có
hiểu biết về dinh dưỡng và các vấn đề liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc nuôi dạy
trẻ tốt hơn, tỉ lệ SDD thấp hơn so với bà mẹ có trình độ học vấn thấp.
b. Tình trạng ở nhà:
Cơ thể của trẻ mẫu giáo là cơ thể đang lớn, đang phát triển mạnh và chưa hoàn
thiện, sức đề kháng chưa cao nên sức chống đở với ảnh hưởng của môi trường bên
ngoài rất kém. Một trong những nhân tố đó là tình trạng nhà ở, điều kiện vệ sinh cũng
như môi trường không tốt sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của trẻ. Tìm hiểu mối liên
quan giửa tình trạng nhà ở với tình trạng SDD chiều cao của trẻ 3-5 tuổi được thể hiện
qua những bảng sau.
Bảng 10: Mối liên quan giữa tình trạng nhà ở và tình trạng còi.
Tình trạng
nhà ở
Còi Bình thường
n % n %
Nóng bức,gần
nơi sản xuất
48 13.3 50 13.9
Thoáng mát 12 3.3 250 64.5
Bảng kết quả trên cho thấy 13.3% trẻ sống trong căn nhà có tình trạng nóng bức,
chật chội gần nơi sản xuất, bệnh viện bị SDD thể còi cao hơn nhiều so với 3.3% những
trẻ sống trong căn nhà thoáng mát. Và tỉ lệ trẻ phát triển bình thường trong những căn
nhà thoáng mát là 64.5% còn trẻ trong những căn nhà nóng bức, gần nơi sản xuất chỉ
13.9%
Bảng 11: Mối liên quan giửa tình trạng nhà ở và tình trạng còm
Tình trạng
nhà ở
Còm Bình thường
n % n %
Nóng bức, gần
nơi sản xuất
45 12.5 75 20.9
Thoáng mát 20 5.5 220 61.1
19
Từ kết quả trên cho ta thấy : có tới 12.5% trẻ bị SDD thể còm khi sống trong
những căn nhà nóng,gần nơi sản xuất, bệnh viện cao hơn nhiều so với 5.5% trẻ sống
trong những căn nhà thoáng mát. Tỉ lệ trẻ phát triển chiều cao bình thường trong những
căn nhà thoáng mát là 61.1% còn trẻ ở những căn nhà nóng bức gần nơi sản xuất chỉ
là 20.9%.
4. Yếu tố bệnh tật.
Nếu trẻ ốm đau nhiều tháng sẻ bị chậm lớn rõ rệt. “Thực trạng về sức khoẻ và
bệnh tật của trẻ là một tấm gương phản chiếu trung thực bức tranh kinh tế xã hội của
quốc gia”. Ngoài ra còn phải kể đến những bệnh nhiểm khuẩn như sởi hay ho gà, viêm
phổi, lao , lỵ làm cơ thể trẻ suy yếu, biếng ăn, rối loạn tiêu hóa kéo dài cũng làm trẻ
SDD. Ngược lại, trẻ bị SDD cơ thể suy yếu, sức đề kháng với bệnh tật giảm sẽ làm trẻ
dễ mắc các bệnh nhiểm khuẩn và bệnh nặng dễ tử vong. Vòng luẩn quẩn suy dinh
dưỡng – bệnh nhiễm khuẩn càng làm tình trạng suy dinh dưỡng nặng thâm và việc điều
trị các bệnh nhiễm khuẩn càng trở nên phức tạp, khó khăn.
Bảng 12: Mối liên quan giửa tình trạng bệnh tật và tình trạng còi
Tình trạng
mắc bệnh
Còi Bình thường
n % n %
Mắc bệnh 68 19 80 22.2
Không mắc
bệnh
20 5.5 192 53.3
Theo bảng trên ta thấy.
Có tới 19% trẻ mắc bệnh bị còi cao hơn nhiều so với 5.5% trẻ không mắc bệnh.
Và tỉ lệ trẻ không mắc bệnh phát triển chiều cao bình thường là 53.3% còn trẻ chỉ mắc
bệnh là 22.2%
Bảng 13: Mối liên quan giửa tình trạng bệnh tật và tình trạng còm
Tình trạng
mắc bệnh
Còm Bình thường
n % n %
Mắc bệnh 45 12.5 58 16.1
Không mắc
bệnh
15 4.1 242 67.3
Từ những bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng:
Những bệnh thông thường trẻ đang mắc phải ở thời điểm đầu trong vòng năm
tháng trở lại có ảnh hưởng đến tỉ lệ SDD hay nói cách khác là tình trạng mắc bệnh của
trẻ có liên quan chặt chẽ đến tình trạng suy dinh dưỡng và phát triển chiều cao của trẻ.
