1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam sớm trở thành ngành công nghiệp
xuất khẩu chủ lực trong q trình cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Mấy năm gần đây, ngành Dệt may xuất
khẩu Việt Nam liên tục giành được những thành tựu lớn, biểu hiện qua những
con số ấn tượng về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng trong kim
ngạch xuất khẩu của cả nước và tổng thu nhập quốc dân.
Tuy nhiên, gần đây có nhiều cảnh báo về tình trạng bất ổn trong thị
trường lao động, tình trạng yếu kém của cơng nghiệp phụ trợ cho ngành Dệt
may , tình trạng gia cơng chiếm đa số…Bên cạnh đó là áp lực cạnh tranh
ngày càng tăng trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy, đã đến lúc
năng lực cạnh tranh của ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam cần được đánh
giá một cách khách quan, qua đó tìm ra những giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh, xây dựng một ngành Dệt may xuất khẩu một cách bền vững, có
khả năng thích nghi với mơi trường cạnh tranh tồn cầu. Đó là lý do tác giả
chọn đề tài: Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực cạnh tranh của ngành
Dệt may xuất khẩu Việt Nam
Số liệu nghiên cứu chủ yếu được thu thập từ khoảng năm 2000 trở lại
đây.
Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành Dệt
may xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế, nghĩa là phân tích năng
lực cạnh tranh ngành Dệt may Việt Nam so với ngành Dệt may của quốc gia
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
khác mà không xem xét sự cạnh tranh trên thị trường nội địa. Mặt khác, luận
văn cũng không xem xét sự cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, so sánh, tổng hợp
phân tích, kết hợp những kết quả thống kê với sự vận dụng lý luận làm
sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận, và phụ lục, kết cấu của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: “Lý luận chung về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết
phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Chương 2: “Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất
khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế”
Chương 3:“Định hướng giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành
Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ
SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ rất phổ biến trong kinh tế, là một đặc trưng
của nền sản xuất hàng hóa. Theo ý nghĩa kinh tế, cạnh tranh là quá trình kinh
tế trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (cả nghệ
thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình
như chiếm lĩnh thị trường, tối đa hóa lợi ích, nâng cao vị thế trên thị trường.
Tuy nhiên, những mục tiêu này mới chỉ đúng trong phạm vi cấp doanh
nghiệp. Mục tiêu cạnh tranh xét trên tầm vĩ mơ cịn phải kể đến khả năng tạo
thêm thu nhập, việc làm và nâng cao phúc lợi cho người dân.
Trên mọi phương diện, cạnh tranh đều có vai trị rất lớn để mọi hoạt
động kinh tế diễn ra một cách hiệu quả, qua đó thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Trên bình diện quốc tế: Cạnh tranh kích thích các doanh nghiệp mở
rộng quy mô hoạt động và thị trường. Thông qua cạnh tranh, giao thương quốc
tế ngày càng được mở rộng, thúc đầy q trình chun mơn hóa sản xuất.
Trên bình diện quốc gia: Cạnh tranh khiến các nguồn lực được phân
bổ một cách hiệu quả nhất, cạnh tranh giúp các nhà sản xuất luôn sử dụng các
nguồn lực một cách tiết kiệm nhất. Cạnh tranh cịn góp phần phân phối lại thu
nhập và nâng cao phúc lợi xã hội
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Trên bình diện doanh nghiệp: Nâng cao năng lực cạnh tranh luôn là
mục tiêu phát triển thường trực và lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Bằng sự
thúc đẩy của lợi nhuận, doanh nghiệp luôn muốn đi đầu về chất lượng, giá cả,
mẫu mã, dưới áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp không ngừng
cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao trình độ cơng nghệ, đổi mới cách
quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Trong thực tế, tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về sức cạnh tranh hay
năng lực cạnh tranh. Đó là bởi cụm từ này là một phạm trù quá lớn để có thể tiếp
cận từ mọi khía cạnh. Chủ thể cạnh tranh có thể là của các tổ chức, ngành, lĩnh
vực, sản phẩm hoặc quốc gia và bao gồm tất cả các nhân tố ảnh hưởng tới nó như
hiệu quả thị trường, như các chính sách, cơ cấu thị trường và nghiệp vụ kinh
doanh về thương mại, đầu tư và các quy định…
M. Porter, người trong Hội đồng về năng lực cạnh tranh các ngành ở
Hoa Kỳ cho rằng chưa có định nghĩa thống nhất nào về năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, Hội đồng về năng lực cạnh tranh của Hoa Kỳ cũng đề nghị một
định nghĩa năng lực cạnh tranh như sau: “Năng lực cạnh tranh là năng lực
kinh tế về hàng hoá và dịch vụ của nền sản xuất của một nước có thể vượt
qua thử thách trên thị trường thế giới trong khi sức sống của dân chúng nước
ấy có thể được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài”1. Định nghĩa này tuy
lột tả được được tính cạnh tranh nhưng lại bị bó hẹp về năng lực cạnh tranh
cấp quốc gia, chưa nhấn mạnh đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và
của ngành.
