Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Nghiên cứu tác dụng của các cao chiết khác nhau từ bẹ cây móc theo hướng làm thuốc cầm máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.61 KB, 61 trang )



BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI




ĐỖ HOÀNG ANH

NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA CÁC
CAO CHIẾT KHÁC NHAU TỪ BẸ CÂY
MÓC THEO HƯỚNG LÀM THUỐC
CẦM MÁU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ



HÀ NỘI - 2015


BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

ĐỖ HOÀNG ANH

NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA CÁC
CAO CHIẾT KHÁC NHAU TỪ BẸ CÂY
MÓC THEO HƯỚNG LÀM THUỐC


CẦM MÁU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

Người hướng dẫn:
1. PGS. TS. Đào Thị Vui
2. ThS. Ngô Thanh Hoa
Nơi thực hiện:
Bộ môn Dược lực
Trường Đại học Dược Hà Nội




HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả sự chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn tới
PGS.TS. Đào Thị Vui, người thầy đã luôn tận tình giúp đỡ, hết lòng chỉ bảo em từ
những bước đầu nghiên cứu đến khi hoàn thành khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Thu Hằng, Bộ môn Dược liệu,
ThS. Ngô Thanh Hoa, Bộ môn Dược lực, trường Đại học Dược Hà Nội đã cho em
những góp ý quý báu và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cám ơn tới tới các thầy, cô giáo và các anh chị kỹ thuật viên
Bộ môn Dược lực, Bộ môn Y học cơ sở, Bộ môn Dược liệu đã tạo mọi điều kiện,
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, các phòng ban, cùng
toàn thể các thầy cô giáo, các bộ môn trường Đại học Dược Hà Nội đã tận tình dạy
dỗ, giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường.

Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới những người thân trong
gia đình, những người bạn đã luôn kịp thời động viên, ủng hộ em trong suốt quá
trình học tập tại trường cũng như trong thời gian thực hiện khóa luận
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên


Đỗ Hoàng Anh









MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1:TỔNG QUAN 2
1.1. Các bệnh liên quan tới chảy máu 2
1.1.1. Chảy máu do rối loạn chức năng thành mạch 2
1.1.2. Chảy máu do tiểu cầu 3
1.1.3. Chảy máu do rối loạn các yếu tố đông máu 5
1.2. Một số mô hình nghiên cứu tác dụng của thuốc lên thành mạch 8
1.2.1. Mô hình nghiên cứu tác dụng co mạch trên tai thỏ cô lập 8
1.2.2. Mô hình gây tăng tính thấm thành mạch 9
1.3. Cây Móc và các nghiên cứu về tác dụng dược lý của cây Móc 12
1.3.1. Một số đặc điểm của cây Móc 12

1.3.2. Các nghiên cứu về tác dụng dược lý của cây Móc 13
Chương 2:ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
2.1. Đối tượng nghiên cứu 17
2.1.1. Nguyên liệu nghiên cứu 17
2.1.2. Động vật nghiên cứu 19
2.1.3. Hóa chất và trang thiết bị 19
2.2. Nội dung nghiên cứu 20
2.3. Phương pháp nghiên cứu 20
2.3.1. Định tính thành phần hóa học của bẹ cây móc 21
2.3.2. Nghiên cứu tác dụng theo hướng cầm máu của các cao chiết bẹ móc 21
2.3.3. Nghiên cứu tác dụng cầm máu của các phân đoạn của cao chiết có tác dụng
tốt nhất 24
2.4. Phương pháp xử lý số liệu. 24
Chương 3:THỰC NGHIỆM, KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 25
3.1. Kết quả nghiên cứu 25
3.1.1. Định tính sơ bộ thành phần hóa học trong bẹ móc 25
3.1.2. Tác dụng của các cao chiết khác nhau của bẹ cây móc 34


3.1.3. Tác dụng cầm máu của các phân đoạn từ dịch chiết có tác dụng tốt nhất 38
3.2. Bàn luận 39
3.2.1. Định tính thành phần hóa học của bẹ móc 39
3.2.2. Tác dụng của các cao chiết khác nhau từ bẹ cây móc 41
3.2.3. Tác dụng cầm máu đường uống của các phân đoạn cao chiết methanol từ bẹ
móc 44
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC






DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

aPTT Activated Partial Thromboplastin Time
(Thời gian thromboplastin hoạt hóa từng phần )
ITP Immune thrombocytopenic purpura
(Xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn)
IgG Immunoglobulin G
PCCs Prothrombin complex concentrates
(Phức hợp prothrombin)
PIVKA Protein induced by vitamine K absence
(Các tiền chất đông máu)
PT Prothrombin Time
(Thời gian prothrombin)
TT Thrombin Time
(Thời gian thrombin)








DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

2.1 Hiệu suất chiết và hàm ẩm của các cao chiết 17
2.2 Hiệu suất chiết và hàm ẩm của các cắn phân đoạn
cao methanol
19
3.1 Tổng hợp kết quả định tính sơ bộ thành phần hóa
học trong bẹ móc
33
3.2 Tác dụng cầm máu đường uống của các cao chiết
khác nhau của bẹ móc trên thời gian chảy máu
34
3.3 Tác dụng cầm máu tại chỗ của các cao chiết khác
nhau của bẹ móc
35
3.4 Kết quả tác dụng giảm tính thấm thành mạch của
các cao khác nhau của bẹ cây móc
36
3.5 Kết quả tác dụng của bẹ móc trên hệ mạch tai thỏ
cô lập
37
3.6 Kết quả tác dụng cầm máu đường uống của các
phân đoạn cao chiết methanol
38





DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình Tên hình Trang

2.1 Sơ đồ chiết phân đoạn cao chiết có tác dụng tốt
nhất
18
2.2 Sơ đồ thiết kế nghiên cứu

21
1


ĐẶT VẤN ĐỀ

Chảy máu là một hội chứng tương đối phổ biến, có thể xảy ra ở mọi cơ quan
trong cơ thể như chảy máu cam, chảy máu chân răng, chảy máu dưới da, chảy máu
các tạng, chảy máu não…thường do va chạm, chấn thương. Các bệnh liên quan đến
chảy máu rất đa dạng và nguy hiểm nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Trong khi đó các thuốc điều trị các bệnh chảy máu hiện có trên thị trường chưa
nhiều, có nhiều tác dụng không mong muốn và ít được đầu tư để nghiên cứu tìm ra
thuốc mới. Vì vậy, việc phát triển các thuốc có tác dụng cầm máu là vấn đề rất cấp
thiết hiện nay.
Việt Nam có nền y học cổ truyền từ lâu đời với nguồn dược liệu vô cùng
phong phú và đầy tiềm năng phát triển, trong đó có rất nhiều dược liệu có tác dụng
cầm máu. Bẹ cây móc (Caryota mitis) hay còn gọi là Tông lư, là một vị thuốc cầm
máu được nhân dân ta sử dụng từ lâu và cho tác dụng tốt [11], [12]. Tuy nhiên chưa
có nghiên cứu nào về tác dụng cầm máu của bẹ móc trên thực nghiệm nên việc sử
dụng dược liệu này còn hạn chế. Trong mấy năm gần đây, nhóm nghiên cứu đã tập
trung vào đánh giá tác dụng cầm máu của bẹ móc trên chuột bình thường và chuột
gây rối loạn đông máu và kết quả cho thấy thuốc có tác dụng cầm máu và cơ chế
của tác dụng này có lẽ liên quan đến tác dụng trên thành mạch[14]. Để tiếp tục
nghiên cứu về bẹ móc, hướng tới việc xác định hoạt chất có tác dụng cầm máu và
dung môi chiết xuất tốt nhất, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tác dụng của

các cao chiết khác nhau từ bẹ cây móc theo hướng làm thuốc cầm máu” với các
mục tiêu sau:
1. Định tính sơ bộ thành phần hóa học của bẹ cây móc.
2. Đánh giá tác dụng theo hướng cầm máu của các cao chiết khác nhau của
bẹ cây móc để xác định cao chiết có tác dụng tốt nhất.
3. Đánh giá tác dụng cầm máu của các phân đoạn từ cao chiết có tác dụng
tốt nhất.

2


Chương 1
TỔNG QUAN
Cầm máu là một quá trình diễn ra nhằm hạn chế hoặc ngăn cản máu chảy ra
khỏi thành mạch khi thành mạch bị tổn thương.
Quá trình cầm máu là một chuỗi các phản ứng gồm năm giai đoạn: co mạch,
hình thành nút tiểu cầu, đông máu, co cục máu đông và tan cục máu đông [6]. Để
các giai đoạn của quá trình cầm máu diễn ra liên tục cần có sự tham gia của rất
nhiều thành phần trong cơ thể như thành mạch máu, tiểu cầu, các yếu tố đông máu,
các enzym… Chỉ cần một rối loạn nhỏ nhất của các yếu tố trên cũng sẽ gây ra sự
bất thường trong quá trình cầm máu dẫn đến các bệnh lý xuất huyết với các triệu
chứng khác nhau trên lâm sàng.
1.1. Các bệnh liên quan tới chảy máu
Chảy máu có thể do các nguyên nhân: do rối loạn chức năng thành mạch, do
tiểu cầu, do rối loạn các yếu tố đông máu [7].
1.1.1. Chảy máu do rối loạn chức năng thành mạch
Thành mạch đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình cầm máu. Khi mạch
máu bị tổn thương, phản xạ đầu tiên của cơ thể là các tế bào nội mạc sẽ giải phóng
ra các chất trung gian hóa học như angiotensin II,… có tác dụng co mạch. Trong
bệnh lý chảy máu do rối loạn chức năng thành mạch, tình trạng máu vẫn bình

thường nhưng các mạch máu bị tổn thương làm thay đổi tính thấm thành mạch và
trương lực mạch máu khiến mạch máu không thực hiện trọn vẹn được vai trò của nó
[30]. Một số bệnh lý chảy máu thường gặp do nguyên nhân này là:
1.1.1.1. Hội chứng Scholein – Henoch (Xuất huyết do dị ứng)
Cơ chế bệnh sinh: Do vi khuẩn hoặc các chất gây dị ứng tạo ra phản ứng
kháng nguyên – kháng thể ở lớp niêm mạc thành mạch gây phản ứng viêm cấp tính,
dẫn đến tăng tính thấm thành mạch và gây xuất huyết. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi
nhưng thường gặp nhất ở trẻ em và người trẻ.
3


Triệu chứng lâm sàng: Các ban xuất huyết (không có mảng xuất huyết)
thường ở các chi; viêm khớp (đầu gối, mắt cá, cổ tay); đau bụng; rối loạn thận gây
đi tiểu ra máu, albumin niệu.
Điều trị: corticoid (chỉ làm giảm triệu chứng)[27], tìm nguyên nhân để loại
bỏ, dùng vitamin C và PP [1].
1.1.1.2. Bệnh Rendu – osler
Bệnh có tính di truyền theo tính trội trên nhiễm sắc thể thường khiến mao
mạch bị giãn hoặc xuất hiện u máu xuất huyết. Bệnh hiếm gặp, xuất hiện ở cả hai
giới.
Triệu chứng lâm sàng: chảy máu thường xuyên, hay gặp chảy máu cam. Các
triệu chứng phát triển theo thời gian, hay gặp ở khoảng tuổi 12 cũng có khi muộn
hơn. U mạch máu thường xuất hiện sau 20 tuổi ở da và niêm mạc, rất kín đáo, chỉ
khám kỹ mới phát hiện được.
Các xét nghiệm đông máu, số lượng tiểu cầu đều bình thường.
Điều trị: cầm máu tại chỗ, truyền máu hoặc huyết tương khi cần, dùng
vitamin C liều cao [1],[27].
1.1.1.3. Chảy máu do thành mạch dễ vỡ do thiếu vitamin C
Vitamin C tham gia tạo colagen và một số thành phần khác tạo nên mô liên
kết ở xương, răng, mạch máu. Do đó thiếu vitamin C thành mạch máu sẽ không

