Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Đề thi đề xuất học sinh giỏi các trường chuyên khu vực duyên hải và đồng bằng bắc bộ môn ngữ văn 10 năm 2015 trường chuyên HÀ NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.52 KB, 6 trang )

HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HÒA
TỈNH HÀ NAM
ĐỀ THI ĐỀ XUẤT
ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN KHỐI 10
NĂM 2015
Thời gian làm bài 180 phút
( Đề này gồm có 01 trang, gồm 02 câu)

Câu 1 ( 8 điểm)
Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói sau:
Khi của cải mất, chẳng có gì mất cả. Khi sức khoẻ mất, mất một vài thứ rồi. Khi ý chí
mất, chẳng còn lại gì nữa.
Câu 2 (12 điểm)
Vẻ đẹp ngôn ngữ qua bài ca dao Khăn thương nhớ ai và đoạn Trao
duyên (Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du).
HẾT

Người ra đề: Lê Thị Chung
Nguyễn Thị Bích Hằng

1
HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HÒA
TỈNH HÀ NAM
ĐÁP ÁN + BIỂU ĐIỂM CHẤM
MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10
A. Lưu ý chung
1. Giám khảo cần nắm bắt được nội dung trình bày trong bài làm để đánh giá một cách


tổng quát năng lực của thí sinh. Chủ động, vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, cân nhắc
từng trường hợp cụ thể cho điểm.
2. Những bài viết có sáng tạo hoặc có những kiến giải riêng nhưng hợp lí, thuyết phục cần
được tôn trọng và khuyến khích điểm tùy theo mức độ.
3. Hướng dẫn chấm chỉ đưa ra mức điểm tối đa cho các ý, căn cứ vào bài làm của học sinh,
giáo viên cân nhắc để cho mức điểm thích hợp. Chỉ cho điểm tối đa mỗi ý khi học sinh phân
tích sâu sắc và có cảm xúc. Việc chi tiết hóa điểm số (nếu có) so với biểu điểm phải đảm bảo
không sai lệch với hướng dẫn chấm và được thống nhất trong Hội đồng chấm thi. Điểm ở
từng câu, điểm toàn bài có thể để điểm lẻ tới 0,25; 0,5; 0,75.
B. Hướng dẫn chấm cụ thể và thang điểm
Câu Ý Nội dung Điểm
1. Trên cơ sở hiểu lời nhận định, biết cách làm bài văn nghị
luận xã hội về một vấn đề được rút ra từ một tác phẩm văn
học, bài làm của học sinh có thể trình bày theo nhiều cách
nhưng về cơ bản cần có những ý sau:
Dẫn dắt, nêu vấn đề cần nghị luận
0,5
2. Ý nghĩa của câu nói
-Của cải: thuộc đời sống vật chất (nếu mất -chẳng có gì mất
cả):của cải vẫn có thể làm ra được
-Sức khoẻ: liên quan đến thể lực của con người (nếu mất-mất
một vài thứ rồi): thiếu sức khoẻ ,con người khó có thể làm
được những điều như mong muốn
-Ý chí :thuộc đời sống tinh thần. Là khả năng tự xác định
phương hướng và mục đích cho hành động của mình,sẵn sàng
vượt qua mọi khó khăn,gian khổ ,quyết tâm thực hiện lí tưởng
của mình (nếu mất-mất tất cả).Điều đó có nghĩa là:không còn
ý chí ,con người sẽ không thể làm được gì.
=>Ý kiến đưa ra ba khả năng xấu có thể xảy ra trong đời sống
của con người ,theo cấp độ tăng dần .Từ đó tác giả muốn

khuyên: Của cải vật chất không quan trọng bằng sức khoẻ và ý
chí của con người .Đặc biệt,khẳng định ý chí có vai trò quan
trọng trong đời sống .
1,0
2
1
(8điểm)
3. Suy nghĩ về ý nghĩa câu nói
-Của cải vật chất nếu mất đi thì con người vẫn có thể tạo ra
của cảI vật chất khác phục vụ đời sống của mình . “Một mặt
người bằng mười mặt của”.
-Sức khoẻ là vốn quí của con người .Khi sức khoẻ yếu cũng
khó có thể làm được những điều như mong muốn.Vì thế con
người cũng phải giữ gìn sức khoẻ,nâng cao thể chất của mình.
-Ý chí: sẽ cho con người mục đích sống đúng đắn, có đủ nghị
lực,quyết tâm để vượt qua mọi gian khổ khó khăn .Nếu mất
nó,con người sẽ mất phương hướng,mục tiêu sống; Khi gặp
một chút khó khăn ,con người sẽ không thể vượt qua ,thậm chí
sẽ rơi vào tuyệt vọng,bế tắc.(dẫn chứng trong học tập và cuộc
sống về những con người có ý chí làm được những điều tốt đẹp
cho bản thân và cộng đồng: Gor-ki,Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Thầy Nguyễn Ngọc Kí,những tấm gương vượt khó…
4,0
4. Mở rộng vấn đề và rút ra bài học cho bản thân
- Cần có ý chí nghị lực song không nên tuyệt đối hoá
.Ngoài ý chí,con người còn cần tri thức,đạo đức mới có thể
thành công trong cuộc sống .Cần thấy được vai trò của của cải
vật chất song không nên quá coi trọng vật chất mà đánh mất
tình cảm,lí trí
-Phê phán những :lối sống thực dụng,những con người

