MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 với những đặc
trưng mang tính thời đại là xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với đó là sự
phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ đã đưa thế giới chuyển từ kỷ
nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên công nghệ thông tin và nền kinh tế tri
thức. Nó đã làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực hoạt
động xã hội, trong đó có giáo dục. Sự biến đổi đó trước hết là yêu cầu mới
của xã hội về mẫu hình nhân cách của lực lượng lao động xã hội, từ đó dẫn
đến những tư duy mới về Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) là một lĩnh vực hoạt
động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển nguồn
nhân lực, đây là yếu tố quyết định phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Để có
thể phát triển theo kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới thì vai
trò của giáo dục càng rõ nét, ở nước ta năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức
ngành giáo dục sẽ quyết định trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả giáo dục
cũng như quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện thành công
mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước.
Lực lượng giáo dục, trong đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên, là một trong
những thành tố cơ bản của quá trình GD&ĐT. Thành tố đó có vai trò quyết
định trong việc thực hiện nội dung và chương trình, phương pháp và hình
thức tổ chức giáo dục, theo nguyên lý và phương châm giáo dục để đạt tới
mục tiêu giáo dục. Đối với nền giáo dục nước ta có một đội ngũ GV là lực
lượng nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục, người thầy giáo là chiến sĩ cách
mạng trên mặt trận tư tưởng văn hóa. Đây chính là những người truyền thụ
cho thế hệ trẻ lý tưởng và đạo đức cách mạng, bồi đắp cho các em nhân cách
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo nên
những lớp người có ích cho xã hội. Chính những yếu tố này đòi hỏi đội ngũ
nhà giáo phải không ngừng học hỏi để có sự thay đổi về năng lực, phẩm chất
đáp ứng với yêu cầu đổi mới của giáo dục, của xã hội.
1
Tại Luật giáo dục năm 2005 đã khẳng định nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục; nhà giáo phải không ngừng học
tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học; nhà nước tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng nhà giáo; có chính sách đãi ngộ, đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật
chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình; gìn
giữ và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo tôn vinh nghề dạy học.
Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư Trung ương Đảng về
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD, tiếp tục
khẳng định: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD được
chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề nhà
giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng hướng và có hiệu quả sự nghiệp
giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước”[1]
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định tầm quan
trọng của nhà giáo và công tác xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo một cách
toàn diện, là một trong những nội dung quan trọng của đổi mới công tác
QLGD, tiến tới phát triển nền giáo dục nước ta đáp ứng tốt yêu cầu phát triển
của đất nước.
Phòng GD&ĐT huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang có chức năng tham
mưu, giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
về các lĩnh vực GD&ĐT, bao gồm: Mục tiêu, chương trình, nội dung
GD&ĐT; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ QLGD; tiêu chuẩn cơ sở
vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn
bằng, chứng chỉ, bảo đảm chất lượng GD&ĐT nhằm đào tạo ra những con
người phát triển toàn diện phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT - XH. Đặc
biệt là sự nghiệp CNH-HĐH của tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay và
lâu dài.
2
Bên cạch vai trò tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền địa phương về
nhiệm vụ phát triển GD&ĐT của toàn huyện thì công tác đào tạo phát triển
đội ngũ GV THCS là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết, đặc biệt
quan trọng đối với các xã đặc biệt khó khăn (xã 135). Trong nhiều năm qua,
công tác phát triển đội ngũ GV THCS tại các xã đặc biệt khó khăn còn rất
nhiều hạn chế, sự bất cập về số lượng, cơ cấu bộ môn; hạn chế trong quá trình
giao lưu, học hỏi kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn và đặc biệt là
nghiệp vụ sư phạm của GV chưa đáp ứng kịp với
những đòi hỏi và yêu cầu
ngày càng cao về việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc phát triển
KT - XH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của địa phương.
Xuất phát từ lý do trên, với mong muốn tìm ra những biện pháp để phát
triển đội ngũ GV THCS, tác giả mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Biện
pháp phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn của
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 - 2015”, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của địa phương trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp
phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc
Quang, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 – 2015 nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của địa phương.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn
của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn
của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 - 2015.
3
4. Giả thuyết khoa học
Công tác phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn
của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang còn rất nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục tại các địa phương. Nếu đề xuất
được hệ thống các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THCS vùng đặc biệt
khó khăn có cơ sở khoa học phù hợp với thực tiễn và thực hiện đồng bộ các
biện pháp đó thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại các xã đặc biệt
khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí luận về phát triển đội ngũ GV THCS.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng đội ngũ GV và công tác phát triển đội
ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc
biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 - 2015.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tại một số trường THCS, PTCS thuộc các xã đặc biệt khó
khăn (03 xã: Xã Đồng Tiến, xã Thượng Bình, xã Tân Lập) của huyện Bắc
Quang, tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc
biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 – 2015.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2007 đến năm 2010.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Bằng việc phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các vấn đề lý luận từ các
công trình khoa học đã có và các tài liệu khoa học có liên quan tới đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát.
4
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Xây dựng các phiếu điều tra; đọc,
phân tích và tổng hợp các số liệu, lập bảng tổng hợp chung và nhận định theo
các biện pháp điều tra.