bền, dễ chảy máu.
Triệu chứng lâm sàng: chảy máu dưới da dưới dạng lấm tấm, chảy máu chân
răng, chảy máu trong xương, ổ tụ máu dưới cốt mạc.
Điều trị: Vitamin C liều cao [27].
Ngoài các bệnh trên, một số bệnh khác làm giảm sức bền thành mạch dẫn
đến chảy máu khá phổ biến như: đái tháo đường (chảy máu võng mạc), bệnh thận
(đái ra máu); bệnh Cushing; cao huyết áp,…[1].
1.1.2. Chảy máu do tiểu cầu
Khi chảy máu, tiểu cầu sẽ được huy động tới vị trí tổn thương, tại đây chúng
được gắn vào tế bào nội mạc bị tổn thương; mặt khác chúng cũng tiếp tục được các
4


yếu tố khác hoạt hóa để tiếp tục kết tụ các tiểu cầu trong huyết tương, tạo thành nút
tiểu cầu để sơ bộ bịt kín vết thương. Các bệnh làm ảnh hưởng tới số lượng và chất
lượng tiểu cầu đều gây ra các bệnh chảy máu.
1.1.2.1. Bệnh tăng tiểu cầu tiên phát (Thromobcytocis)
Bệnh hiếm gặp, gặp ở cả 2 giới, thường trên tuổi 50.
Triệu chứng lâm sàng: xuất huyết dưới da, niêm mạc, xuất huyết tiêu hóa,
não, màng não; thường không xảy ra tắc mạch.
Điều trị: dùng phóng xạ P33 hoặc myleran, nếu có tắc mạch phải sử dụng
thuốc chống đông (thận trọng) [1].
1.1.2.2. Bệnh suy nhược tiểu cầu Glanzman
Bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Số lượng tiểu cầu bình thường
nhưng rối loạn tập trung tiểu cầu do không có hoặc rối loạn chức năng của receptor
gắn tiểu cầu.
Biểu hiện lâm sàng: Chảy máu mức độ nhẹ như chảy máu cam, chảy máu
chân răng, xuất huyết dưới da và niêm mạc.
Điều trị: Truyền huyết tương tươi hoặc truyền tiểu cầu. Desmopressin hoặc
các thuốc ức chế ly giải cục máu đông cũng có tác dụng tốt [27].

1.1.2.3. Giảm tiểu cầu thứ phát
Giảm tiểu cầu được định nghĩa là số lượng tiểu cầu dưới 100.000 tế bào/mm
3

hoặc giảm trên 50% so với giá trị ban đầu.
Giảm tiểu cầu thứ phát có thể là do mất máu, nhiễm trùng hay sử dụng một
số thuốc (VD: quinidin, quinin, kháng sinh sufonamid,…) hoặc phơi nhiễm với hóa
chất kéo dài (thuốc trừ sâu, dung môi hữu cơ). Các thuốc làm giảm tiểu cầu có thể
do một số cơ chế: thuốc gây độc tính trực tiếp, ức chế tủy xương, các tác nhân hóa
học trị liệu thường theo cơ chế này; hoặc theo cơ chế miễn dịch, thuốc làm cơ thể
sinh ra kháng thể kháng tiểu cầu.
Triệu chứng lâm sàng: bầm tím, chấm xuất huyết, chảy máu cam.
Điều trị: tìm nguyên nhân gây bệnh để loại bỏ; truyền tiểu cầu hoặc huyết
tương [23].
5



1.1.2.4. Xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn (ITP)
Xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn là một bệnh tự miễn, trong đó một tự
kháng thể IgG được tạo thành và gắn vào tiểu cầu; phần Fc của tự kháng thể này bị
đại thực bào ở lách nhận diện (do chúng có thụ thể Fc). Các đại thực bào ở lách sẽ
gắn với tiểu cầu có phủ kháng thể làm tiểu cầu bị tiêu hủy. Mặc dù có sự gắn bổ thể
vào tự kháng thể nhưng quá trình này không gây tiêu hủy tiểu cầu trực tiếp [7].
Bệnh đặc trưng bởi xuất huyết da và niêm mạc như niêm mạc miệng, tiêu
hóa; rong kinh; hiếm khi chảy máu nội sọ hay xuất huyết võng mạc; số lượng tiểu
cầu rất thấp, có thể tiểu cầu lớn, hình thái khác thường.
Điều trị: corticoid, các globulin miễn dịch, khi cần thiết sử dụng các thuốc ức
chế miễn dịch, nếu xuất huyết nặng có thể truyền máu hoặc tiểu cầu [27].
1.1.3. Chảy máu do rối loạn các yếu tố đông máu


Có 13 yếu tố đông máu tham gia vào quá trình cầm máu. Chúng vô cùng
quan trọng cho giai đoạn hình thành đông máu. Các yếu tố này hầu hết được tổng
hợp ở gan và giải phóng vào huyết tương dưới dạng tiền chất không hoạt động, chỉ
khi nào được hoạt hóa chúng mới tham gia vào quá trình đông máu. Một số bệnh
gây giảm số lượng và chức năng của các yếu tố này sẽ gây chảy máu.
1.1.3.1. Bệnh Hemophilia
Hemophilia là một rối loạn chảy máu mà kết quả từ sự thiếu hụt bẩm sinh
một yếu tố đông máu của huyết tương. Bệnh Hemophilia A gây ra do sự thiếu hụt
yếu tố VIII, bệnh Hemophilia B gây ra do sự thiếu hụt yếu tố IX. Hemophilia B ít
gặp hơn 4-5 lần so với Hemophilia A. Bệnh Hemophilia di truyền trên gen lặn của
nhiễm sắc thể X nên di truyền từ mẹ sang con trai.
Triệu chứng lâm sàng: chảy máu dưới da, xuất hiện mảng máu sau chấn
thương nhẹ, tụ máu (đặc biệt là đầu gối, mắt cá chân, khuỷu tay), sưng đau khớp (do
chảy máu vào khoang khớp), chảy máu quá nhiều sau khi phẫu thuật hoặc chấn
thương.
6