coi thường sức khoẻ của bản thân ,đặc biệt phê phán những con
người đánh mất ý chí ,thiếu ý chí nghị lực.
1.5
2
(12điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
Làm tốt bài nghị luận về một vấn đề lí luận văn học: đặc trưng
của thể loại ca dao và truyện thơ Nôm; bố cục rõ ràng, mạch
lạc; kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích,
bình luận, chứng minh…; hành văn trôi chảy, không mắc lỗi
chính tả, diễn đạt.
Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở nắm vững đặc trưng của ca dao và truyện thơ Nôm
trung đại đã học trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao, thí
sinh có thể trình bày bài viết theo những cách khác nhau
3
nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận 0.5
2. Khái quát chung
- Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học nói chung và thơ ca
nói riêng
- Vẻ đẹp ngôn ngữ văn học được thể hiện ở việc lựa chọn ngôn
từ có tính hình tượng, tính biểu cảm, tính hàm súc,… của người
nghệ sĩ.
- Để biểu đạt một cách nhìn, cách cảm về thế giới, về cuộc đời,
về con người, người nghệ sĩ thường tìm đến hình thức nghệ
thuật độc đáo, mới mẻ. Có như thế, tác phẩm của mình mới tìm
được những tâm hồn đồng điệu qua các thế hệ tiếp nhận.
- Thực tế sáng tác đã chứng minh những tác phẩm văn học thật
sự có giá trị thì hình thức nghệ thuật bao giờ cũng có sức hấp

dẫn, lôi cuốn bạn đọc, có khi ngay từ lần tiếp nhận đầu tiên.
Bài ca dao Khăn thương nhớ ai và đoạn Trao
duyên (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) không nằm ngoài quy
luật đó.
2.5
3. Phân tích và chứng minh
a. Giống nhau:
- Đều sử dụng thể thơ lục bát, nhịp điệu mềm mại, uyển
chuyển, phù hợp với việc biểu đạt tâm trạng nhân vật trữ tình
- Đều gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân, thế
giới nội cảm của nhân vật chân thực, sinh động
- Mang đặc điểm ngôn ngữ thơ: trau chuốt, mượt mà; giàu sức
gợi và truyền cả.
8.0
b. Khác nhau:
* Bài ca dao: Khăn thương nhớ ai : Được thử thách qua
không gian, thời gian, được gọt giũa bởi nhiều nghệ sĩ dân
gian, ngôn ngữ ca dao nói chung và bài ca dao “Khăn thương
nhớ ai” nói riêng đã trở thành viên ngọc quý của kho tàng văn
học dân gian.
- Trong bài ca dao, cô gái thể hiện nỗi nhớ da diết đến
tan chảy cõi lòng không bộc lộ bằng cách nói dễ dãi mà vô
cùng kín đáo, ý nhị, sâu sắc qua hệ thống biện pháp tu từ:
+ Thủ pháp nhân hóa: Khăn thương nhớ ai
Đèn thương nhớ ai
+ Phép hoán dụ: Mắt thương nhớ ai
+ Năm lần hỏi, năm lần đại từ “ai” vang lên trong
điệp khúc “thương nhớ ai”. Bản thân từ “ai” mang tính phiếm
4
chỉ, gợi nỗi nhớ sâu thẳm, không có giới hạn.