- Phương pháp chuyên gia: Trưng cầu ý kiến các chuyên gia về tính cần
thiết và tính khả thi của các biện pháp phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các
xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tiến hành nghiên cứu, tổng kết
kinh nghiệm của một số đội ngũ CBQL như: Lãnh đạo UBND huyện, lãnh
đạo UBND các xã, Ban lãnh đạo phòng GD&ĐT huyện, các bộ phận chức
năng, một số trường trực thuộc,…
7.3. Phương pháp bổ trợ
Dùng phương pháp thống kê toán học, phân tích, xử lý các số liệu điều tra.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên THCS.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ GV và công tác phát triển đội ngũ giáo
viên THCS tại các xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Thực trạng đội ngũ GV và công tác phát triển đội ngũ GV THCS
thuộc các xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Cùng với quá trình phát triển KT - XH, các quốc gia luôn coi trọng phát
triển nền giáo dục của nước mình nhằm đáp ứng ngày càng cao về nâng cao
trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực và nền giáo dục của các nước đều
đã và đang phát triển theo hướng hiện đại hóa hội nhập với xu hướng phát
triển chung của thế giới. Bởi lẽ một nền giáo dục tốt, hiện đại sẽ tạo ra một
nguồn nhân lực tốt, nâng cao vị thế của quốc gia, không phải ngẫu nhiên mà
trong báo cáo phát triển con người của UNDP từ năm 1995 đến nay mà gần
đây nhất là báo cáo phát triển con người năm 2008 phần lớn các nước có chỉ
số HDI (chỉ số phát triển con người) cao. Điều đó đặt ra cho giáo dục Việt
Nam những vấn đề: Đổi mới tư duy về giáo dục, đổi mới nội dung và phương
pháp giáo dục, giáo dục suốt đời và phổ cập công nghệ thông tin, hiện đại hóa
giáo dục, học tập thường xuyên và học tập suốt đời. Tại Văn kiện Hội lần thứ
2 Ban chấp hành – Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định “Đội ngũ GV
giữ vai trò quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh” [13,38].
Trong hơn 20 năm đổi mới, nhiều giải pháp nhằm phát triển đội ngũ
GV các cấp, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi. Đặc biệt từ khi
có chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông thì nhiều dự án, công trình nghiên cứu có liên quan đến
phát triển đội ngũ GV trong đó có phát triển đội GV THCS đã được thực
hiện:
- Dự án quốc gia nghiên cứu tổng thể về GD&ĐT và phân tích nguồn
nhân lực, mã số VIE/89/022, năm 1991 – 1992 (gọi tắt là dự án tổng thể về
giáo dục). Mục đích của dự án là: Đánh giá hệ thống giáo dục về hiệu quả
6
trong và hiệu quả ngoài; đề xuất chiến lược dài hạn thích nghi với yêu cầu
đang thay đổi của xã hội và sự hạn chế về tài chính.
- Dự án giáo dục THCS II do Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) tài
trợ chia làm 2 giai đoạn từ năm 1998 đến cuối năm 2010 với mục tiêu: Hỗ trợ
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục THCS; hỗ trợ phát triển giáo dục
THCS ở các địa bàn khó khăn, vùng dân tộc.
- Một số luận án Tiến Sĩ và luận văn Thạc sĩ đã có một số tác giả chọn đề
tài nghiên cứu liên quan đến phát triển đội ngũ GV THCS, có thể kể đến:
Luận án Tiến sĩ Giáo dục của Lê Khánh Tuấn nghiên cứu năm 2002 về đề tài
“Các biện pháp phát triển đội ngũ GV THCS giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”; luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục của Lê Đình Thanh nghiên cứu
năm 2004 về đề tài “Biện pháp phát triển đội ngũ GV THCS huyện thuận
thành, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005 - 2010”,… Đề tài đã đưa ra các biện
pháp phát triển đội ngũ giáo viên THCS phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương nghiên cứu.
- Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề phát
triển đội ngũ GV THCS vùng đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh
Hà Giang. Bởi vậy tác giả chọn đề tài: “Biện pháp phát triển đội ngũ GV
THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang,
giai đoạn 2011 - 2015” làm đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục tại địa phương.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Phát triển.
Theo từ điển tiếng Việt: “Phát triển là biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến
rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [14,797]. Theo quan điểm triết
học, phát triển là quá trình vận động đi lên của sự vật hiện tượng, trong đó có
sự gia tăng từ ít thành nhiều, từ thấp thành cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ hoàn thiện đến hoàn thiện hơn nữa,… Như
vậy, sự vật, hiện tượng, con người, xã hội hoặc biến đổi để tăng tiến về số
7
lượng, chất lượng hoặc là dưới tác động của bên ngoài làm cho biến đổi tăng
đều được coi là phát triển.
Theo đó trong lịch sử phát triển của con người, luôn mong muốn có
một cuộc sống tự do, dồi dào về vật chất, phong phú về tinh thần, không
ngừng được nâng cao về tri thức của mỗi người luôn được ấp ủ và theo đuổi
qua mọi thế hệ, mọi thời đại. Tuy nhiên trong những giai đoạn lịch sử khác
nhau, khi theo đuổi mục đích đó, trọng tâm và mục tiêu phát triển lại không
hoàn toàn giống nhau. Nửa thế kỷ trở lại đây, phát triển trở thành cơ hội thực
sự cho nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng trên thế giới và cũng có nhiều cách
tiếp cận khác nhau về lý luận phát triển.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ,
một cách phát triển khác có tính hệ thống, mang đậm tính chất nhân văn đã
được định hình rõ nét trong tư duy phát triển của nhiều quốc gia, đó là sự phát
triển bền vững, trong đó con người được coi là trung tâm của sự phát triển.
Người ta quan niệm: Phát triển là sự mở rộng phạm vi lựa chọn của con người
để đạt đến cuộc sống trường thọ, khỏe mạnh, có ý nghĩa và xứng đáng với con
người. Theo quan điểm này có 2 khía cạnh: Mở rộng cơ hội lựa chọn của con
người để thực sự được hưởng thụ một cuộc sống hạnh phúc, bền vững. Cách tiếp
cận này đã nhận được sự ủng hộ của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Phát triển con người phải là sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự
mở rộng cơ hội cho người dân nhằm hướng tới một cuộc sống đầy đủ vật
chất, phong phú về tri thức. Theo báo cáo phát triển con người Việt Nam năm
2001, quan điểm phát triển con người có 5 đặc trưng cơ bản:
- Con người được coi là trung tâm của sự phát triển.
- Người dân không chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu của sự phát
triển. Vì vậy, quan điểm phát triển con người phải gắn liền với những lý
thuyết về nguồn vốn con người hay nhân lực.
8
- Nâng cao vị thế người dân. Người dân không chỉ đơn thuần là đối
tượng hưởng thụ một cách thụ động thành quả của sự phát triển mà còn là
thành viên tham gia tích cực, chủ động vào quá trình phát triển.
