Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một chiến lược
phát triển kinh tế xã hội nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhằm thực
hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện chủ trương trên, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (Tháng 12 - 1986)
đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính sách nhằm
khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, nhất là các loại
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có sự phát triển nhanh chóng, trong đó phải
kể đến sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tất cả các
thành phần kinh tế do có được những lợi thế nhất định để phát triển trong cơ chế
mới.
Cho đến nay có thể nhận xét, DNVVN ở nước ta có tốc độ phát triển
tương đối khá như vậy nhưng vẫn đang đối mặt với những khó khăn nhiều mặt.
Khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,
công nghệ. Để khắc phục được tình trạng đó, hầu hết phương án lựa chọn của
các doanh nghiệp đó là tìm nguồn tài trợ từ việc vay vốn các Ngân hàng Thương
mại.
Là một chi nhánh cấp 1 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Tây
Hà Nội ra đời đã đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp thiết đó của nền kinh tế. Trong
quá trình hoạt động, Ngân hàng luôn chú trọng và cũng luôn có sự ưu tiên đối
với khối DNVVN, qua đó giúp sức cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển
đồng thời ngày càng nâng cao và khẳng định được vị thế của mình - một chi
nhánh mới đi vào hoạt động.
Chính vì lý do đó, trong thời gian thực tập tại đây, em đã chọn đề tài:
“Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội” để nghiên cứu. Thời gian thực tập tại
Ngân hàng không phải là dài nhưng cũng giúp cho em ít nhiều hiểu được sự vận
dụng lý thuết vào thực tiễn, đồng thời em cũng tìm hiểu được thực trạng về vấn
đề tín dụng với DNVVN tại đây trong những năm qua. Qua đó em mong muốn
đưa ra các giải pháp, các kiến nghị để nâng cao chất lượng tín dụng đối với
DNVVN, góp phần làm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng tại đây.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHTM
1. Khái niệm về NHTM
Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt
động của nhiều thành phần kinh tế và dân cư. Lịch sử hình thành Ngân Hàng bắt
đầu từ rất lâu. Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm dịch vụ
giữ tiền hộ. Dựa trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những thương nhân
này chuyển từ việc giữ tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí và huy động
vốn có trả lãi để khuyến khích người có tiền nhàn rỗi trong xã hội, rồi sử dụng
số tiền đó để kinh doanh trực tiếp cho vay lấy lãi. Ngày nay Ngân Hàng Thương
Mại được định nghĩa như sau:
NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay đầu tư, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và
các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả
năng thanh khoản.
NHTM giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích
thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là
tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu được thực hiện bằng
cách thu hút vốn trong xã hội để cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và
rủi ro thấp nhất.
2. Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà các mối quan hệ
kinh tế, phân phối sản phẩm, phân phối lợi ích do các quy luật của thị trường
điều tiết chi phối.
Kinh tế thị trường có những đặc điểm cơ bản sau:
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, mỗi đơn vị kinh tế được tự do
tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật
- Cạnh tranh là quy luật của thị trường.
- Khách hàng giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế.
- Tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế đều được tiền tệ hoá.
Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường, từ đặc điểm kinh doanh
tiền tệ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà các ngân hàng hiện nay
hoạt động theo hướng đa năng tập trung vào ba hoạt động chính sau đây:
- Hoạt động huy động vốn.
- Hoạt động cho vay đầu tư.
- Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác
Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là một hoạt động quan trọng của các doanh
nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ như ngân hàng. Hoạt động này bao gồm huy động các nguồn tiền
gửi (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi giao dịch và phi giao dịch), các khoản đi vay
(vay từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, từ các NHTM và các tổ chức tín dụng
khác), tiền nhận uỷ thác đầu tư, tiền góp vốn liên doanh.
Ngoài ra các NHTM còn huy động vốn từ việc vay của Ngân hàng Nhà
nước, vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay từ các thị trường vốn lớn trên
thế giới.
Hoạt động huy động vốn có vai trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn
vốn phục vụ cho các hoạt động khác của ngân hàng.
Hoạt động cho vay và đầu tư.
Đây là hoạt động cấp vốn cho nền kinh tế trên cơ sở an toàn số vốn đã cấp
ra và số tiền thu được từ khoản vốn đã cấp phải lớn hơn tổng chi phí bao gồm
các chi phí cho hoạt động huy động vốn cũng như các chi phí khác có liên quan.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong hoạt động cho vay, thu nhập chủ yếu của ngân hàng là lãi cho vay.