+ Phép điệp câu hỏi:”Khăn/Đèn/Mắt thương nhớ ai”
dồn dập, diễn tả nỗ lòng bồn chồn của cô gái. Những câu hỏi
không có câu trả lời như cô gái nén chặt tình thương nhớ, cuối
cùng bật ra bằng niềm lo âu cho hạnh phúc của mình.
- Sự chuyển biến tâm trạng từ thương nhớ không nguôi
đến lo phiền ứng với sự chuyển biến trong cách sử dụng thể
loại thơ: Từ vãn bốn đến lục bát, âm điệu dồn dập đến mênh
mang
 Có thể nói, Khăn thương nhớ ai đã vượt chặng đường
thời gian mấy ngàn năm để đến với chúng ta hôm nay bởi cách
diễn đạt ngôn ngữ nhuần nhị mà sâu sắc, bộc lộ tình yêu của
chủ thể trữ tình đậm đà nét đẹp nữ tính. Bài ca dao là sản phẩm
trí tuệ tâm hồn của người bình dân, không thấy bóng dáng của
ngôn ngữ bác học như sử dụng từ Hán Việt, điển tích, điển cố,
…Đây cũng là đặc điểm ngôn từ của ca dao nói chung.
* Đoạn Trao duyên : Tác giả tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ
của người con gái tài sắc Thúy Kiều.
- Ngôn ngữ đối thoại chuyển dần thành ngôn ngữ độc
thoại: Nếu như màn Trao duyên trong “Kim Vân Kiều truyện”
(Thanh Tâm Tài Nhân) là cuộc đối thoại của hai chị em Thúy
Vân- Thúy Kiều thì màn Trao Duyên trong “Truyện Kiều”
(Nguyễn Du), Thúy Vân không nói một lời nào. Chỉ có Kiều
bộc bạch nỗi lòng theo một trật tự hợp lí:
+ Ban đầu, Kiều tâm sự và thuyết phục Vân thay mình
trả nghĩa chàng Kim: Kiều sử dụng ngôn ngữ đối thoại
+ Sau đó, Kiều trao kỉ vật cho Vân: Kiều sử dụng
ngôn ngữ nửa đối thoại, Kiều nói với Vân mà cũng là nói với
mình.
+ Kết thúc, Kiều đối diện với tình yêu tan vỡ: Ngôn
ngữ của Kiều chuyển sang độc thoại.

 Ý nghĩa: Nỗi đau khổ vì tình yêu tan vỡ mỗi lúc đẩy
lên cao trào. Khi nỗi đau ấy không thể chịu đựng được nữa thì
Kiều đã ngất đi. Đây chính là một sáng tạo nghệ thuật truyện
tuyệt vời của Nguyễn Du so với truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân ở màn bi kịch này.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ bác học và ngôn
ngữ bình dân:
+ Ngôn ngữ bác học: Nguyễn Du sử dụng từ Hán Việt,
điển tích điển cố nhuần nhuyễn, tự nhiên như: tương tư, mệnh
bạc, bồ liễu, thác,…
+ Ngôn ngữ bình dân: Ngôn từ gần gũi với lời ăn tiếng
nói hằng ngày của nhân dân lao động; cách vận dụng ca dao
5
tục ngữ, thành ngữ,… Nguyễn Du xuất thân từ một gia dình
dòng dõi quý tộc nhưng từ thầntrong đoạn thơ này nói riêng
và Truyện Kiều nói chung lại là từ bình dân như: cậy, chịu, lạy,
của chung, ngày xưa,…; có những câu thơ chủ yếu là hư từ
như Mai sau dù có bao giờ,…
- Sự kết hợp hài hòa giữa ngôn từ bác học và ngôn từ
bình dân thể hiện màn trao duyên vừa thiêng liêng trang trọng,
vừa thể hiện thế giới tâm trạng của Kiều chân thực sống động
như: Giữa đường đứt gánh tương tư, Hồn còn mang nặng lời
thề,…
 Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn Trao duyên đã chứng tỏ
Nguyễn Du đưa thể loại lục bát thuần dân tộc đạt đến độ chuẩn
mực cổ điển, đánh dấu sự phát triển tới đỉnh cao của thi ca
nước nhà giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ
XIX.
4. Đánh giá chung
- Vẻ đẹp ngôn ngữ dù là ca dao dân ca như Khăn thương nhớ

ai hay thơ bác học như đoạn Trao duyên (trích Truyện Kiều-
Nguyễn Du) đều là những viên ngọc quý báu của kho tàng văn
học nước nhà, rất cần chúng ta nâng niu, trân trọng, gìn giữ.
- Vẻ đẹp ngôn ngữ của bài ca dao hay đoạn thơ trên đã góp
phần nâng cao thị hiếu thẩm mĩ cho người thưởng thức văn học
nghệ thuật bao thế hệ,…
1.0
HẾT
6

×