- Chú trọng tạo lập sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người dân, đồng
thời nhấn mạnh tầm quan trọng của sự công bằng xã hội.
- Nó mang tính toàn diện vì đó là một quá trình mở rộng cơ hội của
người dân về tất cả các mặt của cuộc sống như: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa và giáo dục [21,23].
1.2.2. Đội ngũ.
Nói đến đội ngũ, từ điển Bách khóa Việt Nam đã định nghĩa: “Đội ngũ
là khối đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp hợp thành lực lượng”
[20,243].
Hoặc theo PGS.TS Nguyễn Phúc Châu thì “Đội ngũ là tập hợp gồm
một số đông người cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp, hợp thành
lực lượng hoạt động trong một hệ thống” [7,1].
Theo các quy định hiện hành của Nhà nước , đội ngũ trường học bao
gồm: Cán bộ quản lý cá trong trường học, nhà giáo, nhân viên phục vụ các
hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Từ đó ta có thể hiểu hơn về đội ngũ: Đó là sự gắn kết những cá thể với
nhau, hoạt động qua sự phân công, hợp tác lao động. Là những người có
chung mục đích, lợi ích và rằng buộc với nhau bằng trách nhiệm pháp lý.
1.2.3. Đội ngũ GV THCS.
Có nhiều tác giả có quan điểm khác nhau đề cập đến đội ngũ giáo viên,
trong đó một số tác giả nước ngoài có quan điểm: Đội ngũ GV là những
chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ nắm vững tri thức, hiểu biết dạy học
và giáo dục như thế nào và có khả năng cống hiến toàn bộ sức lực và tài năng
của họ đối với giáo dục.
9
Luật Giáo dục năm 2005 quy định tại Khoản 3, Điều 70 thì khái niệm
giáo viên: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là
giảng viên”.[16]
Tác giả Phạm Viết Vượng có quan điểm về đội ngũ: “Đội ngũ GV
trong ngành giáo dục là một tập thể người, bao gồm cán bộ quản lý, GV và
nhân viên, nếu chỉ đề cập đến đặc điểm của ngành thì đội ngũ đó chủ yếu là
đội ngũ GV và đội ngũ QLGD”[26,10].
Từ những quan điểm đã nêu trên của tác giả trong và ngoài nước, có
thể hiểu đội ngũ GV như sau: Đội ngũ GV là một tập hợp những người làm
nghề dạy học và giáo dục, được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một
nhiệm vụ, có đầy đủ tiêu chuẩn của một Nhà giáo, cùng thực hiện các nhiệm
vụ và được hưởng các quyền lợi theo Luật giáo dục và các Luật khác được
Nhà nước quy định.
Từ khái niệm đội ngũ GV nói chung ta còn có khái niệm đội ngũ GV
Tiểu học, đội ngũ GV THCS, đội ngũ GV THPT, đội ngũ GV dạy nghề, đội
ngũ GV trung học chuyên nghiệp.
Khi nói đến đội ngũ GV THCS, ta phải hiểu và xem xét trên quan điểm
hệ thống. Đó không phải là một tập hợp rời rạc, mà các thành tố trong đó có
mối quan hệ lẫn nhau, bị rằng buộc bởi những có chế nhất định nào đó. Vì
vậy, mỗi tác động vào các thành tố đơn lẻ của hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ,
vừa có ý nghĩa toàn thể.
1.2.4. Phát triển đội ngũ và phát triển đội ngũ GV THCS
1.2.4.1. Phát triển đội ngũ
Ta hiểu rằng, đội ngũ nhân lực trong một tổ chức có thể hiểu là nguồn
nhân lực của tổ chức đó, cho nên để nhận biết khái niệm phát triển đội ngũ,
chúng ta phải xuất phát từ khái niệm quản lý nguồn nhân lực.
10
Chương trình chiến lược phát triển kinh tế – xã hội năm 2011 – 2020 của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc
tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ GV và cán bộ
quản lý là khâu then chốt”. [2]
Theo GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn thì: “Quản lý nguồn nhân lực là quá
trình quy hoạch nguồn nhân lực tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế chính sách, tạo
động lực thúc đẩy sự phát triển nhằm làm cho đội ngũ nhân lực vững vàng để
đáp ứng yêu cầu của tổ chức” [23,58].
Một nhà tiếp cận khác được Leonard Nadle – Nhà xã hội học người Mỹ
đưa ra nhận định (năm 1980): Quản lý nguồn nhân lực thể hiện bởi các nội
hàm được sắp xếp ở sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.1. Quản lý nguồn nhân lực [13]
(Theo Leonard Nadle – Nhà xã hội học người Mỹ - 1980)
Theo sơ đồ trên, phát triển nguồn nhân lực là một nội hàm của quản lý
nguồn nhân lực, trong đó việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng để đảm bảo về
11
QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
Phát triển
nguồn nhân lực
Sử dụng
nguồn nhân lực
Môi trường
nguồn nhân lực
Đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển;
nhu cầu phục vụ
xã hội
Tuyển dụng; sàng
lọc, sử dụng, đánh
giá, đãi ngộ,…
Mở rộng loại việc
làm, mở rộng quy
mô việc làm, phát
triển tổ chức
số lượng, hợp lý về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ, nâng cao phẩm chất và
năng lực để đáp ứng việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của tổ chức. Nói
cách khác là tạo ra sự tăng trưởng bền vững về hiệu suất của mỗi thành viên
và hiệu quả chung của tổ chức gắn liền với việc tăng lên về mặt số lượng của
đội ngũ, cũng như chất lượng của nhân lực.
Theo Harold Koontz đã nhận định: “Việc quản lý là thiết yếu trong mọi
sự hợp tác có tổ chức, cũng như ở mọi cấp độ của tổ chức trong một cơ
sở”[10,21], như vậy có thể khẳng định rằng mọi quá trình hoạt động không
thể thiếu quả lý được.
