Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.98 KB, 71 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, sản xuất nông
nghiệp ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,6%/năm. Từ
một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành nước thứ 2 Thế giới về xuất
khẩu lương thực, các sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm tỷ trọng cao
trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Có nhiều yếu tố góp vào thành công đó,
trong đó tín dụng Ngân hàng có một đóng góp hết sức to . Đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn qua kênh tín dụng Ngân hàng tăng 30 - 40% / năm. Một
trong những thay đổi cơ bản trong tín dụng Ngân hàng đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn là chuyển hướng cho vay hộ nông dân. Vốn tín dụng Ngân
hàng đầu tư cho kinh tế hộ chiếm 60 - 70 % tổng dư nợ cho vay nông nghiệp,
nông thôn. Cơ chế cho vay đối tượng này ngày càng được hoàn thiện. Chính
sách của Đảng, Chính Phủ ngày càng cởi mở và sát với thực tiễn, được
NHNN cụ thể bằng các cơ chế và NHNo & PTNT hướng dẫn trong các quy
định cho vay. Có thể nói, việc mở rộng cho vay kinh tế hộ đã giúp cho hàng
triệu hộ nông dân được tiếp cận với tín dụng Ngân hàng, có nhiều cơ hội để
xoá đói, giảm nghèo và làm giầu, làm thay đổi cuộc sống người dân và bộ mặt
nông thôn ngày càng đổi mới.
Thanh Trì là một huyện phía nam của Hà Nội, sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, Công nghiệp, thương mại dịch vụ ….chậm phát triển, do đó việc đầu
tư vốn Ngân hàng cho hộ nông dân có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
Kinh tế - Xã hội của huyện.
Tuy nhiên, trong quá trình Ngân hàng vận động, phát triển của kinh tế
thị trường, quan hệ tín dụng nông dân ngày càng bộc lộ nhiều vướng mắc.
Việc nâng cao chất lượng cho vay không phải lúc nào cũng thuận lợi, dễ
dàng. Các thủ tục, quy trình cho vay luôn đòi hỏi phải cải tiến, vừa đảm bảo
tiện ích cho dân nhưng cũng phải đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính


Với đề tài " Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo &
PTNT Thanh Trì - Hà Nội " nhằm góp phần giải đáp câu hỏi đó - câu hỏi
mà các cấp, các ngành, nhiều hộ gia đình và cán bộ Ngân hàng quan tâm.
2. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề thực tập.
Phân tích những vấn đề có tính lý luận cơ bản về kinh tế hộ đối với
nông nghiệp, nông thôn
Làm rõ vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ.
Phân tích thực trạng cho vay hộ sản xuất của NHNo Thanh Trì trên địa
bàn huyện.Trên cơ sở thực tiễn và lý luận, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng cho vay hộ sản xuất của NHNo Thanh Trì cũng như NHNo &
PTNT Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề tập trung nghiên cứu các khoản
cho vay của NHNo & PTNT Thanh Trì.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: tập trung nghiên cứu một số vấn đề
lý luận liên quan đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay hộ
sản xuất ở huyện Thanh Trì trong thời gian 2003-2004 từ đó đề xuất một số
định hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng cho vay hộ sản
xuất của NHNo Thanh Trì.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đi từ nhận thức từ các quan điểm, lý luận, đặc điểm chính của hộ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường, để phân tích đánh giá, tìm các biện pháp
nâng cao chất lượng trong cho vay hộ sản xuất ở NHNo Thanh Trì.Chuyên đề
sử dụng kết hợp một số phương pháp: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư
duy đổi mới, phân tích diễn giải, kết hợp với phương pháp tổng hợp thống kê.
Ngoài ra, chuyên đề còn sử dụng các bảng biểu, sơ đồ để minh hoạ và lựa
chọn phương án tối ưu.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
5. Những đóng góp của chuyên đề.

Thứ nhất: Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng cho
vay hộ sản xuất và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay hộ sản xuất
trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai: Phân tích thực trạng chất lượng cho vay hộ sản xuất và tình
hình quản lý chất lượng cho vay hộ sản xuất trong thời gian qua, xác định
những tồn tại và phát hiện những vấn đề cần bổ sung về chất lượng cho vay
hộ sản xuất ở NHNo Thanh Trì. Từ đó tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến
chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo Thanh Trì.
Thứ ba: Đưa ra một số kiến nghị đối với các cấp, các ngành có liên
quan nhằm đổi mới cơ chế quản lý tín dụng để nâng cao chất lượng cho vay
hộ sản xuất.
6. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương.
Chương 1: Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất trong nền kinh tế
thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo &
PTNT Thanh Trì - Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở
NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
CHƯƠNG 1
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1. Tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm chung về hộ sản xuất.
Thời kỳ trước năm 1988, các hệ thống Ngân hàng Việt Nam chỉ tập
trung cho vay thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, tỷ trọng cho
vay hai thành phần kinh tế này của NHNo Việt Nam chiếm từ 91,55% -
96,6% tổng dư nợ. Chỉ từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, việc

ban hành bộ luật đất đai năm 1993, cùng với sự đổi mới về cơ cấu tổ chức,
thay đổi đối tượng khách hàng của hệ thống Ngân hàng, tỷ trọng cho vay hộ
sản xuất trong tổng dư nợ tăng dần lên. Đặc biệt với NHNo & PTNT Việt
Nam tỷ trọng cho vay hộ sản xuất đã ngày càng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng dư nợ: từ 41% năm 1990 tăng lên 69,6% năm 1996 và 69,7% năm 2000.
Tuy nhiên khái niệm về hộ sản xuất vẫn chưa cụ thể, hầu hết đều mặc nhiên
thừa nhận "hộ sản xuất" là "hộ gia đình" là "kinh tế hộ". Ta có thể hiểu khái
niệm hộ sản xuất theo nghĩa như sau:
Hộ sản xuất ở Việt Nam hiện nay thường là những hộ gia đình, mà các
thành viên có tài sản chung, đồng sở hữu tài sản, cùng chịu trách nhiệm, cùng
sản xuất kinh doanh trên cơ sở tự nguyện, tự giác và chủ yếu sử dụng chính
sức lao động của gia đình mình.
1.1.2. Đặc điểm chính của hộ sản xuất.
Thứ nhất: Trình độ sản xuất còn thấp trên nhiều mặt: Trình độ hiểu
biết, kỹ năng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý kinh doanh, hoạch toán….
Việc phân công lao động dựa trên cơ sở tình cảm, bổn phận, phong tục tập
quán địa phương, dân tộc, dòng họ và thường gắn liền với ngành nghề truyền
thống của quê hương.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Thứ hai: Địa điểm sản xuất - kinh doanh thường phân tán trên địa bàn
rộng, quy mô sản xuất thường nhỏ cho nên không có được sự gắn kết. Đó có
thể là mặt trái của chính sách khoán trong nông nghiệp dẫn đến hiện tượng
ruộng đất bị phân chia xé lẻ, mỗi hộ có vài mảnh ở cách xa nhau. Điều đó rất
khó khăn cho việc hình thành các khu vực chuyên canh sản xuất các nông sản
thực phẩm có tính hàng hoá cao, cũng như nó cản trở việc áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật mới….
Thứ ba: Hộ sản xuất Việt Nam hiện nay chủ yếu là hộ thuần nông. Vì
vậy, nó có những mặt khó khăn, hạn chế của kinh tế nông nghiệp: Sản xuất
không ổn định, vốn luân chuyển chậm, khả năng xẩy ra rủi ro cao, hiệu quả