1
The First Report to the President and Congress, 1992, Requested by Mr. Fred Bergsten, Chairman of
the Competitiveness Policy Council in the US House of Representatives, 15 March 1995.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Theo Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại, năng lực cạnh tranh là
“Năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm chí một quốc gia
khơng bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại về năng
lực kinh tế”2. Định nghĩa này đã bao quát được năng lực cạnh tranh của các
cấp độ nhưng diễn tả đầy đủ cụm từ “cạnh tranh” chưa rõ ràng.
Một định nghĩa tương tự trong Từ điển thuật ngữ kinh tế học thì năng
lực cạnh tranh là: “Khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần
của đồng nghiệp”3.
Giống như định nghĩa của Hội đồng về năng lực cạnh tranh Hoa Kỳ
định nghĩa này không nêu rõ được chủ thể cạnh tranh. Nhưng định nghĩa này
diễn tả rất tốt về cạnh tranh.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) (The OECD High Level Forum on Industrial
Competitiveness) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh
nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của
các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu
nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Như vậy, mỗi một định nghĩa đều có mặt ưu điểm và nhược điểm riêng,
nhưng định nghĩa của OECD là hoàn thiện nhất khi nêu được chủ thể cạnh
tranh và cụm từ cạnh tranh. Trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm
của OECD trong phân tích. Tuy nhiên, tác giả muốn bổ xung khái niệm này
dựa vào các định nghĩa trên như sau:
2
Goode, W., Dictionary of Trade Policy, Center for International Economics Studies, University of
Adelaide, 1997.
3
Từ điển thuật ngữ kinh tế học, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội, 2001, tr. 349.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
“Năng lực cạnh tranh là khả năng một doanh nghiệp, một ngành hay
một quốc gia có khả năng giành được thị phần trước các đối thủ cạnh tranh
để tạo ra thu nhập và việc làm cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”
1.1.3. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể được chia ra thành ba cấp độ:
Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/ doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Việc phân chia cấp độ năng lực cạnh tranh như trên chỉ có tính tương
đối. Mỗi một cấp độ đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ví dụ, bất cứ một
doanh nghiệp nào cũng đều sản xuất hoặc kinh doanh một loại hàng hóa dịch
vụ nhất định. Chỉ khi hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp có sức cạnh tranh
thì doanh nghiệp mới có sức cạnh tranh trên thị trường. Một ví dụ khác,
ngành Dệt may Việt Nam có sức cạnh tranh, có thị phần lớn trên thị trường
thế giới cũng có thể nói Việt Nam có năng lực cạnh tranh trên thị trường thế
giới,… Do vậy, cần phải nghiên cứu năng lực cạnh tranh trên mối quan hệ
giữa các cấp độ.
1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Uỷ ban phụ trách về năng lực cạnh tranh của các ngành ở Hoa Kỳ (The
U.S. President's Commission on Industrial Competitiveness) đưa ra định
nghĩa về năng lực cạnh tranh của một quốc gia như sau: “Năng lực cạnh
tranh của một quốc gia là khả năng mà quốc gia đó – trong điều kiện thị
trường tự do và cơng bằng – có thể sản xuất hàng hố dịch vụ đạt tiêu chuẩn
của thị trường quốc tế, đồng thời vẫn duy trì và mở rộng được thu nhập thực
tế của cơng dân nước mình” 4.