Xét nghiệm cận lâm sàng: kéo dài aPTT, giảm yếu tố VIII (Hemọhilia A)
hoặc yếu tố IX (Hemophilia B), số lượng tiểu cầu, PT, kháng nguyên yếu tố von
Willebrand và thời gian chảy máu đều bình thường.
Điều trị:
Hemophilia A: Truyền máu tươi, huyết thanh tươi, yếu tố VIII kết tủa hoặc
yếu tố VIII tái tổ hợp, ngoài ra có thể sử dụng desmopressin acetat (thuốc này làm
tăng sản sinh yếu tố von Willebrand và yếu tố VIII). Các thuốc ức chế ly giải cục
máu đông như acid aminocaproic và acid tranxenamic cũng có tác dụng tốt khi điều
trị các bệnh máu khó đông
Hemophilia B: Truyền máu, yếu tố IX tái tổ hợp hoặc yếu tố VIII kết tủa,
hoặc PCCs (phức hợp chứa yếu tố IX và các yếu tố phụ thuộc vit K khác như yếu tố

II, VII, X).
Việc sử dụng các yếu tố đã tinh chế khuyến khích được sử dụng hơn so với
việc truyền máu hay huyết thanh do hạn chế được việc lây nhiễm chéo các bệnh qua
đường máu như viêm gan B, HIV…[23].
1.1.3.2. Bệnh von Willebrand
Yếu tố von Willebrand là yếu tố quan trọng của quá trình cầm máu, nó cần
cho sự kết dính tiểu cầu và đồng thời là phân tử vận chuyển yếu tố VIII trong tuần
hoàn, giúp yếu tố này không bị phân hủy. Vì vậy von Willebrand trong quá trình
cầm máu ảnh hưởng đến cả chức năng tiểu cầu và đông máu.
Bệnh von Willebrand có tính chất gia đình, di truyền theo tính trội, gặp ở cả
2 giới, gồm có 3 loại: loại 1 và loại 3 liên quan tới các khuyết tật về số lượng yếu tố
von Willebrand; loại 1 phổ biến nhất, đặc trưng bởi sự giảm nhẹ đến trung bình yếu
tố von Willebrand và giảm tương tự yếu tố VIII; loại 3 rất hiếm gặp, yếu tố von
Willebrand và yếu tố VIII rất thấp, hầu như không thấy; loại 2 liên quan tới các đột
biến về chức năng của yếu tố von Willebrand.
Triệu chứng lâm sàng: rất thay đổi, một số bệnh nhân không có triệu chứng;
chảy máu cam, chảy máu chân răng, rong kinh, dễ bầm tím, chảy máu sau phẫu
thuật.
7


Điều trị: sử dụng desmopressin, hoặc yếu tố VIII tái tổ hợp; truyền máu,
truyền huyết tương hoặc tiểu cầu trong trường hợp chảy máu nhiều hoặc sử dụng
thuốc không hiệu quả[23],[27].
1.1.3.3. Chảy máu do bệnh gan
Gan là cơ quan tổng hợp các yếu tố đông máu và các chất ức chế đông máu
(antithrombin…). Tất cả các yếu tố đông máu (trừ yếu tố VIII) đều giảm ở người
suy gan (cấp tính hoặc mãn tính). Số lượng và chức năng tiểu cầu giảm ở người bị
bệnh gan. Do đó, ở những người mắc bệnh gan thường rất dễ chảy máu.
Điều trị (trong trường hợp có chảy máu hoặc trước thủ thuật xâm lấn):

vitamin K, truyền tiều cầu, truyền huyết trương tươi đông lạnh, có thể sử dụng
PCCs, desmopressin, yếu tố VIIa tái tổ hợp [23].
1.1.3.4. Chảy máu do thiếu các yếu tố phụ thuộc vitamin K.
Các tiền chất của các yếu tố đông máu II, VII, IX – gọi là PIVKA (Protein
induced by vitamin K absence) chỉ có hoạt tính khi gốc glutamat trong cấu trúc hóa
học của nó được carboxyl hóa bởi hệ enzym ở gan. Khi huyết tương đủ vitamin K,
vitamin K sẽ hoạt hóa hệ thống enzym ở gan nên PIVKA được carboxyl hóa,
chuyển thành các yếu tố đông máu II, VII, IX, X có hoạt tính và tham gia vào quá
trình đông máu [9].
Bệnh có biểu hiện đặc trưng bầm tím dưới da, chảy máu chân răng, chảy máu
nhẹ sau chấn thương. Xét nghiệm thấy thiếu hụt các yếu tố II, VII, X.
Điều trị: Vitamin K liều cao; chảy máu nặng có thể sử dụng PCCs hoặc
truyền máu tươi hoặc huyết tương [27].
1.1.3.5. Bệnh đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC)
Nguyên nhân của bệnh thường gặp nhất là nhiễm trùng huyết do vi khuẩn,
bệnh bạch cầu cấp, khối u rắn hoặc sản khoa gây ra. Bệnh làm tăng quá mức hoạt
tính của thrombin dẫn đến tăng quá trình tạo fibrin từ fibrinogen. Do đó, các yếu tố
đông máu bị lôi cuốn, sử dụng hết vào việc hình thành thrombin và fibrin, mặt khác
do fibrin tăng lên quá nhiều sẽ làm khởi động hệ thống tiêu fibrin. Như vậy ở bệnh
này xảy ra 2 hội chứng: hội chứng chảy máu và hội chứng đông máu.
8