thấp, hoạt động mang nặng tính thời vụ, phụ thuộc vào chu kỳ sinh trưởng của
từng loại cây, con theo từng điều kiện tự nhiên của từng vùng lãnh thổ.
Thứ tư: Hoạt động sản xuất - kinh doanh của hộ sản xuất chủ yếu là
kinh doanh đa dạng, vừa trồng trọt, vừa chăn nuôi, chế biến và làm các dịch
vụ khác. Đây vừa là ưu điểm lại vừa là nhược điểm của kinh tế hộ sản xuất.
Nhược điểm là khó khăn trong việc sản xuất chuyên canh, tăng quy mô sản
xuất….Ưu điểm là linh hoạt, dễ thích ứng với yêu cầu của thị trường, khai
thác tiềm năng tài nguyên, sức lao động ở nông thôn , đa dạng hoá các nguồn
trả nợ, phân tán bớt rủi ro, giảm bớt tính thời vụ của các khoản vay.
Thứ năm: Hộ sản xuất thường nghèo, khả năng tài chính yếu, tài sản thế
chấp không có giá trị hoặc thiếu giấy tờ pháp lý, tính thanh khoản lại không
cao, tài sản thường không làm giấy tờ sở hữu mà chuyển dịch theo phong tục,
tập quán tại địa phương, có rất ít ngành nghề có đăng ký kinh doanh….Việc
đáp ứng các điều kiện vay vốn như thông lệ trong tín dụng hộ sản xuất là rất
khó.
Thứ sáu: Hộ sản xuất thường là một hộ gia đình - một thành viên của
xã hội, chỗ ở thường ít thay đổi, vì vậy hộ sản xuất mang trên mình nhiều
chức năng, vai trò mà các thành phần khác không có.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
1.1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Từ những đặc điểm của hộ sản xuất đã nêu trên, chúng ta nhận thấy: hộ
sản xuất thường là các hộ gia đình ở nông thôn. ở Việt Nam hiện nay, dân số
trong nông nghiệp , nông thôn chiếm gần 80% dân số toàn quốc, vì vậy kinh
tế hộ sản xuất phản ánh bộ mặt của nông nghiệp, nông thôn, thành phần kinh
tế đông đảo nhất của nền kinh tế nước nhà. Hộ sản xuất có khả năng khai thác
sử dụng mọi tiềm năng về đất đai, lao động để phục vụ sự nghiệp xây dựng
đất nước. Phát triển tốt kinh tế hộ sản xuất còn là điều kiện cơ bản để đảm bảo
an toàn lương thực, thực phẩm, tạo thêm công ăn việc làm, góp phần giữ gìn
trật tự xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia.

Thị trường nông nghiệp, nông thôn là thị trường chiến lược quan trọng
của NHNo & PTNT Việt Nam kể từ ngày thành lập đến nay. Thị trường nông
thôn là thị trường chủ yếu và truyền thống, địa bàn này ít bị ảnh hưởng của
cạnh tranh, là thị trường mà NHNo & PTNT Việt Nam đã giữ vũng, ổn định
và ngày càng cố gắng nâng cao chất lượng. Như vậy, đây là một thị trường
chủ yếu hiện nay và đầy tiềm năng trong tương lai của NHNo & PTNT Việt
Nam.
1.1.4. Phân loại hộ sản xuất.
Xuất phát từ các đặc điểm riêng của hộ sản xuất ở Việt Nam thường là
hộ gia đình, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đa phần là kinh doanh đa dạng
với nhiều nguồn thu nhỏ lẻ khác nhau….Đó là khó khăn cho việc phân loại hộ
sản xuất, bên cạnh đó do thiếu các điều kiện vay vốn nên các hộ thường chỉ
vay được một loại vay nào đó, vì vậy có thể phân loại hộ sản xuất thành các
loại sau:
- Hộ sản xuất nông, lâm, thuỷ sản:
+ Hộ trồng trọt.
+ Hộ chăn nuôi.
+ Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ, nước mặn.
+ Đánh bắt thuỷ hải sản.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
- Hộ sản xuất diêm nghiệp: Ngoài các tổ chức quốc doanh còn tồn tại,
thì có các hộ gia đình ở vùng ven biển cũng được giao diện tích đất để làm
muối.
- Hộ lâm nghiệp: Các hộ gia đình được giao đất trồng rừng, khai thác,
chế biến sản phẩm từ rừng.
- Hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Hộ làm dịch vụ và thương mại dịch vụ.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất.
1.2.1. Khái niệm về chất lượng cho vay hộ sản xuất.