Những bệnh thông thường mà trẻ hay mắc phải như viêm mũi, họng, amidan, nếu
không chữa kịp thời sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm. Số trẻ bị sâu răng, sún,
nhiệt miệng chiếm tỷ lệ cao. Trẻ bị sâu răng, sún, nhiệt miệng đều ảnh hưởng tới sức
khỏe cung như tình trạng ăn uống của trẻ. Khi trẻ SDD thì khả năng mắc bệnh cao hơn
so với những trẻ bình thường. Trẻ SDD thường thiếu nhiều vitmin đặc biệt là vitamin
A, C (có vai trò quan trọng trong tăng trưởng, miễn nhiễm, chống oxy hóa, phát triển tế
bào biểu mô, hậu quả là chức năng bảo vệ da và niêm mạc bị giảm sút, trẻ dễ bị
20
quáng gà, khô mắt, tiêu chảy, viêm đường hô hấp, dễ mắc bệnh sởi. Bình thường, độ
toàn dạ dày của trẻ vốn đã thấp (pH dạ dày của ter bú mẹ dao động trong khoảng 3,8 –
5,8) nay càng thấp hơn do đó trẻ dễ bị rói loạn tiêu hoá, sống phân, tiêu chảy. Ở trẻ suy
dinh dưỡng, hệ thống phòng vệ tự nhiên của cơ thể bị suy yếu: Lượng kháng thể IgA
giảm nhiều do đó khả năng miễn dịch tại niêm mạc giảm, trẻ dễ bị nhiểm khuẩn đường
hô hấp cấp tính, viểm tai giữa cấp tính; các tế bào lympho B cũng bị suy yếu, năng lực
sản xuất các globulin miễn dịch để chống lại các tác nhân vi sinh vật gây bệnh suy
giảm; tế bào lympho T bị hư biến nghiêm trọng do tuyến ức bị teo; số lượng tế bào
lympho T và B, tuần hoàn giảm rõ rệt, hệ thực bào và hệ bổ thể cũng bị rối loạn… do
vậy trẻ suy dinh dưỡng dễ bị nhiễm khuẩn hơn trẻ bình thường, đặc biệt là hai bệnh
tiêu chảy và viêm phổi.
21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Từ kết quả điều tra của đề tài:(thực trạng phát triển chiều cao của trẻ mẫu
giáo 3 -5 tuổi và một yếu tố liên quan) tại trường mẫu giáo Quách Phẩm Bắc - Quách
Phẩm Bắc – Đầm Dơi - Cà Mau. Tôi đã rút ra những kết luận sau:
Chiều cao của trẻ mẫu giáo 3-5 tuổi trong nghiên cứu phù hợp với quy luật
phát triển chiều cao, chiều cao của bé trai đều cao hơn chiều cao của bé gái.
Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ trong điều kiện điều tra đã được cải thiện
nhiều so với những năm trươc.
Trình độ học vấn của cha mẹ, điều kiện kinh tế gia đình yếu tố dinh dưỡng,
yếu tố điều kiện sống(tình trạng nhà ở), yếu tố bệnh tật (sức khỏe) có liên quan đến tình
trạng SDD chiều cao theo lứa tuổi trong nghiên cứu.
II Kiến nghị:
Sau quá trình thực hiện đề tài, qua thực tế cùng với những kết quả đo phân
tích số liệu đem lại, cùng với mong muốn giúp cải thiện phần nào tình trạng SDD của
trẻ 3-5 tuổi, chúng tôi có một số kiến nghị:
1. Trong quá trình nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ các bậc phụ huynh nên chú ý
tới việc đảm bảo về chế độ dinh dưỡng cũng như đảm bảo về môi trường sống trong
lành cho trẻ.
2. Tạo điều kiện cho trẻ được sống trong môi trường trong lành, thoáng mát,
tốt cho sự phát triển và sức khỏe trẻ. Thường xuyên cho trẻ đi khám định kì để sớm
phát hiện ra bệnh phòng và điều trị kịp thời giúp trẻ có một sức khỏe tốt nhất.
3. Tăng cường giáo dục sức khoẻ và dinh dưỡng cho phụ huynh nhất là phụ
nữ mang thai và nuôi con nhỏ.
4. Các giáo viên mầm non phối hợp với cha mẹ trẻ để nhằm giúp cha mẹ trẻ
hiểu và cập nhật kiến thức về chăm sóc cũng như nuôi dưỡng trẻ nhằm tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho sự phát triển.
5. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa trường mầm non và gia đình. Đây là hai
môi trường hoạt động của trẻ do đó cần phải thống nhất về yêu cầu – nội dung –
phương pháp chăm sóc và giáo dục trẻ, có như vậy mới hình thành được ở trẻ thói quen
ăn uống có văn hoá, vệ sinh.