Biểu hiện lâm sàng: bầm tím, các chấm xuất huyết, có thể nặng hơn như xuất
huyết tiêu hóa, phổi hay xuất huyết nội sọ, huyết khối, tím tái ngoại vi.
Điều trị: truyền huyết tương tươi đông lạnh, có thể kết hợp heparin[23],[27].
1.2. Một số mô hình nghiên cứu tác dụng của thuốc lên thành mạch
Có rất nhiều mô hình có thể sử dụng để nghiên cứu tác dụng cầm máu của
thuốc trên động vật thực nghiệm tùy theo mục đích sử dụng. Cụ thể, để sàng lọc tác
dụng của thuốc, ban đầu thường sử dụng mô hình cắt đuôi hoặc chi trên động vật

bình thường. Để đánh giá khả năng cầm máu của thuốc trong các mô hình gây chảy
máu các mức độ khác nhau thường sử dụng các mô hình gây chảy máu bằng tổn
thương: mô hình gây tổn thương tạng, tổn thương não, tổn thương mạch máu hoặc
tổn thương da và niêm mạc. Để định hướng cơ chế tác dụng của thuốc lên các yếu
tố của quá trình cầm máu có thể sử dụng các mô hình: mô hình nghiên cứu tác dụng
co mạch, mô hình gây tăng tính thấm thành mạch (để nghiên cứu tác dụng của thuốc
lên thành mạch); mô hình giảm số lượng tiểu cầu, mô hình giảm chất lượng tiểu cầu
(để nghiên cứu tác dụng của thuốc lên tiểu cầu); mô hình gây rối loạn đông máu
bằng heparin, mô hình gây thiếu vitamin K, mô hình gây bệnh gan, mô hình gây
Hemophilia (để nghiên cứu tác dụng của thuốc lên các yếu tố đông máu) [19].
Tuy nhiên trong phạm vi của khóa luận này, chúng tôi chỉ trình bày tổng
quan về các mô hình nghiên cứu tác dụng của thuốc lên thành mạch gồm có mô
hình nghiên cứu tác dụng co mạch và mô hình gây tăng tính thấm thành mạch.
1.2.1. Mô hình nghiên cứu tác dụng co mạch trên tai thỏ cô lập
Nguyên tắc: Cho dung dịch thuốc nghiên cứu (được đặt ở độ cao thích hợp
để tạo áp suất thủy tĩnh hằng định) chảy qua hệ mạch tai thỏ cô lập. Một thuốc có
tác dụng co mạch sẽ làm giảm lượng dịch chảy qua hệ mạch và ngược lại, một chất
giãn mạch sẽ làm tăng lượng dịch chảy qua hệ mạch. Thuốc có tác dụng co mạch sẽ
làm giảm lượng máu chảy, giảm thời gian chảy máu do đó có tác dụng cầm máu.
Tiến hành:
Thỏ cả 2 giống, trọng lượng 2 – 3 kg. Cô lập tai thỏ khỏi cơ thể.
9


Luồn kim vào động mạch tai thỏ, bơm dung dịch ringer cho sạch máu rồi cố
định tai thỏ vào bàn cố định
Nối kim vào bình chứa dung dịch ringer (dung dịch này được đặt ở độ cao
thích hợp để tạo áp suất, bình nối với kim bằng dây truyền có khóa để điều chỉnh
tốc độ chảy), để dung dịch ringer chảy qua hệ mạch tai thỏ. Đếm số giọt chảy qua
phễu hứng trong thời gian 1 phút. Khi lưu lượng chảy đã ổn định (số giọt chảy/ phút

không đổi), thêm thuốc nghiên cứu vào, chờ sau khoảng 1- 3 phút (để thuốc có tác
dụng) đếm lại số giọt chảy qua hệ mạch tai.
Đánh giá:
So sánh số giọt chảy ra trước và sau khi thêm thuốc, số giọt giảm chứng tỏ
thuốc có tác dụng co mạch và ngược lại. Thuốc có tác dụng co mạch sẽ có tác dụng
cầm máu [5], [33].
1.2.2. Mô hình gây tăng tính thấm thành mạch
Các mô hình này sử dụng tác nhân vật lý hoặc hóa học để kích thích cơ thể
giải phóng các chất trung gian hóa học như histamin, prostaglandin,
leucotrien…gây giãn các tiểu động mạch và tiểu tĩnh mạch, làm tăng tính thấm
thành mạch dẫn đến máu di chuyển từ thành mạch ra các mô xung quanh gây xuất
huyết. Thuốc có tác dụng giảm tính thấm thành mạch sẽ là chất gây co mạch và có
tác dụng cầm máu.
1.2.2.1. Mô hình gây phù bàn chân chuột bằng carrageenan [5], [33]
Nguyên tắc: Mô hình này sử dụng chất gây phù là carrageenan. Khi tiêm chất
này vào bàn chân chuột sẽ kích thích giải phóng các chất trung gian hóa học như
histamin, prostaglandin,…gây tăng tính thấm thành mạch với các biểu hiện sưng,
phù. Các thuốc có tác dụng co mạch sẽ làm giảm tính thấm thành mạch, giảm mức
độ phù chân chuột do đó sẽ giảm bớt khả năng chảy máu.
Tiến hành:
Sử dụng chuột cống cả 2 giống, trọng lượng khoảng 100 – 150g, chia ngẫu
nhiên thành các lô:
Lô chứng: dùng dung môi pha thuốc
10


Lô đối chiếu: dùng thuốc đã biết rõ tác dụng (có thể sử dụng các thuốc:
indomethacin, diclofenac…)
Lô thử: dùng thuốc đang nghiên cứu
Cho chuột uống thuốc hoặc dung môi. Sau 30 phút, tiêm 0,05mL dung dịch