Tín dụng hộ sản xuất của NHTM là quan hệ tín dụng giữa các NHTM
đối với hộ sản xuất.
Như vậy, khái niệm về tín dụng hộ sản xuất của NHTM cũng hoàn toàn
nhất quán với khái niệm của tín dụng NHTM, chỉ khác ở đối tượng quan hệ
được giới hạn chỉ có thành phần hộ sản xuất. Các nguyên tắc cơ bản của tín
dụng NHTM vẫn được thực hiện; Đó là quan hệ vay trả có mục đích, có lãi
suất, có thời hạn hoàn trả theo sự tự nguyện thoả thuận của các bên. Quan hệ
tín dụng của NHTM với hộ sản xuất không phải là quan hệ xin cho, quan hệ
trợ cấp, mà nó phải đáp ứng lợi ích kinh tế của cả hai bên. Tuy nhiên, trong
thời gian qua việc hiểu đúng và thực hiện đúng khái niệm về tín dụng hộ sản
xuất của các hộ vay vốn và ngay cả NHTM cũng còn có chỗ chưa chuẩn.
Điều đó đưa lại không ít khó khăn cho mở rộng quan hệ tín dụng hộ sản xuất
và là một nhân tố làm nợ quá hạn hộ sản xuất tăng lên. Do vậy, ở đây ta có
thể hiểu: Chất lượng tín dụng hộ sản xuất thể hiện việc cho vay được thu hồi
cả gốc và lãi đúng thời hạn.
1.2.2 Hiệu quả hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất.
Khái niệm: hiệu quả hoạt động tín dụng là một thuật ngữ phản ánh mức
độ an toàn và khả năng khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín
dụng mang lại. Vì trên thực tế khi tiến hành cấp một khoản tín dụng cho
khách hàng vấn đề ngân hàng quan tâm hàng đầu là khả năng hoàn trả của
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
khách hàng và đảm bảo kinh doanh có lãi. Hoạt động tín dụng theo quan điểm
của ngân hàng được xem xét dưới góc độ là mức độ an toàn và khả năng sinh
lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng của ngân hàng mang lại.
Hoạt động tín dụng có hiệu quả có nghĩa là việc sản xuất kinh doanh có hiệu
quả sản phẩm cung ứng cho an toàn xã hội có chất lượng cao giá thành hạ đáp
ứng nhu cầu trong nước và có sức cành cao trên thị trường quốc tế.
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay hộ sản xuất.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn.

+ Nợ quá hạn: là khoản nợ, lãi vay đã quá hạn trả theo thoả thuận mà
khách hàng không trả được.
Khái niệm nợ quá hạn được chấp nhận rộng rãi trên thế giới là: "Một
khoản nợ có gốc hoặc lãi chậm thanh toán vượt quá số ngày tối thiểu được
xác định theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng và phản ánh các thông lệ
trong nước về thanh toán đối với loại hình nợ đó".
Theo quy định mới nhất hiện nay của Thống đốc NHNN, khi có phát
sinh nợ quá hạn ở một kỳ hạn nợ thì toàn bộ số nợ còn lại của khoản vay đó
đều phải chuyển thành nợ quá hạn.
Phần lớn các khoản vay bị chuyển nợ quá hạn là những khoản nợ có
vấn đề, phản ánh chất lượng của công tác tín dụng bị giảm sút, phản ánh khả
năng không thu hồi được đầy đủ đúng hạn vốn, lãi vốn đã cho vay ra, vì vậy,
đây là chỉ tiêu quan trọng nhất, rõ thấy nhất để đánh giá khả năng rủi ro trong
tín dụng nói chung cũng như trong tín dụng hộ sản xuất nói riêng.
Trong phân tích đánh giá người ta thường sử dụng chỉ tiêu tương đối là
tỉ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ:
Số dư nợ quá hạn hộ sản xuất
Tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất = x 100%
Tổng số dư nợ hộ sản xuất
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
+ Nợ khó đòi: Đây là một bộ phần của nợ quá hạn, là những khoản nợ
quá hạn không còn khả năng đòi được mà chưa xử lý được…. Ví dụ: Như khi
khách hàng vay vốn không còn khả năng phục hồi sản xuất, không còn tài
sản, khách hàng vay vốn mất tích hay bỏ trốn đi nơi khác mà không tìm
được…
+ Nợ khoanh: Là những khoản nợ của khách hàng không trả được do
nguyên nhân bất khả kháng, được Chính Phủ cho phép khoanh lại…để hỗ trợ
cho các hộ sản xuất được phép vay thêm vốn của NHTM để phục hồi sản xuất
- kinh doanh, để giúp cải thiện một phần tình hình tài chính của các NHTM

do những khó khăn khách quan, đây là ưu việt của nhà nước XHCN, là chính
sách kinh tế - xã hội của Chính Phủ. Đó cũng là những khoản nợ quá hạn có
khả năng thu hồi của NHTM nhưng phải bỏ thêm phần chi phí hoàn chỉnh thủ
tục và một khoảng thời gian thường khá dài không được tính lãi kể từ khi nợ
được khoanh đến khi vốn được cấp bù.
Nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc đánh giá khả năng
mất vốn, trong việc đề ra biện pháp đúng để thu được nợ vay, đề ra biện pháp
phòng ngừa, trong xây dựng chiến lược kinh doanh….Vì vậy, khi phân tích
nợ quá hạn người ta dùng rất nhiều chỉ tiêu để phân loại nợ quá hạn:
+ Phân loại theo thời hạn vay: Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn…
+ Phân loại theo nguyên nhân khách quan, chủ quan, do Ngân hàng hay
do khách hàng, do môi trường kinh doanh. Từ đó có biện pháp xử lý nợ quá
hạn hợp lý, cũng như các biện pháp ngăn chặn , giảm bớt, xây dựng định
hướng đầu tư.
+ Phân loại theo nợ có tài sản đảm bảo hay không có tài sản đảm bảo;
Tài sản đảm bảo tiền vay là cơ sở thu hồi vốn vay khi xử lý nợ quá hạn. Như
vậy, rõ ràng tài sản đảm bảo là biện pháp quan trọng làm giảm rủi ro và tăng
chất lượng tín dụng.
+ Phân loại nợ quá hạn theo thành phần kinh tế, theo từng loại hộ sản
xuất. Từ sự so sánh đánh giá để rút ra khả năng xẩy ra rủi ro loại hộ nào là cao
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
nhất, nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa, nâng cao chất lượng cho vay
trong tương lai.
+ Phân loại nợ quá hạn hộ sản xuất theo tiêu thức thời gian tính từ thời
điểm chuyển nợ quá hạn: Nợ quá hạn đến 180 ngày, nợ quá hạn từ 180 đến
360 ngày, nợ quá hạn trên 360 ngày. Nói chung thời gian nợ quá hạn càng dài
thì khả năng rủi ro càng cao, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín
dụng.
+ Để đánh giá mức độ tổn thất của tín dụng được chính xác và có biên