Các khoản cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như
thời hạn cho vay, đối tượng cho vay, tính chất bảo đảm của khoản vay…Thông
thường người ta chia các khoản vay theo thời hạn của chúng là tín dụng ngắn
hạn, tín dụng trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn
lãi suất cho vay ngắn hạn do thời hạn vay dài hơn nên rủi ro cao hơn.
Trong hoạt động đầu tư, đầu tư vào chứng khoán là chủ yếu, mục đích của
việc đầu tư vào chứng khoán là tìm kiếm lợi nhuận và đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh ngân hàng. Mặt khác nắm giữ chứng khoán cũng là một cách bảo
đảm khả năng thanh khoản của ngân hàng thông qua việc đầu tư vào các chứng
khoán có tính thanh khoản cao như: tín phiếu và trái phiếu Kho bạc Nhà nước.
Các NHTM Việt Nam hiện nay, lợi nhuận thu được từ hoạt động này
chiếm từ 50% -70% tổng lợi nhuận. Tuy nhiên đây là hoạt động chứa đựng rủi
ro cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng hoạt động này.
Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác.
Các NHTM đóng vai trò trung gian thực hiện các hoạt động theo yêu cầu
của khách hàng như thanh toán, thu hộ, chi hộ, chuyển tiền, uỷ thác…Bên cạnh
đó các NHTM cũng cung cấp các loại hình dịch vụ có liên quan đến tài chính
như dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh…Các hoạt động này có độ rủi ro thấp hơn
hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn đem lại được nguồn thu lớn.
II. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1. Hoạt động tín dụng của NHTM
Có những khái niệm về tín dụng theo cách diễn đạt khác nhau nhưng có thể nêu khái
niệm một cách tổng quát: Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị ( hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để
sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều
kiện mà hai bên thoả thuận với nhau.
Đối tượng của sự chuyển nhượng bao gồm: Chuyển nhượng dưới hình thái hiện vật –
hàng hoá, đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hoá -
chuyển nhượng bằng hình thức giá trị thực chất là việc “ ứng trước hay đầu tư” trực tiếp bằng
tiền ( cho vay bằng tiền).
Những điều kiện mà hai bên thoả thuận thông thường là:
Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thời hạn sử dụng của người vay.
Thu nhập mà người cho vay được hưởng (lãi mà người vay phải trả
theo mức lãi suất).
Những ràng buộc nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Những điều
kiện này một trong hai bên không chấp nhận thì không thể hình thành quan hệ
tín dụng.
Những hành vi tín dụng có thể bất cứ ai cũng làm được, đơn giản như việc hai người
cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy hành vi tín dụng có xu hướng tập
trung vào các ngân hàng, từ đó hình thành một sự chuyên nghiệp hoá trong hành vi tín dụng.
Ngày nay khi nói tới tín dụng người ta nghĩ ngay tới các ngân hàng, vì các tổ chức này chuyên
làm những công việc như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, ký thác và cả việc phát hành giấy bạc
nữa. Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
Tín dụng ngân hàng là tín dụng do cơ quan ngân hàng cung cấp. Tín dụng ngân hàng
thuộc về tín dụng thương nghiệp, ngân hàng là trung gian của người vay, gửi tài khoản. Ngân
hàng đưa phương thức gửi tiền tập trung tiền vốn phân tán trong nhân dân và tích luỹ tiền vốn
trong tương lai, sau đó dùng phương thức cho vay để phân phối nhằm thoả mãn các ngành, các
mặt của xã hội đối với nhu cầu về vốn, do đó trong phạm vi xã hội điều tiết dư thừa và thiếu
vốn.
Tín dụng ngân hàng có những chức năng chính như:
Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có
hoàn trả.
Chức năng tiết kiệm tiền mặt.
Chức năng phản ánh một cách tổng hợp và kiểm soát quá trình hoạt
động của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng, biểu hiện
cụ thể như sau:
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hoà nguồn vốn
giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá và chu chuyển
hàng hoá.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế then chốt
và các ngành, các vùng kinh tế kém phát triển .
- Tín dụng ngân hàng góp phần tác động các đơn vị sử dụng nguồn vay vốn
ngân hàng có hiệu quả.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự mở rộng và phát triển ngành ngoại thương.
- Tín dụng ngân hàng với vai trò tạo tiền trong nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng góp phần bình ổn giá cả trong nền kinh tế.
Với những đóng góp vô cùng to lớn ấy, có thể nói hoạt động tín dụng ngân
hàng là một trong những hoạt động lớn, chủ yếu của ngân hàng và trên thực tế
chỉ ra rằng hoạt động tín dụng đã mang lại cho ngân hàng số lợi nhuận khổng lồ,
tạo điều kiện cho chính ngân hàng phát triển.