carrageenan 1% vào gan bàn chân trái sau của chuột. Đo thể tích chân chuột tại các
thời điểm: trước khi tiêm và sau khi tiêm carrageenan 1giờ, 3 giờ, 5 giờ, 7 giờ và 24
giờ.
Đánh giá:
- Tính độ phù chân chuột (tỷ lệ % tăng thể tích bàn chân của chuột so với
thời điểm trước khi tiêm carrageenan)
- Tỷ lệ % ức chế phù của lô thử so với lô chứng
1.2.2.2. Mô hình gây tăng tính thấm thành mạch bằng phenethylamin [33]
Nguyên tắc: Mô hình này gây tăng tính thấm thành mạch bằng cách tiêm
phenethylamin, sự tăng tính thấm thành mạch sẽ thể hiện qua sự thoát mạch của
dung dịch xanh Evan ra mô xung quanh. Thuốc có tác dụng giảm tính thấm thành
mạch sẽ làm giảm mức độ thoát mạch của dung dịch xanh Evan và có tác dụng cầm
máu.
Tiến hành:
Sử dụng chuột cống trắng, trọng lượng 160 –200g, chuột được chia ngẫu
nhiên thành các lô.
Cạo lông vùng bụng chuột, tiêm tĩnh mạch dung dịch xanh Evan 1% với liều
5mg/kg. Sau đó 1 giờ, cho chuột uống thuốc hoặc dung môi. Sau 30 phút, gây mê
chuột bằng ether rồi tiêm trong da 0,05mL dung dịch phenethylamin 0,01% ở cả 3
vị trí phải, trái và trên bụng. Sau 90 phút, giết chuột bằng ether rồi tiến hành đo
đường kính vùng da bị nhuộm xanh hoặc cắt vùng da bị nhuộm xanh đem ngâm vào
dung dịch natri clorid 0,09%, sau khoảng 24 giờ lọc lấy dịch rồi đem đo quang.
Đánh giá:
Đo đường kính để tính diện tích vùng da bị nhuộm màu xanh hoặc tính nồng
dung dịch xanh Evan đã thoát mạch (tính dựa vào đường chuẩn nồng độ dung dịch
11


xanh Evan – mật độ quang). Tính giá trị trung bình cho từng lô. Tính tỷ lệ % ức chế
sự thoát mạch xanh Evan của lô thử so với lô chứng theo công thức:

I%=


× 100
Trong đó:
I%: % ức chế tăng tính thấm thành mạch
D
0:
trung bìnhđường kính vùng da xanh Evans thoát mạch hoặc nồng độ dung
dịch xanh Evans thoát mạch ở lô chứng
D
1:
trung bìnhđường kính vùng da xanh Evans thoát mạch hoặc nồng độ dung
dịch xanh Evans thoát mạch ở lô thử
Để gây tăng tính thấm thành mạch, ngoài tác nhân phenethylamin có thể sử
dụng một số tác nhân khác như hợp chất 48/80, acid acetic…
1.2.2.3. Mô hình gây ban đỏ
Nguyên tắc: Mô hình sử dụng tác nhân gây tăng tính thấm thành mạch là tia
UV. Tia này khi chiếu vào vùng da sẽ gây tổn thương thành mạch, gây tăng tính
thấm thành mạch khiến máu thoát ra khỏi thành mạch gây hiện tượng ban đỏ. Thuốc
có tác dụng làm giảm mức độ xuất hiện ban đỏ là thuốc có tác dụng co mạch và có
tác dụng cầm máu.
Tiến hành[33]
Sử dụng chuột lang, cả 2 giống, trọng lượng khoảng 350g, chuột được chia
ngẫu nhiên thành các lô.
Trước khi tiến hành thí nghiệm 18 giờ, chuột được cạo lông hai bên sườn và
trên lưng. Cho chuột uống 1/2 lượng thuốc nghiên cứu hoặc dung môi. Sau đó chuột
được đặt vào trong 1 túi da đã được đục lỗ (kích thước 1,5 × 2,5cm) cho phép tia
UV chỉ chiếu vào vùng này. Sử dụng đèn tử ngoại nguyên bản Hanau 600W, làm
nóng đèn trong 30 phút trước khi dùng và đặt đèn cố định, cách các con vật 20cm.

Chiếu tia UV trong 2 phút rồi cho chuột uống nốt 1/2 lượng thuốc hoặc dung môi
còn lại. Ban đỏ được ghi lại tại thời điểm 2 giờ và 4 giờ sau khi chiếu tia UV.
Đánh giá
Dựa vào phương pháp tính điểm để đánh giá mức độ ban đỏ trên mỗi chuột
12


0 = không ban đỏ 2 = ban đỏ mạnh
1 = ban đỏ yếu 4 = ban đỏ rất mạnh
Tính điểm trung bình mỗi lô, sau đó tính tỷ lệ % ức chế ban đỏ của lô thử so
với lô chứng.
Những chuột với kết quả là 0 và 1 được xem là đã được bảo vệ. Các kết quả
thu được sau 2 và 4 giờ có thể sơ bộ cho biết khoảng thời gian tác dụng.
1.3. Cây Móc và các nghiên cứu về tác dụng dược lý của cây Móc
1.3.1. Một số đặc điểm của cây Móc
1.3.1.1. Đặc điểm thực vật
Cây Móc có tên khoa học là Caryota mitis Lour., thuộc họ Cau – Arecaceae.
Ngoài ra, cây móc còn có tên khác: đùng đình, đủng đỉnh, mạy khuông [11], [20].
Cây phân bố chủ yếu ở các nước Đông Nam Á. Tại Việt Nam, cây tập trung
ở nhiều ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Thường sử dụng bẹ, rễ, ngoài ra còn
dùng quả [11], [12], [20].
1.3.1.2. Thành phần hóa học
Dịch của bông mo thu hái vào lúc còn non chứa sucrose 13,6%, vết của
đường khử. Dịch đã lên men chứa đường khử 1%, alcol 3-4,5%, acid acetic 0,3%
[20].
Bông mo có chứa các nhóm chất: anthranoid, coumarin, flavonoid, tanin,
saponin, chất béo, đường khử, acid amin (acid aspartic và acid glutamic là 2 thành
phần có hàm lượng cao nhất) [10].
Quả chín có chứa tinh thể calci oxalate hình kim. Vì vậy cần tránh tiếp xúc
với vỏ quả này vì đây là thành phần gây ngứa khi tiếp xúc với quả chín [11],[31].