pháp xử lý hợp lý, người ta còn phân chia các khoản nợ tồn đọng thành từng
nhóm:
Nợ nhóm 1: Nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo.
Nợ nhóm 2: Nợ không có tài sản đảm bảo, không còn đối tượng thu.
Nợ nhóm 3: Nợ không có tài sản đảm bảo, người vay còn tồn tại, đang
hoạt động.
- Những chỉ tiêu khác:
Khả năng mất mát trong hoạt động của Ngân hàng cũng có thể đo bằng
các phương pháp khác như: Phương pháp xác xuất, phương pháp đo lường…
bằng nhiều cách khác nhau như kiểm tra hồ sơ vay vốn, điều tra xác xuất,
điều tra các trọng điểm… qua đó múc độ vi phạm quy trình vay vốn, những
hồ sơ không đảm bảo tính an toàn, mức độ sử dụng sai mục đích vốn vay, sự
sai lệch hồ sơ với thực tế, giá trị thực tế tài sản đảm bảo, tình hình biến động
giá cả tài sản đảm bảo, tình hình trích quỹ dự phòng rủi ro, xử lý rủi ro…
Chỉ tiêu nợ quá hạn, giá trị tài sản đảm bảo là hai yếu tố cơ bản để đánh
giá chính xác chất lượng tín dụng của các NHTM. Tuy nhiên, để đánh giá
chính xác chất lượng cần bổ sung các phương pháp khác như: cách phân loại
nợ theo xếp loại khách hàng có khả năng trả nợ quá hạn hay không?. Theo
tình hình xử lý tài sản đảm bảo ở từng thời kỳ, từng địa bàn vì "tài sản đảm
bảo không phải lúc nào cũng hiệu quả trong việc giảm nhẹ rủi ro, làm tăng
chất lượng tín dụng",
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
do yếu kém của hệ thống pháp luật và do những trở ngại khác mà không phải
lúc nào cũng xiết nợ và bán được tài sản thế chấp; việc chuyển nợ quá hạn đã
chính xác hay chưa cũng là vấn đề cần quan tâm một khi các Ngân hàng vì lợi
ích trước mắt tìm cách không chuyển nợ quá hạn, đảo nợ, gia hạn nợ….Và
còn phải xem xét cả khả năng rủi ro của các công cụ ngoài bảng cân đối kế
toán.
1.2.4. Vai trò của tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.

1.2.4.1. Vai trò của tín dụng hộ sản xuất đối với bản thân khu vực kinh tế hộ.
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần hình thành thị trường tài chính tín
dụng, đáp ứng nhu cầu vốn cơ bản cho sản xuất, chế biến, lưu thông hàng hoá
của hộ sản xuất:
+ Thúc đẩy việc tích tụ tập trung các điều kiện sản xuất, trước hết là
khuyến khích chuyển đổi lô, thửa giữa các hộ sản xuất, tạo điều kiện sản xuất
tập trung, chuyên môn hoá và áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên
tiến.
+ Là cầu nối giữa hộ thừa và thiếu vốn, thúc đẩy hạch toán, tiết kiệm
chi phí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Hỗ trợ kịp thời vốn cho các hộ sản xuất, lưu thông hàng hoá trên địa
bàn nông thôn.
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Chỉ có cơ cấu kinh tế phù hợp mới có
khả năng nâng cao hiệu quả kinh tế một cách bền vững của các đơn vị kinh tế
nói chung và các hộ sản xuất nói riêng.
+ Tín dụng hộ sản xuất có thể tham gia vào tất cả các khâu của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. NHTM cho các hộ sản xuất vay vốn trang bị
máy móc công cụ, đổi mới giống cây trồng vật nuôi để mở rộng sản xuất,
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, cho vay để luân chuyển
vật tư, tiêu thụ sản phẩm, từ đó tạo sự cân đối hợp lý trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
+ Tín dụng hộ sản xuất góp phần cải tạo cơ sở hạ tầng nông thôn, các
cơ sơ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, tạo tiền đề cho kinh tế hộ phát triển.
+ Tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, chuyển giao công nghệ kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông
nghiệp.
- Tín dụng hộ sản xuất giúp các hộ sản xuất nâng cao trình độ sản xuất,

tăng cường hạch toán kinh tế.
Các hộ sản xuất khi vay tiền Ngân hàng, buộc phải tính toán thu, chi và
tìm cách bán được sản phẩm của mình để có tiền trả nợ Ngân hàng đúng hạn.
Điều đó thúc đẩy việc hạch toán kinh tế, khai thác cao nhất các điều kiện sản
xuất, tìm và chọn ra phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhất, với chi phí
thấp nhất. Tín dụng Ngân hàng đã thúc đẩy các hộ sản xuất chuyển từ sản
xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần giảm tệ nạn cho vay nặng lãi, bán sản
phẩm chưa đến thời điểm thu hoạch ở nông thôn. Nếu làm tốt công tác tín
dụng hộ sản xuất thì nguồn vốn Ngân hàng sẽ kịp thời giúp các hộ sản xuất bổ
sung các chi phí vượt ngoài khả năng tài chính của mình, có đủ thời gian để
chọn thời điểm tiêu thụ sản phẩm có lợi hơn. Ngoài ra tín dụng hộ sản xuất sẽ
góp phần tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và đẩy lùi các tệ nạn xã
hội ở nông thôn.
1.2.4.2: Vai trò của tín dụng hộ sản xuất đối với các Ngân hàng Thương mại
- Trải qua hơn 15 năm chuyển sang cơ chế thị trường, các NHTM Việt
Nam đã có những thay đổi nhanh chóng và tích cực, nhưng dù sao vẫn còn
đang trong quá trình chuyển biến, các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng còn quá
đơn điệu, nguồn thu từ tín dụng vẫn còn chiếm 70 - 80% nguồn thu của
NHTM. Đặc biệt, dư nợ hộ sản xuất của NHNo & PTNT Việt Nam chiếm gần
70% tổng dư nợ nên có thể nói rằng tín dụng hộ sản xuất đã tạo ra nguồn thu
chủ yếu nhất, lớn nhất cho hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
- Hộ sản xuất nói riêng, thị trường tài chính tiền tệ ở khu vực nông thôn
nói chung là một thị trường vô cùng rộng lớn, đầy tiềm năng để mở rộng và
phát triển các hoạt động Ngân hàng. Nhu cầu vốn để phát triển nông nghiệp,
nông thôn còn rất lớn, các hoạt động dịch vụ sản phẩm mới của Ngân hàng
dường như chưa triển khai, các yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng không cao,
tính cạnh tranh không gay gắt…. Điều đó phần nào phù hợp với khả năng và