4
Prepared jointly by UNIDO and DSI - Development Strategy Institute - Ministry of Planning and
Investment, Vietnam industrial competitiveness review , 1999, p. 6.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Theo báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu (The Global
Competitiveness Report) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997 thì
“Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng mà quốc gia đó
duy trì và đạt được những tiến bộ trong việc cải thiện mức sống, được phản
ánh bằng mức tăng GDP trên đầu người”5.
Tóm lại, năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng xâm nhập hàng hóa
của một quốc gia trên thị trường quốc tế và đạt được những mục tiêu vĩ mơ
của quốc gia đó như tăng trưởng GDP, thu nhập và mức sống của người dân.
1.1.3.2. Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/ doanh nghiệp
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) (The OECD High Level Forum on Industrial
Competitiveness) đã định nghĩa về khái niệm năng lực cạnh tranh của ngành
như sau: “Năng lực cạnh tranh của ngành là khả năng của ngành trong việc
tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”6.
Tuy là định nghĩa của cấp ngành nhưng OECD đã gắn với điều kiện cạnh
tranh quốc tế. Định nghĩa này rất hợp lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay. Năng lực cạnh tranh cấp ngành là tổng hợp năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong một ngành và mối quan hệ giữa chúng. Nói
chung, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc của một ngành tuỳ
thuộc vào khả năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ, chất lượng, mức giá bằng
hoặc thấp hơn mức giá phổ biến trên thị trường mà không cần đến trợ giá.
1.1.3.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự
khác biệt, thương hiệu, bao bì... hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hoá
5
6
Global Competitiveness report, 1997.
OECD, Competitive Policy: A New Agenda
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định
đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá yếu khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh sản phẩm đó thấp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm,
không những doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,
doanh nghiệp cịn phải có chiến lược quảng bá, phát triển thị trường sản
phẩm, tổ chức tiêu thụ sản phẩm…
1.1.4. Các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh
1.1.4.1. Yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo các tiêu chí của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) có 8 nhóm tiêu
chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm:
Độ mở của nền kinh tế: Bao gồm các chỉ tiêu như: Hệ thống thuế quan
và phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đối, thị trường tài chính và tín
dụng…
Vai trị và hiệu lực của chính phủ: bao gồm mức độ can thiệp của Nhà
nước và Chính phủ trong, khả năng điều hành vĩ mơ của chính phủ, khả
năng kiểm sốt thuế của Chính phủ.
Sự phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệ: Khả năng thực hiện các
hoạt động trung gian tài chính một cách hiệu quả, rủi ro tài chính và
khả năng tiết kiệm
Trình độ phát triển cơng nghệ: Chỉ số về năng lực phát triển công nghệ
trong nước, khai thác công nghệ thông qua thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài hoặc qua các kênh chuyển giao khác.
Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng: Bao gồm trình độ phát triển trong
lĩnh vực bưu chính viễn thông, hệ thống giao thông…
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Trình độ quản lý doanh nghiệp: Trình độ quản lý nguồn nhân lực, tài
chính, sản xuất, marketing…
Số lượng và chất lượng lao động: Bao gồm các yếu tố về trình độ tay
nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu
quả của các chương trình xã hội.
Trình độ phát triển thể chế: Bao gồm các chỉ số về chất lượng hay hiệu
quả các thể chế pháp lý, luật và các văn bản pháp quy khác.
1.1.4.2. Yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh
nghiệp
Năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp được xác định trên cơ sở
bốn nhóm yếu tố cơ bản bao gồm:
- Chất lượng và khả năng cung ứng, mức độ chun mơn hóa đầu vào:
bao gồm khả năng chủ động được nguồn nguyên liệu sản xuất, nguồn công
nghệ và nguồn vốn. Việc sản xuất của ngành hay doanh nghiệp có được
chun mơn hóa qua từng khâu hay không, khả năng cung ứng sản phẩm triên
thị trường thế nào?
- Công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ: bao gồm hệ thống giao thông, thông
tin liên lạc hay hệ thống tài chính, tư vấn…
- Nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ và yêu cầu của khách hàng về chất
lượng sản phẩm, dịch vụ: Điều này là đánh giá năng lực cạnh tranh trên
phương diện nhu cầu sản phẩm, dịch vụ ngành/ doanh nghiệp cung ứng.