Phấn hoa của cây Caryota mitis có chứa một protein với cấu trúc 131 – 134
acid amin (gọi là profilin) được coi là tác nhân chính khiến phấn hoa của cây này
gây ra các phản ứng dị ứng[26].
1.3.1.3. Công dụng
13


Bẹ móc phơi khô được sử dụng trong y học cổ truyền với tên Tông lư. Dược
liệu vị đắng, sít, tính bình, có tác dụng thu liễm, chỉ huyết, làm sít ruột, tan hòn cục.
Quả móc vị cay, tính mát, có tác dụng giải khát, chống mệt mỏi [20].
Bẹ móc được dùng làm thuốc chữa đái ra máu, đái rắt, tiểu tiện không thông,
lỵ ra máu, bạch đới, rong kinh, rong huyết, ho ra máu. Ngày 20g đốt tồn tính tán bột
uống hoặc sắc uống. Nhân quả giã nát đắp chữa đau nửa đầu. Nõn thân sắc với nước
có tác dụng nhuận tràng [20].
Khối sợi mềm ở nách các bẹ được sử dụng để làm lành vết thương bằng cách
đắp bên ngoài [11].
Tua Móc có tác dụng làm tăng lực trên mô hình chuột bơi [10].
Theo nghiên cứu trên mô hình chuột gây hen suyễn dị ứng, sản phẩm tạo
thành từ sự tái tổ hợp Caryota mitis profilin với các tiểu phân nano PLGA – poly
acid lactic-co-glycolic (rCmP - PLGA) có tác dụng làm giảm các triệu chứng hen
mở ra hướng mới trong việc sản xuất vacxin để phòng ngừa và điều trị các bệnh hen
suyễn [35].
1.3.2. Các nghiên cứu về tác dụng dược lý của cây Móc
1.3.2.1. Nghiên cứu trên động vật bình thường[13]
Nghiên cứu tác dụng theo hướng cầm máu trên động vật bình thường cho
thấy:
Về tác dụng cầm máu đường uống:
Liều dùng: Nghiên cứu khảo sát liều dùng của bẹ móc ở 3 mức liều 1,5g;
3g; 6g/kg chuột nhắt trắng tính theo dược liệu khô. Kết quả cho thấy bẹ móc ở mức
liều 3g và 6g/ kg chuột đều có tác dụng làm giảm thời gian chảy máu lần lượt là

37,67%; 56,09% so với lô chứng (p<0,05). Trong đó liều 6g/kg chuột nhắt có làm
giảm thời gian chảy máu nhiều nhất (56,09%) trong các mức liều nghiên cứu.
So sánh tác dụng của bẹ móc và rễ móc: Bẹ móc và rễ móc mức liều 6g/kg
chuột đều làm giảm thời gian chảy máu lần lượt là 56,09% và 40,12% so với lô
chứng (p<0,05). Bẹ móc và rễ móc có tác dụng giảm thời gian chảy máu tương
14


đương nhau (p>0,05). Vì vậy, các nghiên cứu về sau chọn bẹ móc làm nguyên liệu
nghiên cứu để vừa dễ thu hái vừa bảo tồn được nguồn dược liệu.
Số lượng tiểu cầu và một số chỉ số đông máu: Nghiên cứu cho thấy bẹ móc
liều 6g/kg chuột nhắt không làm thay đổi số lượng tiểu cầu, PT, aPTT, fibirinogen,
thời gian đông máu so với lô chứng (p > 0,05).
Về tác dụng cầm máu tại chỗ:
Cao nước bẹ móc với các nồng độ 2%;4%;8% đều làm giảm thời chảy máu
lần lượt 26,02%; 30,54% và 29,33% so với lô chứng (p < 0,01).
Về tác dụng chống viêm tại chỗ:
Cao nước bẹ móc (cao lỏng 4:1) làm giảm phù so với chứng (p < 0,05) tại
các thời điểm 3 giờ, 5 giờ, 7 giờ sau khi gây viêm bằng carrageenan.
Về tác dụng chống viêm đường uống:
Bẹ móc liều 3g/kg chuột cống trắng làm giảm 23,53% phù so với chứng
(p < 0,05) tại thời điểm 5 giờ sau khi gây viêm bằng carrageenan.
Về độc tính cấp:
Liều LD
50
của bẹ móc là 120g/kg chuột nhắt trắng.
Như vậy, đây là nghiên cứu đầu tiên về tác dụng theo hướng cầm máu của
cây móc trên thực nghiệm. Nghiên cứu đã xác định được liều dùng đường uống của
bẹ móc (6g/kg chuột nhắt), sự tương đương giữa tác dụng cầm máu của bẹ móc và
rễ móc. Bẹ móc có tác dụng cầm máu nhưng không ảnh hưởng đến số lượng tiểu

cầu và quá trình đông máu của chuột bình thường. Bên cạnh tác dụng cầm máu, bẹ
móc có tác dụng giảm mức độ phù chân chuột cả đường uống và đường dùng tại
chỗ.
1.3.2.2. Nghiên cứu trên động vật gây rối loạn đông máu [14]
Trên chuột gây rối loạn đông máu bằng aspirin:
Aspirin là thuốc gây giảm chức năng tiểu cầu thông qua làm giảm khả năng
kết tập tiểu cầu do đó có tác dụng chống đông máu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: bẹ móc liều 6g/kg chuột nhắt làm giảm thời
gian chảy máu 37,36% so với lô chứng bệnh (lô được gây rối loạn đông máu bằng
15


aspirin đường uống liều 26mg/kg chuột nhắt nhưng không dùng cao bẹ móc),
p < 0,05. Bẹ móc liều 6g/kg chuột nhắt không làm thay đổi thời gian đông máu và
số lượng tiểu cầu so với lô chứng bệnh (p > 0,05).
Trên chuột gây rối loạn đông máu bằng acenocoumarol:
Acenocoumarol là dẫn xuất dicoumarol có tác dụng kháng vitamin K. Vì cấu
trúc gần giống vitamin K nên ức chế cạnh tranh enzym epoxid – reductase (enzym
khử vitamin K – epoxid thành vitamin K cần cho sự hoạt hóa các yếu tố đông máu
II, VII, IX, X) dẫn đến ức chế quá trình hoạt hóa các yếu tố đông máu vì vậy thuốc
có tác dụng chống đông.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: bẹ móc liều 6g/kg chuột nhắt làm giảm thời
gian chảy máu 38,77% so với chứng bệnh (lô dùng acenocoumarol liều 2mg/kg
chuột) có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trên thời gian đông máu, PT, aPTT, bẹ móc
liều 6g/kg chuột không làm thay đổi các chỉ số trên so với chứng bệnh (p > 0,05).
Trên chuột gây rối loạn đông máu bằng heparin
Heparin là thuốc gây chống đông máu do thuốc tạo phức với Antithrombin
III (có tác dụng chống đông do làm mất hiệu lực của thrombin và các yếu tố đông
máu IX, X, XI, XII), phức này làm tăng cường hiệu lực của Antithrombin III lên
nhiều lần do đó ức chế mạnh thrombin và các yếu tố đông máu.