Từ cơ sở lý luận trên, ta có thể hiểu phát triển đội ngũ của một tổ chức
phải gắn liền với quá trình quản lý tốt tổ chức đó, điều này cũng có thể được
hiểu chính là một trong những yếu tố phát triển nguồn nhân lực.
Ta có thể hiểu phát triển đội ngũ là tổng thể các hình thức, phương
pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội
ngũ nhằm đạt được mục đích đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu, đạt chuẩn về
trình độ đào tạo, có đủ phẩm chất và năng lực chuyên và nghiệp vụ.
1.2.4.2. Phát triển đội ngũ GV THCS
Đảng và Nhà nước ta luôn qua tâm đến công tác xây dựng và phát triển đội
ngũ nhà giáo: Tại Nghị quyết Trung ương 2 – Khóa VIII đã xác định: “Phải có
chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi và ngành sư phạm; đào tạo GV gắn
với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý; thực hiện chương trình bồi
dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất và năng lực
cho đội ngũ giáo viên” [3];
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ GV đủ về số lượng, đáp ứng yêu
cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt
chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ.” [9]
12
Đội ngũ GV THCS là bộ phận lao động đang thực hiện hoạt động giảng
dạy, giáo dục của cấp học, chính là nguồn nhân lực đang làm việc. Đây là bộ
phận chủ yếu và quan trọng nhất, quyết định chất lượng của hoạt động giảng
dạy, giáo dục trong nhà trường. Nội dung phát triển đội ngũ GV THCS có
giới hạn hẹp hơn nhiều so với phát triển nguồn nhân lực nói chung, thể hiện ở
chỗ: chính vì vậy cần thực hiên nghiêm túc.
Ngoại diên của khái niệm thu hẹp lại, chủ yếu giới hạn trọng phạm vi
“Đội ngũ lao động” (một bộ phận của nguồn nhân lực đang làm việc). Đội
ngũ này lại đang làm việc trong hệ thống giáo dục quốc dân với những giới
hạn nhất định về số lượng (theo định mức biên chế của Nhà nước ).
Nội hàm của khái niệm phong phú và cụ thể hơn. Ví dụ, một nội dung
như bồi dưỡng nhân lực chẳng hạn: Trong trường hợp này đó là bồi dưỡng
giáo viên, với những nội dung có liên hệ chặt chẽ với chương trình, sách giáo
khoa, có thể khẳng định rõ được nọi dung, thời gian, đối tượng.
Phát triển đội ngũ GV THCS có mối quan hệ với phát triển nguồn nhân
lực nói chung. Chẳng hạn, làm tốt việc phát triển đội ngũ GV THCS sẽ thúc
đẩy phát triển giáo dục trung học, góp phần nâng cao dân trí, tạo tiền đề cho
phát triển nguồn nhân lực của xã hội. Ngược lại mối quan hệ giữa đội ngũ GV
THCS với nguồn nhân lực bổ sung cho chính đội ngũ này từ xã hội, cũng phải
được xem xét.
Như vậy, phát triển đội ngũ GV chính là việc phát triển nguồn nhân lực
trong giới hạn một cấp học cụ thể. Nội dung chính của nó gồm có 3 mặt:
- Xây dựng đội ngũ, gồm: Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu,
phục vụ.
- Phát triển bền vững (tăng cường khả năng tự phát triển của cá nhân,
khả năng thích ứng tình huống của hệ thống, tính luôn luôn mới, tính cách
mạng của mỗi cá nhân và của toàn thể).
13
- Tạo mối liên kết chặt chẽ, bền vững với việc “Sử dụng nguồn nhân
lực” và “Môi trường nguồn nhân lực”.
1.2.6. Xã đặc biệt khó khăn
Theo Thông tư số 41/UB-TT ngày 08/01/1996 của Ủy ban Dân tộc và
Miền núi Quy định và hướng dẫn thực hiện tiêu chí từng khu vực ở vùng dân
tộc, miền núi. Trong đó, tại mục II có quy định cụ thể tiêu chí đối với các khu
vực (xã) có đặc biệt khó khăn hay còn gọi là khu vực ba (khu vực khó khăn)
cụ thể như sau:
“1. Địa bàn cư trú gồm các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh,
vùng biên giới, hải đảo. Khoảng cách của các xã đến các khu trục động lực
phát triển trên 20 km.
2. Cơ sở hạ tầng chưa được xây dựng, hoặc còn tạm bợ. Giao thông rất
khó khăn, không có đường ô tô vào xã. Các công trình điền, thủy lợi, nước
sạch, trường học, bệnh xá, dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
3. Các yếu tố xã hội chưa đạt tối thiểu. Dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và
thất học trên 60%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin
4. Điều kiện sản xuất khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất mang tính tự nhiên
hái lượm, chủ yếu phát rừng làm nương rẫy, du canh du cư.
5. Số hộ đói nghèo trên 60% số hộ của xã. Đời sống thực sự khó khăn,
nạn đói thướng xuyên xảy ra”[24,4].
Trên đây là tiêu chí đối với các xã có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn.
1.3. Một số yêu cầu về phát triển đội ngũ GV THCS
1.3.1. Yêu cầu về số lượng
Đội ngũ của một tổ chức bao gồm số lượng thành viên của tổ chức đó.
Việc phát triển đội ngũ GV thì ngoài việc tạo ra phẩm chất, năng lực, trình độ
chuyên môn thì còn phải đảm bảo về số lượng theo các chuyên ngành đào tạo.
Đội ngũ GV THCS được xác định trên cơ sở số lớp học, số học sinh/lớp và
định mức biên chế theo quy định của Nhà nước . Hiện nay định biên giáo
14
viên/lớp thuộc ngành học phổ thông thực hiện theo Thông tư liên tịch số
35/2006/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 23/8/2006 của Bộ GD&ĐT, Bộ Nội vụ
Hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục phổ thông công
lập[4], quy định định mức là 1.9 GV trên lớp. Đơn thuần về số lượng thì việc cố
định số GV cần có cho một trường, một cấp học là giống nhau theo công thức:
Số GV cần có = Số lớp học x 1.9
Hàng năm, căn cứ vào Kế hoạch phát triển số lớp học dễ dàng xác định
được ngay số lượng GV cần có trong một trường, một cấp học, một huyện
hay một tỉnh. Từ đó, căn cứ vào số GV hiện có, sau khi trừ đi số GV nghỉ bảo
hiểm xã hội (ốm, nghỉ thai sản,…), mất, bỏ việc, thuyên chuyển (gồm số GV
chuyển đi và chuyển đến) ta xác định được số GV cấn bổ sung cho nhà trường
hay một cấp học. Đó là cơ sở cho việc lập kế hoạch đào tạo.