Thông qua nghiên cứu nhu cầu, ta có thể xác định được khả năng cung ứng
của ngành/ doanh nghiệp.
- Mức độ cạnh tranh trên lĩnh vực mà ngành/doanh nghiệp kinh doanh
và vị thế của ngành/doanh nghiệp so với các ngành/doanh nghiệp khác: Đây
là yếu tố quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
trên thị trường. Các thơng số có thể đánh giá là so sánh thị phần của ngành
hay doanh nghiệp trên thị trường, quy mô của ngành…
1.1.4.3. Yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thể hiện tập trung ở 4 yếu tố:
Giá cả:
Giá cả sản phẩm là biểu hiện về khả năng sản xuất hiệu quả hay không,
năng suất lao động cao hay thấp hay mức độ trang bị công nghệ của doanh
nghiệp. Cuộc chiến giá cả giữa các đối thủ cạnh tranh không bao giờ kết thúc.
Thông qua cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất không ngừng
được nâng cao, đồng thời giá cả sản phẩm được hạ đến mức thấp nhất. Người
tiêu dùng ln chọn giá cả làm tiêu chí để lựa chọn sản phẩm. Do vậy, yêu
cầu đối với các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh quốc tế phải khơng
ngừng giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng lao động, cải tiến công
nghệ…
Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng là thuộc tính khơng thể thiếu trong bất cứ hàng hoá và dịch
vụ nào. Khi mức sống của con người ngày càng tăng, thì nhu cầu được hưởng
thụ sản phẩm hay dịch vụ cũng ngày càng cao. Đầu tư phát triển chất lượng
sản phẩm là con đường phát triển một cách bền vững và là bài tốn khó của
doanh nghiệp. Khi chất lượng sản phẩm được nâng cao thì nhãn hiệu sản
phẩm mới được nhiều người tiêu dùng biết đến. Qua đó, thị phần của doanh
nghiệp được mở rộng, uy tín của doanh nghiệp ngày một gia tăng và tất yếu
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Mẫu mã sản phẩm:
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Mẫu mã sản phẩm đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu đa dạng của
người tiêu dùng, chiếm lĩnh các phân đoạn thị trường. Qua đó, sản phẩm có
năng lực cạnh tranh cao.
Khả năng tổ chức tiêu thụ sản phẩm:
Nếu khâu tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt thì doanh nghiệp có thể
làm giảm chi phí trung gian, qua đó làm giảm giá thành sản phẩm. Hơn nữa,
sản phẩm dù có chất lượng tốt, giá cả hấp dẫn nhưng khơng có chiến lược
marketing tốt thì khơng được nhiều người tiêu dùng biết đến. Xu hướng hiện
nay, các doanh nghiệp ngày càng đầu tư nhiều cho thương hiệu sản phẩm và
marketing sản phẩm
1.2. XÂY DỰNG MƠ HÌNH ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH/DOANH NGHIỆP
1.2.1. Các phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh của ngành
1.2.1.1. Phương pháp 1: Phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ sở đánh
giá lợi thế so sánh hay khả năng sinh lời trên một đơn vị sản phẩm
Phương pháp này đánh giá năng lực cạnh tranh trong trạng thái động
dựa trên hệ thống các chỉ số. Các chỉ số này cho phép xác định được mức độ
đóng góp của ngành/doanh nghiệp vào nền kinh tế. Khi phân tích năng lực
cạnh tranh theo phương pháp này cần tính đến một số dự báo như: Biến động
chu kỳ sản phẩm, mức độ phổ biến cơng nghệ và tích lũy kinh nghiệm, chi phí
đầu vào, những thay đổi trong chính sách của Chính phủ và khuynh hướng
phát triển…
Ưu điểm của phương pháp này là đưa ra được những phân tích định
lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, phương pháp này khá phức
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
tạp và khó thực hiện, ít được áp dụng trong thực tế, đặc biệt rất khó ứng dụng
vào việc phân tích năng lực cạnh tranh của một ngành ở nước ta.