6. Tăng cường công tác giáo dcuj sức khoẻ và dinh dưỡng cho các phụ huynh.
Cần tập trung vào đối tượng là các bà mẹ đang nuôi con nhỏ, các bà mẹ có con suy
dinh dưỡng, các bà mẹ đang mang thai. Có thể mở các lớp tập huấn hay trò chuyện với
các bậc phụ huynh vầ các kiến thưc dinh dưỡng và cách chăm sóc trẻ, đưa ra những đặc
điểm những bệnh lý để các bà mẹ sớm phát hiện những dấu hiệu bệnh của con mình
vào mmootj ngày cố định hàng tháng trong trường mẫu giáo.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Nguyễn Thị Vân Anh(1999), Nghiên cứu cứu thực trạng một số chỉ tiêu thể lực
mà suy dinh dưỡng ở trẻ 0-60 tháng tại một số phường xã thuộc Đống Đa, Sóc
sơn, Từ Liêm, Hà Nội, Luận văn Thạc Sỹ Dinh Học, ĐHSPHN
2. Văn Thị Mai Dung, Đặng Thị Hại Thơ, Nguyễn Thị Minh Hậu và công
sự(2006), “Tình trạng sức khỏe trẻ em 6-30 tháng tuổi tại hai huyện miền núi
Dakrong và Hướng Hóa, Tỉnh Quảng Trị năm 2003”, Tạp chí y tế công cộng, số
6(tháng 9 năm 2006), trang 10-14, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Dung (2002) Góp phàn nghiên cứu sự tăng trưởng và phát triển cơ
thể của trẻ em từ 6-10 tuổi ở thị trấn Kim Bài –Thanh Oai-Hà Tây, khóa luận tốt
nghiệp hệ chính quy nghành sinh học, trường ĐH Khoa học Tự Nhiên Hà Nội.
4. Bộ y tế, Viện dinh dưỡng(2000), cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người Việt
Nam,Nxb y học, Hà Nội
5. Viện dinh dưỡng (2000), chiến lược dinh dưỡng 2001-2010, Hà Nội.
6. Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em Việt Nam-Thụy Điển(1990), chăm sóc sức khỏe trẻ
em ở tuyến cơ sở, Hà Nội.
7. Phạm Văn Hoan(2001), mối liên quan giửa an ninh thực phẩm hhooj gia đình và
tình trạng dinh dưỡng bà mẹ trẻ em nông thôn miền bắc – khuyến nghị một số
giải pháp khả thi. Luận án Tiến Sĩ y học, Viện vệ sinh dịch tễ trung ương,Hà
Nội.
8. Sở y tế Hà Nội – đánh giá thực trạng thể lực và suy dinh dưỡng cửa trẻ từ 0-60
tháng tuổi ở Hà Nội 1997
23
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
9. United Nations – Administraive Committee on Coordination/Sub – Committee
on Nutrtion Situation. Geneva.
10.WHO Multicentre Growth Reference Study Group(2007),WHO child Growth
Standards :Length/height-for-age,weight-for-length,weight-for-height and body
mass index-for –age:
Methods and development,Gen neva.
11.Nitabhandari,Rajiav Bahl, Sunita Taneja, Mercedes de Onnis and
Mahararij K.Bhan (2002) ,”Growth performance ofaffluent Indian children i
similar to that in developedcountres” Buletin of World Health
Organization,vol.77(11),p.189-195, Geneva.
24
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Phiếu phỏng ván tình hình chăm sóc sức khỏe trẻ em mầm non
(Dành cho phụ huynh học sinh)
I. Thông tin chung
1. Họ và tên phụ huynh:………………………………………………
2. Phụ huynh của cháu:………………………………………………
3. Nghề nghiệp bản thân:……………………………………………
4. Trình độ học vấn:……………………………………………………
* Không biết chữ * Tiểu học *Trung học cơ sở
* Trung học phổ thông trở lên
5. Tình trạng kinh tế của gia đình phụ huynh.
* Dư dật *Đủ ăn *Thiếu ăn 1-2 tháng *Thiếu ăn trên 2 tháng
6. Trong gia đình có ai hút thuốc lá không *Có *Không
7. Trong gia đình có ai nghiện rượu không *Có *Không
8. Nguồn nước tại gia đình có đủ cho sinh hoạt gia đình
* Đủ * Thiếu
THÔNG TIN VỀ TÌNH HÌNH CHĂM SÓC TRẺ
9. Thời điểm cai sữa cho trẻ
* <1 năm *1 năm *1.5-2 năm *>2 năm
10. Thời điểm cho cháu ăn bổ sung
*Từ 1-3 tháng *từ 4-6 tháng *7-12 tháng *trên 1 năm
11. Phụ huynh có rửa tay trước khi chế biến thức ăn cho cháu không?
*Có *không
12.Phụ huynh đã tiếp thuc các thông tin về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ từ đâu
*Người thân *bạn bè
*nhân viên y tế *sách báo,đài,tivi
13.Bình thường phụ huynh có cho trẻ ăn kiêng loại thức ăn gì không?
* có (ghi rõ)
*không
14.Theo phụ huynh những trẻ còi xương thì chửa như thế nào?
25