trình độ của NHTM Việt Nam, nhất là trong giai đoạn chủ động tham gia hội
nhập quốc tế của các NHTM Việt Nam hiện nay. Đó chính là thị trường ổn
định, thị trường "hậu phương" cho các NHTM cạnh tranh với Ngân hàng quốc
tế ngay trên đất nước Việt Nam.
- Tín dụng hộ sản xuất hiện nay còn là một thị trường rất lớn tiêu thụ
các nguồn vốn nhàn rỗi mà các NHTM đã và đang huy động đươc ở các đô
thị lớn, nơi mà những năm gần đây có nhiều nguồn vốn quốc tế hỗ trợ. Điều
đó góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, của Chính Phủ về việc khai thác
triệt để các nguồn nội lực để đẩy nhanh quá trình xây dựng đất nưóc.
1.2.4.3. Vai trò của tín dụng hộ sản xuất của NHTM xét trên phạm vi nền kinh
tế.
-Tín dụng hộ sản xuất góp phần thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, góp
phần xây dựng hạ tầng cơ sở ở nông thôn, cải thiện bộ mặt nông thôn, tức là
góp phần thúc đẩy một phần - phần đông dân nhất của nền kinh tế phát triển.
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần mở rộng, hoàn thiện thị trường tài
chính tiền tệ trên toàn quốc, khai thác có hiệu quả các nguồn nhân lực, vật lực
ở nông thôn, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, tạo môi trường
nghiên cứu, triển khai các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, tạo thêm
nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.
- Tín dụng hộ sản xuất tạo điều kiện khôi phục các ngành nghề truyền
thống, tạo thêm công ăn việc làm, tạo thêm nhiều sản phẩm xuất khẩu, nâng
cao đời sống nhân dân, giảm bớt các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo an ninh,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
- Tín dụng hộ sản xuất còn góp phần tích cực trong việc thực hiện
đường lối CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng, triển khai các
chính sách kinh tế xã hội của Chính Phủ trong nông thôn, tạo thêm niềm tin
cho lực lượng dân cư đông đảo nhất, là cơ sở để tạo nên sự ổn định chính trị
đất nước.

1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Ta biết rằng chất lượng tín dụng hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn đối với
sự tồn tại và phát triển của các NHTM và của toàn xã hội. Để quản lý chất
lượng tín dụng hộ sản xuất đồng bộ đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của từng
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
1.2.5.1. Các nhân tố về kinh tế xã hội.
* Nhân tố kinh tế:
Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tín dụng hộ sản xuất, nền kinh tế ổn định làm cho quá trình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiến hành một cách bình thường, không
bị ảnh hưởng yếu tố lạm phát, khủng hoảng làm cho khả năng tín dụng và khả
năng trả nợ không biến động lớn. Trong trường hợp này, chất lượng tín dụng
phụ thuộc chủ yếu khả năng quản lý chất lượng tín dụng của bản thân các
NHTM.
Tuy nhiên, để xã hội tồn tại và phát triển, đòi hỏi nền kinh tế phải có sự
tăng trưởng liên tục, ổn định, vững chắc, với mục đích tăng trưởng nền kinh
tế, một số nước đã sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng,
kích thích đầu tư, giới hạn của mở rộng tín dụng có ảnh hưởng lớn đến đến
chất lượng tín dụng. Nếu mở rộng quá giới hạn cho phép, sẽ làm cho giá cả
tăng quá mức, xảy ra lạm phát ở mức độ cao, các NHTM sẽ chịu thiệt hại lớn
do đồng tiền mất giá, chất lượng tín dụng bị giảm sút. Ngoài ra chính sách và
luật lệ điều tiết về ưu tiên, ưu đãi, hạn chế sự phát triển của một ngành, lĩnh
vực…để hạn chế tác động tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, đảm bảo sự
phát triển cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Do tình trạng
thiếu vốn để phát triển kinh tế, các nước kém phát triển phải tìm mọi cách huy
động vốn nước ngoài để đầu tư. Việc đầu tư sẽ làm tăng tổng cầu trong nền
kinh tế. Trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không theo kịp làm mất

cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế gây nguy cơ lạm phát,
mặt khác do hệ thống ngân hàng chưa phát triển, tình trạng " Đô la hoá " chưa
kiểm soát được luồng tiền từ nước ngoài chảy vào trong nước cũng trở thành
các phương tiện thanh toán làm cho khối lượng tiền lưu thông trong nước
tăng, gây sức ép lạm phát. Huy động vốn và sử dụng vốn nước ngoài nếu
không có tính toán kỹ lưỡng và không có sự quản lý chặt chẽ, sẽ gây nguy cơ
lạm phát và tác động xấu đến hoạt động tín dụng trong nước.
Bản chất của tín dụng là: "Huy động vốn để cho vay" do đó chất lượng
tín dụng còn phụ thuộc vào khả năng huy động vốn, hay nói cách khác là phụ
thuộc vào chất lượng khách hàng. Tín dụng là cầu nối giữa hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng với hoạt động của lĩnh vực sản xuất vật chấtvà kinh
doanh dịch vụ trong nền kinh tế. Do đó mỗi biểu hiện xấu hay tốt của khách
hàng sẽ có những ảnh hưởng tương ứng đến hoạt động tín dụng thông qua cơ
chế tác động của những mối quan hệ tín dụng. Với khách hàng sản xuất kinh
doanh có lãi, có xu hướng phát triển,có khả năng chiếm lĩnh thị trường và các
quan hệ tín dụng tốt ( vay trả nợ sòng phẳng ) thì cầu nối giữa vay và cho vay
sẽ thông suốt và ngày càng mở rộng. Bằng cơ chế chính sách tín dụng phù
hợp, phương pháp phân tích kinh tế, hoạt động tài chính doanh nghiệp được
xây dựng phù hợp với đặc điểm hoạt động tín dụng, các NHTM sẽ tìm được
khách hàng tốt để vay và cho vay, tạo sự tương thích hợp lý giữa nguồn vốn
huy động được với việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động của tín
dụng. Trong thời kỳ kinh tế trì trệ, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động
tín dụng gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu tín dụng giảm trong
thời kỳ này và vốn tín dụng đã được thực hiện cũng không phát huy được hiệu
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
quả, việc trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng thường bị vi phạm. Ngược lại, thời
kỳ hưng thịnh sản xuất kinh doanh được mở rộng, nhu cầu vốn tín dụng tăng,
rủi ro tín dụng ở mức độ thấp. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có nhiều trường