1.2.1.2. Phương pháp 2: Phân tích theo quan điểm tổng hợp
Hầu hết các khái niệm cạnh tranh xét từ phạm vi của ngành/doanh nghiệp
đều đánh giá năng lực cạnh tranh dựa trên cơ sở chi phí thấp, sản phẩm tốt,
công nghệ cao hoặc là tổ hợp của các yếu tố này. Một nhà sản xuất thường
được gọi là nhà sản xuất cạnh tranh nếu có khả năng cung ứng một sản phẩm
có chất lượng tốt với mức giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Một doanh
nghiệp được xem là có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp đó duy trì được
vị thế của mình trên thị trường cùng các nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay
thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung
cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng
hoặc cao hơn.
Ưu thế cạnh tranh của một nhà sản xuất hay một doanh nghiệp so với
các đối thủ cạnh tranh trong một ngành công nghiệp được thể hiện trên hai
mặt: ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) và ưu thế cạnh tranh bên
ngoài (ưu thế về mức độ khác biệt hoá).
Ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) là ưu thế được thể
hiện trong việc làm giảm các chi phí sản xuất, chi phí quản lý của nhà sản
xuất hay các giải pháp nâng cao năng suất lao động nhờ áp dụng những
công nghệ hiện đại… Ưu thế này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ
giá cả và chất lượng sản phẩm.
Ưu thế cạnh tranh bên ngồi (ưu thế về mức độ khác biệt hố) là ưu
thế dựa vào khác biệt của các sản phẩm mà nhà sản xuất tạo ra so với các
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Chất lượng khác biệt của sản phẩm phụ
thuộc vào năng lực maketing của nhà sản xuất. Chất lượng khác biệt của
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
sản phẩm tạo nên “giá trị cho người mua” thể hiện qua việc giảm chi phí sử
dụng sản phẩm hay tính tuyệt hảo khi sử dụng sản phẩm. Ưu thế cạnh tranh
bên ngoài tạo cho nhà sản xuất “quyền lực thị trường” ngày càng tăng.
Phương pháp này là một cơng cụ mạnh, ưu điểm là phân tích bằng định
lượng, vừa chỉ ra được những nhân tố thúc đẩy hay kìm kãm tính cạnh tranh
bằng phân tích định tính. Phương pháp này cho phép đánh giá năng lực cạnh
tranh từ bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp hay của ngành. Song có
một hạn chế là phương pháp này thường được sử dụng nhiều để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hơn là năng lực cạnh tranh của một
ngành.
1.2.1.3. Phương pháp 3: Phân tích năng lực cạnh tranh theo cấu trúc
ngành của Michael Porter
Đây chính là phương pháp phân tích theo “Quan điểm quản trị chiến
lược” của Michael Porter. Theo phương pháp này, đối với mỗi ngành, năng
lực cạnh tranh được xem xét theo 5 yếu tố:
Sự thâm nhập của các tổ chức mới vào lĩnh vực kinh doanh;
Các sản phẩm hay dịch vụ thay thế;
Sức mạnh của nhà cung ứng;
Sức mạnh của người mua;
Mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành .
(Tham khảo phụ lục 2: Mơ hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
theo mơ hình kim cương của Michael Porter)
Đây là một phương pháp phân tích sâu những nhân tố chính tác động
đến lợi thế cạnh tranh của ngành. Tuy nhiên, cả năm nhân tố trên đây là
những nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành. Sẽ rất
thiếu xót nếu đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngành nếu không xét đến
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
yếu tố bên trong của ngành (năng lực sản xuất của ngành). Hơn nữa, trong mơ
hình có xét đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành, nhưng trong phạm vi luận
văn tác giả không nghiên cứu sự cạnh tranh trong ngành.
1.2.2. Xây dựng mơ hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
Tác giả xin được đề xuất mơ hình riêng trong nghiên cứu đề tài này. Về
cơ bản mơ hình này phỏng theo mơ hình của Michael Porter, tác giả có lược
đi một vài yếu tố “ngoại vi” và thêm vào yếu tố “nội vi” cho phù hợp với mục
đích nghiên cứu của đề tài.
Mơ hình này xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dưới 4 tác động:
Năng lực sản xuất;
Thị trường tiêu thụ và các đối thủ cạnh tranh;
Các ngành hỗ trợ liên quan (Công nghiệp phụ trợ)
Môi trường cơ chế, chính sách .