Một nội dung quan trọng khi xem xét số lượng GV là những biến động
có liên quan chi phối đến việc tính toán số lượng, cụ thể như: Việc bố trí, sắp
xếp số lượng đội ngũ, tình trạng bố trí học sinh trên lớp cũng như định mức
về giờ dạy, định mức lao động của giáo viên, chương trình môn học đề ảnh
hưởng đến số lượng đội ngũ giáo viên.
1.3.2. Yêu cầu về cơ cấu
Theo PGD.TS. Bùi Văn Quân thì: “Cơ cấu là hình thức tồn tại của hệ
thống phản ánh cách thức sắp xếp các phần tử, phân hệ và mối quan hệ của
chúng theo một dấu hiệu nhất định”[16,35].
Cơ cấu đội ngũ GV theo chuyên môn là tổng thể về tỷ trọng GV của
môn học theo ngành học ở cấp tổ chuyên môn. Nếu tỷ trọng này vừa đủ, phù
hợp với định mức quy định, thì ta có được một cơ cấu chuyên môn hợp lý.
Cơ cấu đội ngũ GV theo độ tuổi là sự hợp lý về tỉ lệ tuổi của các nhóm
thành viên tạo nên đội ngũ để tạo thành sự hỗ trợ, tương tác nhau về sức khỏe,
kinh nghiệm công tác nhằm tạo nên năng lực chung của đội ngũ giáo viên.
Yêu cầu hợp lý của tỉ lệ này là cơ sở để phân tích thực trạng, chiều hướng
15
phát triển của tổ chức. Đối với GV cấp THCS ta có thể có nhóm cơ cấu nhóm
tuổi theo các giai đoạn sau: Dưới 25 tuổi, từ 25 đến 30 tuổi, từ 31 đến 35 tuổi,
từ 36 đến 40 tuổi, từ 41 đến 45 tuổi, từ 46 đến 50 tuổi, từ 51 đến 55 tuổi, từ 56
đến 60 tuổi.
Cơ cấu theo giới tính là tỉ lệ phù hợp giữa nam và nữ để có hài hòa về
phát triển tâm lý, có sự hỗ trợ nhau trong các hoạt động đào tạo một cách phù
hợp với tâm lý, giới của đối tượng giáo dục, tạo nên được sức mạnh tinh thần.
Nếu tỷ lệ này hợp lý, sẽ đảm bảo được các chính sách phát triển giới trong
phát triển nguồn nhân lực xã hội nói chung và đội ngũ GV trong các trường
THCS nói chung. Nếu xét mặt tỷ trọng cơ cấu giới tính đội ngũ GV trong
trường THCS, có thể không nói lên được nhiều vấn đề về sự phát triển về
giới. Bởi vì, khác với cấp học đào tạo về giáo dục, ở cấp THCS GV nữ
thường chiếm tỷ lệ nữ giới nhiều hơn nam giới. Tóm lại, nghiên cứu về cơ cấu
giới tính đội ngũ là để có những tác động cần thiết thông qua quản trị nhân sự,
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu xuất công tác của từng cá nhân và của cả đội
ngũ giáo viên.
Cơ cấu GV theo trình độ đào tạo là sự phân chia GV theo tỷ trọng ở các
trình độ đào tạo. Các trình độ đào tạo của GV ở cấp THCS có thể có là:
THSP, CĐSP, ĐHSP, Thạc Sỹ và trình độ tương ứng ở các chuyên ngành
không sư phạm. Xác định một cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo và thực hiện
các hoạt động liên quan để đạt đến cơ cấu đó cũng là một giải pháp nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên. Số GV chưa đạt chuẩn đào tạo đương nhiên
phải nâng chuẩn về trình độ. Nhưng xác định một tỷ trọng thích đáng số GV
đào tạo vượt chuẩn là một vấn đề cần xem xét, để vừa đảm bảo hiệu quả kinh
tế, vừa nâng cao chất lượng đội ngũ. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó
khăn như hiện nay, đội ngũ ngang tầm nhiệm vụ của cấp học có lẽ sẽ tốt hơn
đội ngũ vượt tầm yêu cầu, mà trước mắt yêu cầu thực tế công việc chưa đòi
hỏi sử dụng hết trình độ chuyên môn của họ.
16
1.3.3. Yêu cầu về chất lượng
Chất lượng đội ngũ đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi vì: “Chất
lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, hiện
tượng”[14,58], “Chất lượng là sự phù hợp với mục đích. Cách tiếp cận khái
niệm được đa số các nhà hoạch định chính sách và QLGD đại học sử dụng là
tính phù hợp với mục đích”[14,38].
Một trong những yếu tố quan trọng để phát triển sự nghiệp GD&ĐT
chính là chất lượng của nguồn nhân lực trong GD&ĐT. Trong các trường
THCS nói chung chất lượng nguồn nhân lực của nhà trường hay cũng chính là
chất lượng đội ngũ giáo viên. Khi nói đến chất lượng đội ngũ GV thì phẩm
chất và năng lực chuyên môn cũng như nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ là
nhân tố quyết định cho chất lượng giáo dục.
Chất lượng đội ngũ GV bao hàm nhiều yếu tố: Trình độ đào tạo của
từng thành viên trong đội ngũ, thâm niên trong đội ngũ, thâm niên làm việc
trong tổ chức, thâm niên trong vị trí làm việc mà người đó đã và đang đảm
nhận, sự hài hòa giữa các yếu tố căn bản gồm có hai nội dung chính:
- Phẩm chất đội ngũ GV THCS:
+ Phải có lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng; thực hiện tốt các
chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chủ chương, chính
sách trong ngành GD&ĐT. Mỗi cá nhân phải có tinh thần tự chủ, chịu trách
nhiệm, có ý thức bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất và năng
lực cho bản thân.