hợp do chạy đua sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ, làm cho nhu cầu
vốn tín dụng lên quá cao và có nhiều khoản tín dụng được thực hiện. Những
khoản này cũng khó có thể được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh
doanh không có kế hoạch dẫn đến suy thoái và khủng hoảng kinh tế.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Theo Mác " Lợi tức chỉ là một phần
của lợi nhuậnmà nhà Tư Bản công nghiệp trả cho nhà Tư Bản kinh doanh tiền
tệ mà giới hạn tối đa của lợi tức là bản thân lợi nhuận"( TB trang 93 tập 2
NXB xự thật-1962 ). Như vậy, lợi tức của Ngân hàng thu được và hoạt động
tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử
dụng vốn vay Ngân hàng. Vì vậy, với mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận các
doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ
không có khả năng trả nợ Ngân hàng, ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộngcủa doanh nghiệp nói riêngvà tình hình phát
triển kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụnglúc này không còn là đòn bẩy để
thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lưoựng tín dụng cũng bị ảnh
hưởng.
* Nhân tố xã hội:
Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng là các tác nhân
trực tiếp tham gia quan hệ tín dụng, đó là người gửi tiền và vay tiền Ngân
hàng. Tín dụng có nghĩa là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở tín nhiệm, lòng
tin, điều đó có nghĩa quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa ba yếu tố: Nhu cầu
của khách hàng, khả năng của Ngân hàng, và sự tin tưởng lẫn nhau giữa Ngân
hàng và khách hàng. Sự tín nhiệm của Ngân hàng càng cao, thu hút khách
hàng càng lớn, khách hàng có tín nhiệm đối với Ngân hàng thườngđược vay
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
vốn dễ dàng và có thể được vay vốn với lãi suất thấp hơn so với các đối tượng
khác. Tín nhiệm là điều kiện, là tiền đề, để không ngừng cải tiến chất lượng

tín dụng.
Khách hàng: Là chủ thể đại diện cho bên cung về nguồn vốn huy động
để cho vay, đồng thời cũng đại diện cho bên cầu về vốn vay. Với tư cách là
người cung, họ mong muốn nhận được từ Ngân hàng một khoản lãi tiền gửi
hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với
Ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định vững chắc của nguồn vốn huy động
để đáp ứng nhu cầu của Người vay. Đối với Người vay, họ đến với Ngân
hàng với mong muốn nhu cầu của mình được đáp ứng, để có được một khoản
tín dụng sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh với sự xác định rõ ràng
vèe số lượng tiền vay, thời hạn vay và lãi suất giá cả của việc sử dụng vốn
vay có thể chấp nhận được. Nếu nhu cầu của khách hàng được chấp nhận với
thái độ ân cần niêm nở và thủ tục đơn giản thuận tiện sẽ thu hút được nhiều
khách hàng tốt, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng thuận lợi, chất lượng tín
dụng được đảm bảo.
Ngân hàng: Là chủ thể đại diện cho bên cầu về vốn huy động để cho
vay, đồng thời cũng đại diện cho bên cung về vốn tín dụng. Quy mô và phạm
vi hoạt động của vốn tín dụng phụ thuộc vào vốn tự có của Ngân hàng, khả
năng huy động vốn ( về quy mô và thời hạn ) cũng như uy tín và trình độ quản
lý của Ngân hàng, ngoài ra còn phụ thuộc trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ, mạng
lưới, phương tiện hoạt động…khả năng tạo tiền của bản thận NHTM và việc
sử dụng các công cụ tiền tệ của NHNN.
Ngoài những nhân tố kể trên, còn có những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng như đạo đức xã hội có liên quan tới rủi ro tín dụng, trong
trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo, hoặc do trình độ dân trí chưa cao,
kém hiểu biết dẫn tới chưa hiểu đúng bản chất hoạt động Ngân hàng nói
chung cũng như hoạt động tín dụng nói riêng, làm ăn kếm hiệu quả, không
phát huy tốt chức năng của tín dụng.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Bên cạnh đó sự biến động của tình hình kinh tế chính trị xã hội ở nước

ngoài cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Trong điều kiện hiện nay các
quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, theo đó các loại hình doanh
nghiệp đa Quốc gia cũng ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô hoạt
động, các trào lưu văn hoá xã hội cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ hợn. Vì
vậy mọi sự biến động về kinh tế chính trị xã hội ở nước ngoài đều ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến tình hình kinh tế chính trị xã hội trong nước và
ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.2.5.2. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm tính đông bộ của hệ thống pháp luật, tính
đầy đủ của văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành Pháp
luật và trình độ dân trí.
Thực tiễn kinh tế thị trường qua nhiều thập kỷ đã có đủ cơ sở kết luận
rằng: Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh
tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Không có pháp luật, hoặc pháp luật
không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường thì
mọi hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hàng trôi chảy được. Với
vai trò đảm bảo cho việc chuyển một nền kinh tế thị trường từ tự phát, kém tổ
chức chuyển sang nền kinh tế thị trường văn minh, hoàn hảo, phát luật có
nhiệm vụ tạo lập một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao, là cơ sở để giải quyết các vấn
đề khiếu nại khi có tranh chấp xẩy ra. Vì vậy, nhân tố pháp luật có vị trí quan
trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng hộ sản
xuất nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng
tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại
lợi ích cho cả hai phía và chất lượng tín dụng mới được đảm bảo.
1.2.5.3. Tổ chức và hoạt động của bản thân từng Ngân hàng.
Tổ chức và hoạt động của bản thân từng Ngân hàng có ảnh hưởng trực
tiếp tới các khía cạnh khác nhau của chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính

Thứ nhất: Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi
đúng quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của
một Ngân hàng. Bất cứ NHTM nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có
chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp cho Ngân hàng mình.
Thứ hai: Công tác tổ chức của Ngân hàng.
Tổ chức Ngân hàng được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phong ban trong từng Ngân hàng, trong
toàn bộ phận hệ thống Ngân hàng cũng Ngân hàng và các cơ quan khác như:
tài chính, thuế, pháp lý…sẽ tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu kịp thời cua
khách hàng, theo dõi quản lý sát sao các khoản vốn huy động cũng như các
khoản cho vay, đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và
quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng. Tổ chức Ngân hàng theo nguyên
tắc tập trung có phân cấp chính là một khâu trong quá trình quản lý chất
lượng tín dụng đồng bộ, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước
trong từng thời kỳ.
Thứ ba: Chất lượng nhân sự.
Con người là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất kinh
doanh của xã hội. Trong hoạt động Ngân hàng con người là yếu tố quyết định
đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như các hoạt động khác của
Ngân hàng. Xã hội càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao
để có thể đối phó kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt
động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn,
am hiểu sâu lĩnh vực khoa học, kỹ thuật,kiến thức ngoài ngành, sẽ giúp cho
ngành Ngân hàng có thể ngăn ngừa sai phạm có thể xẩy ra khi thực hiện chu
kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
Thứ tư: Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định thực hiện trong quá trình
cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng nó được bắt đầu từ khi
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
chuẩn bị cho vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được hết nợ.
Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt
các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng các bước trong
quy định tín dụng.
Trong quy trình tín dụng bước chuẩn bị cho vay ( Khách hàng viết giấy
đề nghị vay vốn và Ngân hàng đánh giá giấy đề nghị vay vốn để quyết định
cho vay hay không cho vay) là rất quan trọng. Đây là cơ sở định lượng rủi ro
trong quá trình cho vay. Trong bước này, chất lượng tín dụng phụ thuộc vào
chất lượng công tác thẩm định đối tượng cho vay vốn cũng như những quy
định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng Ngân hàng.
Kiểm tra quá trình cho vay vốn giúp Ngân hàng lắm được nguyên nhân,
diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp, để có những biện pháp điều chỉnh
hoặc can thiệp khi cần thiếp, sớm phát hiện ngăn ngừa những rủi ro có thể
xẩy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra thiết lập
được một hệ thống phòng ngừa có hiệu quả cho chất lượng tín dụng góp phần
cải thiện chất lượng tín dụng.
Thu nợ và thanh lý nợ là khâu quan trọng có tính quyết định đến sự tồn
taị của Ngân hàng, do đó Ngân hàng phải tích cực chủ động trong công tác
thu nợ, sự nhậy bén của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều
kiện bất lợi có thể xẩy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp sử lý
chính xác, đúng lúc sẽ giảm các khoản nợ quá hạn vì điều đó sẽ tác động tích
cực đối với chất lượng tín dụng. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong
quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển bình thường,
theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo chất lượng tín dụng.
Thứ năm: Thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín
dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra quyết định cần
thiết có liên quanđến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông
tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn sẵn có ở Ngân hàng, từ phía khách

SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
hàng, từ các nguồn thông tin khác. Số lượng, chất lượng của thông tin thu
thập có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích nhận định khách
hàng, thị trường… để đưa ra quyết định phù hợp. Thông tin càng nhanh nhậy,
đầy đủ, chính xác, toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
tín dụng càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao.
Thú sáu: Kiểm soát nội bộ.
Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo Ngân hàng có được thông tin
về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh
đang được xúc tiến phù hợp với các chính sách, thực hiện các mục tiêu đã
định.
Trong lĩnh vực tín dụng hoạt động kiểm soát bao gồm:
- Kiểm soát chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các
khoản vay.
- Kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện, báo cáo các
trường hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán và
các nghiệp vụ liên quan đến cho vay.
- Kiểm tra đột xuất về việc sử dung vốn vay, tài sản thế chấp của khách
hàng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và các khoản đảm bảo vốn vay.
Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào múc độ phát hiện kịp thời nguyên
nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng của
công tác kiểm soát nội bộ để có biện pháp khắc phục kịp thời.
Để công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ có hiệu quả, Ngân hàng cần có
cơ cấu hợp lý, cán bộ kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ chuyên môn, trung thực và
phải có đạo đức nghề nghiệp, có chính sách thưởng phạt vật chất nghiêm
chỉnh.
Thứ bẩy: Trang thiết bị phục vụ cho chất lượng hoạt động tín dụng.
Để có thể quản lý và theo dõi hiệu quả hoạt động tín dụng, song song
với việc nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách, công tác tổ

chức quản lý Ngân hàng, công tác quản lý nhân sự, quản lý quá trình cho vay,
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
công tác kiểm soát thông tin nội bộ cần chú ý các phương tiện cần thiết phục
vụ cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang thiết bị tiên tiến phù hợp
với khả năng tài chính và phạm vi, quy mô hoạt động của Ngân hàng sẽ giúp
cho Ngân hàng:
- Phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ
phục vụ ( nhận tiền gửi, cho vay, thu nợ, thanh toán) với chi phí mà cả hai bên
cùng chấp nhận được và thời gian ngắn nhất.
- Giúp cho các cấp quản lý của NHTM kịp thời nắm bắt tình hình hoạt
động tín dụng để điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm
thoả mãn ngày càng cao cho khách hàng.
- Tạo ra uy tín cho Ngân hàng trong cạnh tranh, thu hút khách hàng tốt,
chiếm lĩnh thị trường và mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường Quốc tế.
Như vậy, trang thiết bị cũng là một trong các nhân tố không thể thiếu
được để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng.
Tuỳ và điều kiện kinh tế xã hội, sự hoàn thiện môi trường pháp lý ở
từng nước, cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ
quản lý của từng NHTM mà các nhân tố này ảnh hưởng ở mức độ khác nhau
đến chất lượng tín dụng. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải biết rõ các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng và biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt sự ảnh
hưởng của các nhân tố trong điều kiện và hoàn cảnh thực tế sẽ có tác dụng
giúp cho sự thành công của hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động
của các NHTM nói chung.
1.2.6. Kinh nghiệm quản lý chất lượng cho vay của một số NHTM thế giới.
Hiện nay, nhiều nước vận dụng việc quản lý chất lượng tín dụng ở mức
độ khác nhau. Cụ thể:
Ở Malaysia: Các NHTM đều có quỹ dự phòng riêng ít nhất bằng 1%
tổng dư nợ. Ngoài ra còn có quỹ dự phòng đặc biệt cho các khoản nợ tổn thất