(Nhân tố năng lực sản xuất được xem như là yếu tố bên trong đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành, bốn nhân tố còn lại là những yếu tố bên
ngồi)
Tiếp theo tác giả sẽ giải thích rõ hơn về các nhân tố:
Năng lực sản xuất: Năng lực sản xuất là nhân tố bên trong quan trọng
nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Năng lực sản xuất được cấu
thành từ các yếu tố: Nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực, công nghệ sản xuất,
và quy mơ sản xuất. Cịn yếu tố giá cả, chất lượng, sản lượng sản phẩm là
những nhân tố biểu hiện hay đo lường năng lực sản xuất.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Thị trường tiêu thụ và đối thủ cạnh tranh: Thị trường tiêu thụ quyết
định mức cầu của ngành. Thị trường tiêu thụ ở đây xét trên quy mô quốc tế
nghĩa là cả thị trường tiêu thụ trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, luận văn
chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu của Việt Nam
nên sẽ tập trung đi sâu vào thị trường tiêu thụ quốc tế mà ngành Dệt may Việt
Nam đã cung cấp. Còn đối thủ cạnh tranh là những đối tượng hiện tại và tiềm
ẩn sản xuất kinh doanh những mặt hàng tương tự của ngành. Đó là những
doanh nghiệp/ ngành của nước khác đang dành giật thị phần trên thị thị
trường thế giới, từ đó mà ảnh hưởng đến lợi nhuận, doanh thu hay nói chung
là năng lực cạnh tranh của ngành.
Đối thủ cạnh tranh vừa là nhân tố ảnh hưởng vừa là nhân tố đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành. Trong luận văn này tác giả chỉ đi sâu phân
tích đối thủ cạnh tranh của nước khác trong ngành Dệt may trên thị trường
quốc tế
Ngành hỗ trợ liên quan: Trong một nền kinh tế có thể nói khơng có
một ngành nào lại độc lập hồn tồn với ngành khác. Các ngành ln có sự
tác động qua lại với nhau. Một ngành chỉ có thể phát triển được nếu có các
ngành hỗ trợ liên quan mà bản thân ngành đó khơng tự đáp ứng được. Trong
luận văn này, tác giả chỉ phân tích cơng nghiệp phụ trợ cho ngành Dệt may
xuất khẩu của Việt Nam.
Môi trường cơ chế chính sách: Có thể nói đây là yếu tố bên ngoài
quan trọng nhất đối với khả năng phát triển của ngành. Mỗi một quốc gia đều
lựa chọn cho mình một số ngành mũi nhọn và đưa ra những chính sách thích
hợp để tạo mơi trường thuận lợi nhằm mở rộng quy mô của ngành, tăng lợi
thế cạnh tranh của ngành như: Xây dựng một chiến lược dài hạn cho phát
triển ngành, xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở, quy hoạch vùng nguyên liệu
nhằm tạo điều kiện phát triển cho ngành, hay tạo ra các rào cảng thuế và phi
thuế làm giảm áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, và không thể không nhắc tới
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường thế giới… Trong luận văn này, tác giả chỉ phân tích mơi trường cơ chế
chính sách của Việt Nam đã áp dụng tác động đến năng lực cạnh tranh của
ngành Dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
1.2.3. Lý thuyết về mô hình SWOT
Phân tích SWOT là việc đánh giá một cách chủ quan các dữ liệu được
sắp xếp theo định dạng SWOT dưới một trật tự lơ gíc dễ hiểu, dễ trình bày, dễ
thảo luận và đưa ra quyết định, có thể được sử dụng trong mọi quá trình ra
quyết định. Mẫu phân tích SWOT được trình bày dưới dạng một ma trận 2
hàng 2 cột, chia làm 4 phần: Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu),
Opportunities (cơ hội), and Threats (thách thức).