+ Có ý thức tổ chức kỉ luật; giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín nhà
giáo; trung thực, hợp tác, có ý thức xây dựng tập thể đoàn kết, là tấm gương
tốt cho học sinh.
+ Thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, giúp học sinh
khắc phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt. Có lối sống lành mạnh, văn
17
minh, phù hợp với bản sắc dân tộc và môi trường giáo dục; có tác phong mẫu
mực, làm việc khoa học.
- Năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm:
+ Giáo viên phải nắm vững những phương châm nguyên lý, nội dung
chương trình, phương pháp dạy học của môn khoa học mà mình giảng dạy,
đồng thời phải có những hiểu biết liên đới với các bộ môn khoa học khác. Nói
như vậy, ngoài yêu cầu về trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn thì người
GV phải tinh thông trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghề nghiệp mà ở đây
là nghiệp vụ sư phạm.
+ Giáo viên phải thông thạo trong việc soạn giảng (giáo án), giảng dạy
trên lớp (coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự
học, chú ý phát triển tư duy sáng tạo, rèn kỹ năng thực hành cho học sinh),
đánh giá chính xác kết quả học tập của học sinh.
Theo Quy định Chuẩn nghề nghiệp GV trung học cơ sở, GV trung học
phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày
22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định một số nội dung
về năng lực dạy học của GV THCS[5].
Làm chủ kiến thức, đảm bảo nội dung chính xác, có hệ thống, bám sát
chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ, vận dụng hợp lý các kiến thức
liên môn theo yêu cầu cơ bản, hiện đại, thực tiễn. Tạo dựng môi trường học
tập: dân chủ, thân thiện, hợp tác, cộng tác, thuận lợi, an toàn và lành mạnh.
Thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ thông qua
giảng dạy môn học và tích hợp các nội dung giáo dục khác trong các hoạt
động chính khoá và ngoại khoá theo kế hoạch đã xây dựng.
1.3.4. Một số yêu cầu riêng đối với phát triển đội ngũ GV THCS
thuộc các xã đặc biệt khó khăn
Tại Kế hoạch phát triển tổng thể đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên,
nhân viên ngành GD&ĐT huyện Bắc Quang, giai đoạn 2010 – 2015 đã quy
18
định đối với việc phát triển đội ngũ GV THCS thuộc các xã đặc biệt khó khăn
còn có một số các yêu cầu riêng:
“Người GV phải hiểu và biết được tiếng dân tộc; hiểu được phong tục,
tập quán của địa phương; nắm được biện pháp vận động, tuyên truyền học
sinh người dân tộc thiểu số đến trường; có phương pháp giáo dục phù hợp
động viên, khuyến khích học sinh tích cực tham gia học tập; người GV phải
có phẩm chất giản dị, gần gũi, có lối sống hòa đồng, biết chia sẻ những khó
khăn trong cuộc sống; người GV phải tích cực học tập, có tầm hiểu biết rộng
đến nhiều lĩnh vực khác nhau (ngoài lĩnh vực chuyên môn) vì trong quan
niệm của người dân tộc thiểu số ít người vẫn rất tôn sùng người thầy giáo, coi
người thầy là người biết tất cả,…”[15].
Như vậy ngoài thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đội ngũ GV THCS
thuộc các xã đặc biệt khó khăn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang còn phải
không ngừng học hỏi để góp phần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị tại địa phương.
1.4. Ý nghĩa, mục đích và nội dung phát triển đội ngũ GV THCS
trong các nhà trường phổ thông
1.4.1. Ý nghĩa phát triển đội ngũ GV THCS
Trong Chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
QLGD đã khẳng định: “Nhà giáo và cán bộ QLGD là lực lượng nòng cốt, có
vai trò quan trọng”[1,8].
Lý luận tổ chức đã chỉ ra các thành tố và điều kiện để cấu thành nên
một tổ chức xã hội (xét dưới góc độ một nhà trường) bao gồm:
- Hệ thống pháp luật quy định tư cách pháp nhân, nhiệm vụ, chức năng
và quyền hạn của tổ chức (thể chế);
- Bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân lực bao gồm: Nhà quản lý, và các
cán bộ, công chức (đội ngũ).
19
- Công sở và các điều kiện tài lực và vật lực cần thiết cho đội ngũ của
tổ chức thực thi nhiệm vụ và chức năng (CSVC và thiết bị kỹ thuật);
- Môi trường hoạt động của tổ chức;
- Thông tin và hệ thống thông tin quản lý về các lĩnh vực hoạt động của
tổ chức.
Đặc trưng của các trường phổ thông là giáo dục đào tạo học sinh. Lực
lượng tham gia hoạt động này bao gồm: Đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân
viên, học sinh. Ngoài gia cơ sở vật chất và thiết bị dạy học phục vụ cho
hoạt động trên.
Như vậy, đội ngũ là một yếu tố không thể thiếu được để cấu thành nên
một nhà trường phổ thông; đồng thời đội ngũ cũng là một yếu tố quan trọng
trong cấu trúc của hoạt động giáo dục và đào tạo. Từ đó ta thấy được ý nghĩa
to lớn của đội ngũ GV đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
trong các trường phổ thông.
Với ý nghĩa như vậy để có đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đạt chuẩn
về trình độ, có phẩm chất tốt và có năng lực chuyên môn cũng như nghiệp vụ
sư phạm thì vấn đề phát triển đội ngũ GV trong nhà trường phổ thông là một
việc làm có ý nghĩa rất quan trọng.
1.4.2. Mục đích phát triển đội GV THCS
Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của nhà trường phổ thông thì
phải có đội ngũ GV phát triển và có khả năng đáp ứng được những yêu cầu
của xã hội đối với công tác giáo dục, cụ thể đạt được mục đích nâng cao chất
lượng giáo dục. Phát triển đội ngũ GV là một trong những yếu tố quan trọng,
góp phần làm cho nhà trường phổ thông có một đội ngũ:
+ Đủ về số lượng (theo quy định tỷ lệ giáo viên/lớp).