Kết quả nghiên cứu: bẹ móc liều 6g/kg chuột nhắt làm giảm thời gian chảy
máu 30,16% so với lô chứng bệnh (dùng heparin tiêm dưới da liều 1200IU/kg x 2
lần/ ngày) có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trên thời gian đông máu, PT, aPTT, bẹ
móc liều 6g/kg chuột không làm thay đổi các chỉ số trên so với chứng bệnh
(p > 0,05).
Như vậy, bẹ móc liều 6g/kg chuột nhắt không chỉ có tác dụng cầm máu trên
chuột bình thường mà còn có tác dụng cầm máu trên chuột gây rối loạn đông máu
bằng aspirin, acenocoumarol và heparin. Điều này đem lại nhiều lợi ích trên lâm
sàng bởi các thuốc trên được sử dụng ngày càng nhiều để điều trị huyết khối, tuy
nhiên tác dụng phụ hay gặp nhất là chảy máu, vì vậy kết quả này gợi ý việc sử dụng
bẹ móc sẽ hạn chế được tình trạnh chảy máu trên các bệnh nhân đang sử dụng
16


những thuốc trên. Bên cạnh đó, bẹ móc liều 6g/kg chuột không làm ảnh hưởng đến
số lượng tiểu cầu, các chỉ số PT, aPTT, thời gian đông máu chứng tỏ tác dụng cầm
máu của bẹ móc có lẽ không liên quan đến tiểu cầu và quá trình đông máu.
1.3.2.3. Nghiên cứu tác dụng của bẹ móc trên thành mạch[14]
Với mô hình trên hệ mạch tai thỏ cô lập: sau khi truyền cao bẹ móc với dãy
nồng độ tăng dần từ 0,05% đến 1%, bắt đầu từ nồng độ 0,08% số giọt chảy ra từ
tĩnh mạch rìa tai thỏ giảm so với khi chưa truyền dịch có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05). Ở nồng độ cao nhất 1%, sự giảm số giọt chảy ra từ hệ mạch tai thỏ là
nhiều nhất (39,00%) so với ban đầu. Kết quả này cho thấy cao bẹ móc có tác dụng
làm co mạch.
Tóm lại: Các nghiên cứu đi trước đã cho thấy, bẹ cây móc có tác dụng cầm
máu, cơ chế của tác dụng này có lẽ không liên quan đến số lượng tiểu cầu và quá
trình đông máu mà có lẽ do ảnh hưởng lên giai đoạn thành mạch. Tuy nhiên các
nghiên cứu trên chưa xác định được thành phần hoạt chất có tác dụng cầm máu và
đều thực hiện với cao chiết nước của bẹ cây móc, đây là dung môi chiết ít tốn kém
và không độc hại nhưng dịch chiết nhiều tạp và khó bảo quản do vi khuẩn dễ phát

triển và đây chưa chắc là dung môi chiết tốt nhất cho dược liệu này. Vì vậy, xác
định thành phần hoạt chất và tìm ra dung môi chiết có tác dụng tốt nhất là định
hướng của chúng tôi trong khóa luận này.










17


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Nguyên liệu nghiên cứu
Bẹ cây móc được thu hái tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vào tháng
9/2014. Mẫu nghiên cứu được ThS.Nghiêm Đức Trọng, Bộ môn Thực vật, Trường
Đại học Dược Hà Nội thẩm định tên khoa học là Caryota mitis Lour., Arecaceae và
lưu tiêu bản tại phòng tiêu bản của Bộ môn. Nguyên liệu sau khi thu hái, rửa sạch,
thái nhỏ, sấy khô ở nhiệt độ 60-70
0
C, nghiền thành bột thô.
Chiết xuất dược liệu: Dược liệu được chiết với các dung môi: nước, cồn 30
0
,

cồn 60
0
, cồn 80
0
, cồn tuyệt đối và methanol theo phương pháp chiết nóng được ghi
trong phụ lục 1.1, Dược điển Việt Nam IV [8]. Cân dược liệu với khối lượng thích
hợp, cho vào bình cầu, cho dung môi lượng vừa phải, chiết nóng bằng cách sử dụng
thiết bị chiết hồi lưu, với mỗi dung môi đều chiết 3 lần, đem lọc dịch chiết thu được
để loại tạp. Cô dịch chiết thành cao đặc để bảo quản. Hiệu suất chiết và hàm ẩm của
các cao được trình bày trong bảng 2.1
Bảng 2.1: Hiệu suất chiết và hàm ẩm của các cao chiết
Cao chiết Khối lượng dược
liệu khô (g)
Khối lượng
cao (g)
Hiệu suất
chiết (%)
Hàm ẩm
(%)
Cao nước 279,53 34,63 12,39 14,03
Cao cồn 30
0
277,69 52,37 18,86 15,89
Cao cồn 60
0
287,55 60,6 21,07 19,54
Cao cồn 80
0
293,74 61,61 20,97 19,93
Cao cồn tuyệt đối


279,89 43,79 15,64 13,76
Cao methanol 303,16 55,93 18,45 12,43

Phân đoạn cao chiết có tác dụng tốt nhất: cao chiết có tác dụng tốt nhất được
chiết phân đoạn bằng các dung môi n- hexan, chloroform, ethyl acetat, nước. Ở mỗi

×