Mơ hình SWOT thường đưa ra 4 chiến lược cơ bản: (1) SO (Strengths Opportunities): Các chiến lược dựa trên ưu thế của tổ chức để tận dụng các cơ
hội thị trường. (2) WO (Weaks - Opportunities): Các chiến lược dựa trên khả
năng vượt qua các yếu điểm của tổ chức để tận dụng cơ hội thị trường. (3) ST
(Strengths - Threats): Các chiến lược dựa trên ưu thế của của tổ chức để tránh
các nguy cơ của thị trường. (4) WT (Weaks - Threats): Các chiến lược dựa
trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm của tổ chức để tránh
các nguy cơ của thị trường.
Để thực hiện phân tích SWOT cho vị thế cạnh tranh của một tổ chức,
người ta thường tự đặt các câu hỏi sau:
- Strengths: Lợi thế của tổ chức là gì? Cơng việc nào mình làm tốt
nhất? Nguồn lực nào mình cần, có thể sử dụng? Ưu thế mà người khác thấy
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
được ở mình là gì? Phải xem xét vấn đề từ trên phương diện bản thân và của
người khác. Các ưu thế thường được hình thành khi so sánh với đối thủ cạnh
tranh. Chẳng hạn, nếu tất cả các đối thủ cạnh tranh đều cung cấp các sản
phẩm chất lượng cao thì một quy trình sản xuất với chất lượng như vậy không
phải là ưu thế mà là điều cần thiết phải có để tồn tại trên thị trường.
- Weaknesses: Cần đặt câu hỏi, tại sao đối thủ làm tốt hơn mình? Điều
gì làm hạn chế năng lực cạnh tranh của tổ chức mình. Phải xem xét vấn đề
trên cơ sở bên trong và cả bên ngoài. Người khác có thể nhìn thấy yếu điểm
mà bản thân mình khơng thấy.
- Opportunities: Cơ hội tốt cho tổ chức đang ở đâu? Xu hướng đáng
quan tâm nào mình đã biết? Cơ hội có thể xuất phát từ sự thay đổi công nghệ
và thị trường dù là quốc tế hay trong phạm vi hẹp, từ sự thay đổi trong chính
sách của nhà nước có liên quan tới lĩnh vự hoạt động của tổ chức, từ sự thay
đổi khuôn mẫu xã hội, từ các sự kiện diễn ra trong khu vực. Phương thức tìm
kiếm hữu ích nhất là rà sốt lại các ưu thế của tổ chức và tự đặt câu hỏi liệu
các ưu thế ấy có mở ra cơ hội mới nào khơng. Cũng có thể làm ngược lại, rà
sốt các yếu điểm của mình và tự đặt câu hỏi liệu có cơ hội nào xuất hiện nếu
loại bỏ được chúng.
- Threats: Những trở ngại đang gặp phải là gì? Các đối thủ cạnh tranh
đang làm gì? Những địi hỏi đặc thù về công việc, về sản phẩm hay dịch vụ có
thay đổi gì khơng? Thay đổi cơng nghệ có nguy cơ gì với tổ chức hay khơng?
Có vấn đề gì về nợ q hạn hay dịng tiền? Liệu có yếu điểm nào đang đe doạ
tổ chức không? Các phân tích này thường giúp tìm ra những việc cần phải
làm và biến yếu điểm thành triển vọng.
Mơ hình phân tích SWOT thích hợp cho việc đánh giá hiện trạng của tổ
chức thơng qua việc phân tích tình hình bên trong (Strengths và Weaknesses)
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
và bên ngoài (Opportunities và Threats) của tổ chức. SWOT thực hiện lọc
thông tin theo một trật tự dễ hiểu và dễ xử lý hơn.
Trong phần cuối chương 2 của luận văn, tác giả sử dụng mô hình này
để tổng kết lại năng lực cạnh tranh của ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Mơ hình SWOT là một công cụ quan trọng để đề xuất, giải pháp sau khi phân
tích và đánh giá thực trạng. Lý thuyết về mơ hình SWOT trên đây khơng chỉ
dành để phân tích trong các doanh nghiệp mà nó cịn áp dụng để đưa ra những
giải pháp vĩ mô như trong luận văn này.