+ Đồng bộ về cơ cấu (tuổi, giới tính, chuyên ngành đào tạo,…).
+ Nâng cao được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.
+ Đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ.
20
+ Giữ được phẩm chất, đạo đức nhà giáo.
Với những mục đích phát triển đội ngũ nhà giáo nêu trên góp phần xây
dựng nên một đội ngũ nhà giáo theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng,
đảm bảo về số lượng; đồng bộ về cơ cấu; đặc biệt là góp phần nâng cao bản
lĩnh chính trị, đạo đức lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên
môn của nhà giáo.
Như vậy, phát triển đội ngũ GV THCS tại nhà trường phổ thông cũng
chính là phát triển đồng thời các yếu tố: Đủ về số lượng; đồng bộ về cơ cấu;
đảm về chất lượng (phẩm chất và năng lực).
1.4.3. Nội dung phát triển đội ngũ GV THCS
1.4.3.1. Quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ GV THCS
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX chỉ rõ: "Xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Xây
dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo
dục, bảo đảm đủ số lượng, cơ cấu cân đối, đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu thời kỳ
mới. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm bảo đảm đủ giáo viên
và cân đối cơ cấu đội ngũ giáo viên trong địa phương mình”. [4]
Quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ GV THCS là một yếu tố cơ
bản trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên. Đây chính là quá trình xây
dựng một chương trình, tiến độ tối ưu cho việc thực hiện các mục tiêu đã lựa
chọn của hệ thống, dựa trên cơ sở tính toán một cách đầy đủ và khoa học về
các điều kiện, các phương tiện, các nguồn lực hiện có hoặc sẽ có trong tương
lai. Trong quản lý thì công tác này giữ một vai trò đặc biệt quan trọng vì nó
vừa là chức năng, vừa là công cụ của hoạt động quản lý một tổ chức nói chung và
quán lý nhân sự nói riêng, góp phần xây dựng nên một tổ chức vững mạnh.
Đối với một nhà quản lý thì công tác lập quy hoạch bao giờ cũng được
đặt ở vị trí hàng đầu trong số các chức năng của quản lý; còn với tư cách là
21
công cụ thì mọi hoạt động của công tác quản lý chỉ thực hiện được khi nhà
quản lý hình dung, định hình được họ cần phải làm gì và làm như thế nào.
Quy hoạch phát triển nhân lực đội ngũ GV có vai trò vô cùng quan
trọng trong Kế hoạch phát triển GD&ĐT; đồng thời nó cũng nằm trong tổng
thể quy hoạch phát triển nhân lực của quốc gia.
Quá trình quy hoạch và lập kế hoạch phát triển đội ngũ GV THCS trong các
trường THCS cần đảm bảo một số nguyên tắc sau: Xác định mục tiêu quy
hoạch; Tổ chức thu thập các thông tin về bối cảnh môi trường, nhu cầu và yêu
cầu xã hội đối với với triển giáo dục (giáo dục THCS); tổ chức thu thập các số
liệu nói lên thực trạng đội ngũ GV (về cơ cấu, trình độ đào tạo, năng lực
chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm,…); đồng thời thu thập các số liệu về các
điều kiện phát triển đội ngũ giáo viên; tổ chức các hoạt động dự báo về quy
mô đào tạo để chỉ ra lưu lượng sinh viên trong từng giai đoạn dự báo; xử lý
các số liệu thu thập được để làm rõ kết quả so sánh giữa hiện trạng và nhu
cầu (theo kết quả dự báo); viết nội dung quy hoạch.
1.4.3.2. Tuyển dụng và sử dụng hiệu quả đội ngũ GV THCS hiện có
1.4.3.2.1. Tuyển dụng đội ngũ giáo viên
Tuyển dụng người vào làm GV trong các nhà trường phổ thông phải
đảm bảo nguyên tắc đáp ứng về số lượng, phù hợp về cơ cấu, đúng trình độ
chuyên ngành đào tạo theo chuẩn, giảm tối đa hiện tượng dạy chéo ban, dạy
kê đệm không đảm bảo chất lượng giảng dạy và phần nào phù hợp với nguyện
vọng của người được tuyển.
GV được tuyển chọn phải đạt chuẩn về chất lượng, về trình độ chuyên môn sư
phạm, về nghiệp vụ sư phạm, chuẩn về đạo đức tư cách người thầy.
Muốn vậy phương thức tuyển chọn là hết sức quan trọng, tùy từng đơn vị,
từng vùng mà những phương thức tuyển chọn phù hợp. Có thể xét tuyển, thi
tuyển và kết hợp cả hai hình thức thi tuyển và xét tuyển. Nhất là quy trình
thực hiện phải đảm bảo được tính minh bạch rõ ràng, xây dựng quy chế và
22
thông báo rộng rãi, công khai về số lượng, điều kiện tuyển chọn, về hồ sơ, về
thời gian nhằm đảo bảm công bằng trong tuyển chọn. Hội đồng tuyển chọn
bao gồm các nhà lãnh đạo Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, các GV giỏi có kinh
nghiệm, có phẩm chất đạo đức tốt, kết hợp với Phòng Nội Vụ để đảm bảo về
số lượng, hàng năm Phòng GD&ĐT và Phòng Nội Vụ phối hợp chặc chẽ
hướng dẫn các trường xây dựng kế hoạch biên chế trình UBND huyện
(UBND huyện) phê duyệt.
- Quy trình và nội dung tuyển dụng dụng bao gồm:
+ Chỉ ra nhu cầu và yêu cầu tuyển dụng về số lượng, giới tính và trình
độ đào tạo, năng lực, phẩm chất,… các chính về lương cũng như các chính
sách cán bộ ưu đãi khác (cói cách khác là xây dựng các tiêu chí tuyển dụng
giáo viên). Nội dung này phải được xuất phát từ thực tiễn và trên cơ sở đề
nghị của Khoa học, bộ môn,… Mặt khác nhu cầu này phải được tính toán trên
cơ sở quy mô đào tạo và lượng học sinh học trong nhà trường.