và có nghi ngờ. Việc thành lập quỹ dự phòng đặc biệt theo hướng dẫn xếp
loại nợ.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
- Nợ tổn thất : Là nợ không có khả năng thu hồi số tiền này cũng cần
được xoá sổ hoặc được bù đắp bằng quỹ dự phòng.
Số tiền bù đắp = Số tiền còn nợ-Các khoản lãi gộp-Tài sản thế chấp có giá trị
- Nợ có nghi ngờ: Là nợ được coi là không có khả năng thu hồi vì khó
đánh giá số tiền có thể mất nên người ta đặt một tỷ lệ mặt bằng là 50%.
Số tiền được bù đắp = 50% số tiền nợ - Lãi treo nhập gốc - Tài sản thế chấp
có giá trị
- Nợ kém tiêu chuẩn: Là nợ có mức độ rủi ro cao nhưng không thể
đánh giá là nợ tổn thất hay nợ nghi ngờ (vì tình hình tín dụng chính xấu đi
hoặc tài tài sản thế chấp thiếu có các yếu tố khác dẫn đến người vay không trả
được nợ). Đối với khoản nợ này Ngân hàng phải chú ý thu hồi hết nợ, bổ sung
thế chấp nắm thông tin thường xuyên để có giải pháp thích hợp.
Thái Lan: Xếp loại tài sản theo 3 loại: tổn thất, có nghi ngờ, kém tiêu
chuẩn. Quỹ dự phòng được lập cho các khoản tín dụng được xếp có nghi ngờ
ở mức tỷ lệ 50% và nợ mất trắng ở mức 100%. Nợ kém tiêu chuẩn Ngân hàng
được quyền xử lý. Ngoài ban giám đốc NH cần chú ý đến các khoản nợ cần
lưu ý: những khoản này tốt hơn những khoản nợ kém tiêu chuẩn nhưng có
một số điểm về rủi ro như các hợp đồng rút quá số dư hạn mức, những khoản
nợ không thấy trả lãi, hay trả lãi thấp hơn mức bình thường.
Mỹ: Không phải tất cả các khoản nợ tín dụng đều được xếp loại, chỉ
buộc phải xếp loại khi các nguồn thu để trả nợ không hội đủ và khi thanh lý
còn nợ nhiều rắc rối: các khoản tín dụng được xếp thành 4 loại: những khoản
nợ tín dụng đáng chú ý, những khoản nợ kém tiêu chuẩn, các khoản nợ có
nghi ngờ, các khoản tín dụng bị mât trắng.
Quỹ dự phòng tổn thất cho vay được trích từ thu nhập và được duy trì ở
mức vừa đủ để trang trải các khoản tổn thất đã hết trong cơ cấu tín dụng.

Ngoài ra, quản lý hoạt động tín dụng của Mỹ có đặc điểm sau:
- Để tránh rủi ro do đạo đức, quản lý tiền vay được xây dựng trên
nguyên tắc: sàng lọc, giám sát, thiết lập những mối quan hệ khách hàng lâu
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
dài các mức tín dụng, yêu cầu thế chấp và yêu cầu về số dư đền bù và hạn chế
tín dụng.
- Phần lớn các NHTM đều thực hiện vay trên cơ sở kỳ phiếu mức cho
vay bằng 75% tổng giá trị kỳ phiếu. Đến hạn người phát hành kỳ phiếu không
trả được nợ, Ngân hàng có quyền khởi tố theo luật tố tụng,lệ phí tố tụng rất
cao nên hầu như không có kỳ phiếu quá hạn.
- Có bộ phận riêng chịu trách nhiệm phân tích, phát hiện các khoản
không hoạt động. Căn cứ vào kết quả thanh tra để loại ra khỏi tài sản có
những khoản nợ quá hạn không có khả năng trả.
- Để ngăn ngừa các vụ vỡ nợ Ngân hàng, số vốn tối thiểu đối với Ngân
hàng được quy định 3% tổng tài sản có đối với Ngân hàng mạnh và 6% với
Ngân hàng khác.
Qua khảo sát một số nét về tình hình quản lý cho vay ở một số nước ta
thấy:
- Vấn đề an toàn trong hoạt động cho vay là vấn đề quan trọng hàng
đầu đối với các NHTM.
- Chú trọng và tăng cường công tác thông tin, sàng lọc thông tin và tập
hợp những thông tin tin cậy sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được Người vay tiền
có triển vọng. Điều đó cũng có nghĩa là: quản lý cho vay phải tập vào công
tác phòng ngừa, tăng cường chất lượng khâu thẩm định ban đầu cũng như
giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay để giảm tới mức tối đa các khoản
nợ bị mất mát.
- Quản lý cho vay tập trung quản lý tài sản có, thông qua việc xếp loại
tài sản có và trích lập gây quỹ dự phòng, NHTM vừa giám sát được chất
lượng cho vay vừa có biện pháp kịp thời để bù đắp rủi ro mất vốn, đảm bảo

khả năng thanh toán khi cần thiết.
- Chất lượng cho vay sẽ được cải thiện nếu môi trường pháp lý đầy đủ,
nghiêm minh, có các chỉ tiêu đầy đủ, cụ thể được định lượng hoá thuận lợi
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
cho việc giám sát, kiểm tra, áp dụng các hình thức cho vay phù hợp với khả
năng rủi ro của khoản cho vay.
- Việc thành lập quỹ dự phòng tổn thất cho các khoản nợ là cần thiết,
tuy nhiên tuỳ thuộc điều kiện cụ thể mỗi nước, nguồn hình thành quỹ có thể
được trích từ chi phí hay thu nhập.
- Trong điều kiện hiện nay để có thể hội nhập với nền kinh tế thế giới,
việc tham khảo kinh nghiệm của các nước là cần thiết để có thể tiếp thu nhanh
những thành tựu công nghệ tiên tiến trong công tác quản lý nói chung và quản
lý hoạt động cho vay nói riêng, nhằm rút nhanh khoảng cách về trình độ quản
lý giữa nước ta và trình độ quản lý trên thế giới. Nhất là trong lĩnh vực Ngân
hàng, lĩnh vực quan trọng và đóng vai trò trụ cột trong nền kinh tế, vấn đề này
càng coi trọng tạo điều kiện cho sự lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ được an toàn
nhanh chóng và thông suất giữa các nước.
SV: Nguyễn Tài Tự Ngân hàng 44B

×