1.3. VỊ TRÍ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.3.1. Vị trí của ngành Dệt may xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
Nghề ươm tơ, dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống lâu đời của
Việt Nam được truyền từ đời này qua đời khác nhờ vào những đôi bàn tay
khéo léo của người phụ nữ Việt Nam. Những nghề truyền thống này là một
nền tảng vô cùng quý báu cho ngành Dệt may của Việt Nam phát triển. Tuy
nghề Dệt may được hình thành khá sớm ở Việt Nam nhưng chủ yếu mang
tính thủ cơng, lạc hậu so với thế giới.
Thời điểm năm 1985 nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập
trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung ứng theo chỉ tiêu của
Nhà nước. Ngành Dệt may chủ yếu cung cấp cho tiêu dùng nội địa, một số
lượng nhỏ xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu. Đến cuối năm 1990, khi hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa bị tan rã, ngành Dệt may xuất khẩu của nước
ta gần như mất hết thị trường xuất. Từ năm 1991 trở đi, nhờ có chính sách
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của ngành Dệt may Việt Nam.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Ngày 23 tháng 4 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt chiến
lược phát triển ngành Dệt may đến năm 2010 theo QĐ số 55/2001/QĐ-TTg.
Với chiến lược này ngành Dệt may có nhiều cơ hội mới để phát triển đó là:
Chính phủ có nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ, khuyến khích phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh như được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được
Ngân hàng đầu tư và phát triển, các Ngân hàng thương mại quốc doanh bảo
lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu, cho vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh với lãi suất ưu đãi, được hưởng thuế thu nhập ưu đãi 25%.
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm
2015, định hướng đến năm 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
ngày 10/3/2008 tại Quyết định 36/2008/QĐ-TTg. Chiến lược đưa ra mục tiêu
cụ thể giai đoạn 2008-2010, ngành Dệt may tăng trưởng sản xuất hàng năm từ
16-18%, tăng trưởng xuất khẩu đạt 20%. Giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng
sản xuất hàng năm từ 12-14%, tăng trưởng xuất khẩu đạt 15%. Doanh thu
toàn ngành đến 2010 đạt 14,8 tỷ USD, tăng lên 22,5 tỷ USD vào năm 2015 và
lên 31 tỷ USD trong đó, xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020.
Bảng 1.1. Bảng so sánh kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt may với
tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP (ĐV: Ngàn USD)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
XKDM 1892
(1)
KNXK 14482
(2)
GDP 27600
(3)
(1)/(2) 13,1
ĐV: %
(1)/(3)
6,8
ĐV: %
1975
2732
3609
4385
4862
5784
7780
15029
16706
20149
26485
32447
39600
48000
30000
33500
38300
44700
52900
60800
65900
13,1
16,3
17,9
16,5
15
14,9
16
6,6
8,1
9,4
9,8
9,3
9,5
11,8
Năm
Nguồn: Tổng cục thống kê
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Từ đó đến nay, ngành Dệt may Việt Nam ln nằm trong tốp đầu trong
10 ngành có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng khoảng
20 – 40% và tốc độ tăng trưởng này khá ổn định. Kim ngạch xuất khẩu của
ngành Dệt may luôn chiếm khoảng từ 13 đến 17% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước, chiếm khoảng 6% cho GDP hàng năm, đóng góp đáng kể vào tăng
tưởng GDP của cả nước. Đặc biệt, năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước đạt 48 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt may đạt
7,78 tỷ USD, tăng 34,5% so với cùng kỳ chiếm 16% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước, đóng góp 11% cho GDP, cao nhất trong giai đoạn từ năm
2000 đến nay. Cũng trong năm 2007, Lần đầu tiên Việt Nam đã lọt vào top 10
nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu Dệt may. Ngành Dệt may đã phát triển
thành một trong những ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất của Việt Nam.
Với tỷ lệ trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ đóng góp vào GDP
như trên, ngành Dệt may thực sự xứng đáng là một ngành công nghiệp xuất
khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Không những thế, lần đầu tiên ngành dệt may
Việt Nam nằm trong top 10 nước xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới.
Qua đó, ngành Dệt may đã góp phần tạo dựng danh tiếng và hình ảnh Việt
Nam, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may
xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu
là vì những lý do sau:
Một là, như ta đã biết, cạnh tranh là yếu tố đặc trưng của cơ chế thị
trường và khơng ai có thể phủ nhận vai trị tích cực của nó trong cơ chế thị
trường.