+ Tuyển dụng ( tức là thông báo rộng rãi nhu cầu và yêu cầu tuyển
công chức, viên chức theo các hình thức chuyển tải thông tin).
+ Tiếp nhận hồ sơ để chuẩn bị thi tuyển hoặc xét tuyển.
+ Tổ chức thi tuyển hoặc xét tuyển.
+ Công bố kết quả và các thủ tục tiếp nhận.
+ Phân công vị trí công tác hoặc bổ nhiệm vào các ngạch bậc công
chức kèm theo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền lợi.
+ Thực hiện việc đánh giá kết quả tuyển dụng trên cơ sở so sánh hiệu
xuất làm việc của GV mới tuyển với các tiêu chí, tiêu chuẩn đã định trước khi
tuyển dụng.
1.4.3.2.2. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ GV THCS hiện có
Sử dụng hiệu quả đội ngũ GV chính là quá một trong những yếu tố tạo
động lực cho đội ngũ GV phát triển. Trong thực tế, việc sử dụng đội ngũ ở
cấp THCS còn nhiều bất cập, diễn ra rất phức tạp do đặc điểm cấp THCS về
23
GV cũng rất khác nhau về trình độ, về nơi đào tạo, về bộ môn đảm nhiệm. Rất
nhiều GV xin thuyên chuyển không theo đúng nguyên tắc, không đúng với
yêu cầu chuyên môn hoặc nhu cầu sử dụng của nhà trường, mặt khác quy mô
của các trường THCS thường nhỏ, không đồng đều chủ yếu là các trường
hạng II, hạng III (từ 18 lớp trở xuống), vì vậy trong một nhà trường có thể
thừa GV bộ môn này nhưng lại thiếu GV ở bộ môn khác làm cho các bộ môn
không đồng bộ, không bảo đảm yêu cầu, số GV giảng dạy chéo ban nhiều. Để
có thể sử dụng hiệu quả đội ngũ GV cần chú ý một số nội dung:
- Việc bố trí sử dụng đội ngũ GV phải có một cơ chế rõ ràng. Sự bố trí
sử dụng phải bảo đảm phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực công tác và
yêu cầu công việc của nhà trường. Sự bố trí sử dụng phải là sự kết hợp chặt
chẽ có tính thống nhất, hợp lý giữa Phòng Nội Vụ và Phòng GD&ĐT với Cán
bộ quản lý nhà trường THCS, cần tiến hành một cách công khai rõ ràng
không phải vì bất cứ lý do nào mà chỉ để sử dụng đúng, tốt hợp lý đội ngũ GV
để họ phát huy được khả năng chuyên môn, thuận lợi trong công việc phân
công chuyên môn và bảo đảm chất lượng giáo dục.
1.4.3.3. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình
độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ GV THCS
Có quan điểm cho rằng: “Chừng nào chúng ta coi trọng việc đào tạo, bồi
dưỡng, trọng dụng đội ngũ GV thì chúng ta mới có nhiều chuyên gia giỏi để đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước”. [11,550]
Con đường đi cơ bản và chủ yếu để duy trì và không ngừng nâng cao năng
lực, phẩm chất nguồn nhân lực trong bất kỳ tổ chức nào là tổ chức hoạt động
đào tạo bồi dưỡng. Do đặc thù công việc, GV phải thường xuyên được bồi
dưỡng để hoàn thành niệm vụ và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn,
việc bồi dưỡng càng được quan tâm thì càng tạo sự năng động, sáng tạo cho
GV và tránh được sức ỳ, tự thỏa mãn của giáo viên. Theo đánh giá chung,
hiện nay công tác bồi dưỡng của GV phổ thông chưa đáp ứng được yêu cầu
của cải cách giáo dục và đổi mới phương pháp, nhất là GV THCS.
24
Yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho
đội ngũ GV của các trường THCS cần chú ý một số nội dung chủ yếu sau:
- Thống nhất giữa bồi dưỡng chính trị, tư tưởng nghiệp vụ và nhiệm vụ
thực tiễn đặt ra.
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho GV tăng cường tự học
- Tận dung thành tực mới nhất của khoa học giáo dục và kinh nghiệm
tiên tiến để GV sớm tiếp cận, đặc biệt là công nghệ thông tin.
- Tổ chức hoạt động đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên:
+ Quyết định cử GV đi học đạt trình độ chuẩn theo quy định, đi học đại
học, đi học cao học,… nhằm nâng cao tỉ lệ GV đạt chuẩn và trên chuẩn hướng
tới hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, thái độ,… ở
mức cao hơn để hình thành nhân cách ở mỗi cá nhân.
+ Phối kết hợp, liên kết với các đơn vị tổ chức đào tạo nâng cao trình
độ GV dưới nhiều hình thức đào tạo khác nhau: Đào tạo với hình thức vừa
học vừa làm, đào tạo hình thức liên thông.
+ Phối kết hợp tổ chức đào tạo lại cho một số GV để họ đảm bảo được
trình độ chuẩn hoặc để đáp ứng và điều chỉnh sự mất cân đối về cơ cấu
chuyên ngành đào tạo của trường. Tạo cơ hội cho đội ngũ GV trong nhà
trường có cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên môn mới với mục đích thay
đổi công việc, thay đổi chuyên ngành giảng dạy cho phù hợp với năng lực của
cá nhân và yêu cầu của tổ chức.
+ Phối kết hợp tổ chức hoạt động bồi dưỡng cho mọi GV với các hình
thức tại tỉnh, huyện, tại các cơ sở đào tạo khác; nhằm bổ sung theo hướng cập
nhật tri thức, kỹ năng để nâng cao trình độ trong hoạt động chuyên môn, đặc
biệt là những kinh nghiệm trong xử lý các tình huống cụ thể trong thực tiễn
giảng dạy. Trong quá trình tổ chức hoạt động bồi dưỡng, cần chú ý: Bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên: nhằm giúp GV tinh thông
trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghề nghiệp như soạn giáo án, tổ chức các
25