2. Đặc trưng cơ bản của tín dụng
Có thể nói trong hoạt động kinh doanh tín dụng nói chung và tín dụng
ngân hàng nói riêng, đặc trưng của tín dụng đều dựa trên 3 đặc tính chủ yếu là:
lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả.
2.1. Yếu tố lòng tin
Bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh “credittum” có nghĩa là “sự
giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy
tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức
tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay. Yếu tố lòng tin
tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu tố bao
trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Lòng tin trong quan hệ tín dụng được biểu hiện từ nhiều phía, không
chỉ có lòng tin từ một phía của người cho vay đối với người đi vay. Nếu
người cho vay không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay thì
quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay cảm
nhận thấy người cho vay không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng tín
dụng, về thời hạn vay, thì quan hệ tín dụng cũng có thể không phát sinh. Tuy
nhiên, trong quan hệ tín dụng lòng tin của người cho vay đối với người đi
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vay quan trọng hơn nhiều bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc
hoặc tài sản của họ cho người khác sử dụng.
2.2. Tính thời hạn và tính hoàn trả
Khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền người
mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán đoạn”), quan
hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi
quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng
hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi
khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam kết, người đi vay
phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức hợp lý kèm theo
như cam kết đã giao ước với người cho vay.
Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ cũng đều là hàng hoá và vì
thế nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người cho
vay chỉ bán “giá trị (quyền) sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của
khoản vay”, nên sau khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, khoản vay đó được
hoàn trả về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả thuận nếu có
là “giá bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời gian nhất định. Như vậy, khối
lượng hàng hoá hay tiền tệ (phần gốc) cho vay ban đầu chỉ là vật chuyên trở giá
trị sử dụng của chúng, nó được phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về
chứ không được bán đứt.
III. TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1. Khái niệm về Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong nền kinh tế
1.1. Khái niệm
Có rất nhiều các định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau của
các nhà kinh tế tuỳ vào quan điểm hay điều kiện của từng quốc gia. Ở nước ta
hiện nay có thể hiểu doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp đạt một trong
hai tiêu chí sau:
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Các DNNN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, HTX, hộ kinh
doanh cá thể có đăng kí kinh doanh có số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 lao động (không giới hạn vốn đăng kí).
+ Các DNNN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
doanh ngiệp cố vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, HTX, hộ kinh
doanh cá thể có đăng kí kinh doanh có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng.
Tiêu chí về lao động chỉ xem xét đối với những doanh nghiệp có vốn đăng
kí trên 10 tỷ đồng.
Cơ sở xác định vốn và lao động:
+ Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh
nghiệp đã đăng kí với cơ quan quản lí lao động và có tham gia đóng Bảo hiểm
xã hội (không bao gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời vụ, hợp đồng
công việc).
+ Vốn đăng kí: Đối với DNNN là vốn điều lệ được nhà nước cấp, đối với
các doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh doanh, giấy phép đầu tư.
1.2. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Nói đến sự phát triển kinh tế ở các nước, chúng ta thường nghe và nghĩ đến các doanh
nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn khi nói đến sự phát triển kinh tế của Nhật Bản, thì
người ta thường nghĩ tới Toyota, Mitsubishi; cũng như thế, khi nói đến Hàn Quốc, thì người ta
nghĩ ngay đến hãng Samsung.v.v.... Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng có vị
trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, thì ít người quan tâm nghiên cứu.
1.2.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút lao
động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước.
Theo số liệu thống kê của nhiều nước cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 95%
tổng số các doanh nghiệp, thu hút từ 75 đến 90% số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp
và đóng góp từ 40 đến 50% thu nhập quốc dân ở mỗi nước. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế
giới” số 1(9) tháng 1,2 năm 2000 cho biết: ở Mỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ về số người lao
động chiếm 78,5%, về thu nhập quốc dân chiếm 34% so với toàn bộ doanh nghiệp nước Mỹ; ở
Cộng hoà liên bang Đức (không kể Đông Đức) con số đó là 75% và 45%; ở Nhật Bản con số
đó là 92,8% và 56%; ở Pháp số nhân việc làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
83,5% trong toàn bộ các doanh nghiệp nước này.
Do có lợi thế là: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công ty, nhà
xưởng; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với chi phí quản lý thấp, tính năng
động và tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với nhu cầu thường xuyên thay đổi của người
tiêu dùng v.v.... nên số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua phát triển khá nhanh.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đặc biệt là loại doanh nghiệp mang tính chất gia đình, cá thể chiếm một tỷ lệ lớn.
Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nửa cơ giới, lao động sống
chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, hải sản; xây dựng và giao thông vận tải
v.v... nên nó có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng
thu nhập bảo đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn kỹ thuật
sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất và sử
dụng công nghệ người máy đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều
tiêu cực xã hội.
1.2.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày
càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Hiện nay, ở nhiều nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và phong phú. Trong cơ cấu các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì doanh nghiệp siêu nhỏ, sản xuất kinh doanh mang tính chất
cá thể, gia đình chiếm tỷ lệ khá lớn. ở Pháp, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tới 80% tổng số
doanh nghiệp và có gần 50% trong số này chỉ sử dụng lao động trong gia đình, không cần
thuê ngoài một nhân viên nào.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có
nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi.
Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được; trái lại các doanh nghiệp
vừa và nhỏ do qui mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng
những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có
những hàng hoá người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp có qui mô
lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở
sản xuất nhỏ và hộ gia đình.
1.2.3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối
lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải
qua khâu trung gian.Đó là khâu lưu thông do mạng lưới các cửa hàng thương nghiệp dịch vụ
bán buôn và bán lẻ đảm nhận.
Do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với lĩnh vực kinh doanh
thương nghiệp - dịch vụ bán lẻ. Vì rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn ban
đầu nhỏ cũng có thể hoạt động được; còn nơi làm cửa hàng và kho hàng có thể sử dụng ngay
nhà mình; nhân viên bán hàng thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu thông hàng
hoá thấp.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm cho lực lượng
sản xuất phát triển có tính nhảy vọt, vượt ra khỏi biên giới quốc gia và đẩy mạnh quá trình quốc
tế hoá đời sống kinh tế thế giới.
Cho nên bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp cũng đều phải
thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là: Tận dụng lợi thế so sánh tích cực tham
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
gia vào việc phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn,
công nghệ và kinh nghiệm tốt của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Đặc
trưng cơ bản của chiến lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp, khuyến khích xuất khẩu (hướng
ngoại).
Việt Nam đang là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp
kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nên việc tích cực tranh thủ các nguồn lực
bên ngoài để khai thác có hiệu quả các lợi thế bên trong là vấn đề đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng.
Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước chủ
trương thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng tâm; đồng thời ra
sức sản xuất những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả để thay thế nhập khẩu.
Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng truyền thống do các
doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả kinh tế hộ gia đình sản xuất chế biến chiếm tỷ trọng đáng kể.
Đó là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm
sứ, mây tre, sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may mặc...
1.2.4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế
địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn phòng làm việc,
nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ của từng nước; ở cả những nơi cơ sở hạ tầng
chưa phát triển như ở vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm
năng và thế mạnh của từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt đất thuộc các ngành
nông, lâm, hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn rất lớn ở từng
địa phương, từng vùng lãnh thổ, cần tập trung đẩy nhanh sự phát triển một số ngành mà nước ta
có nhiều tiềm năng như: nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm,
hải sản v.v...
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kỹ thuật nên
việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng ta chủ trương: “Chú trọng quy mô nhỏ
và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài”
Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên tỷ lệ lao động
sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn rất thích hợp với những ngành cần
nhiều lao động thủ công như chế biến thuỷ sản đông lạnh, may mặc, da giầy, công nghiệp chế
biến.
Hiện nay, doanh nhiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế. Theo thống kê, đội ngũ này chiếm tới gần 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng
góp 25% GDP và thu hút một lực lượng lao động đáng kể, tạo công ăn việc làm, góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần khai thác những tiềm năng trong dân chúng.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngân hàng ngày
càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
2.1. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho
các doanh nghiệp
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc mở rộng sản xuất theo chiều rộng và
theo chiều sâu là yêu cầu khách quan của việc tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, nhất
là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Với tư cách là một trung tâm tín dụng, các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan
trọng trong việc tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các cơ sở sản xuất
kinh doanh của các thành phần kinh tế, trong các tổ chức văn hoá xã hội và trong các tầng lớp
dân cư, trong nước và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp thực hiện tái
sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, hoặc bù đắp phần vốn
thiếu hụt để cho số vốn tự có trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chu chuyển bình thường.
Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn có các công trình trọng điểm có ý nghĩa then chốt của nền
kinh tế quốc dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2.2. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cũng như việc điều tiết kinh tế vĩ
mô, bao giờ Nhà nước cũng phải sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ tài chính, tiền tệ,
tín dụng, ngân hàng.
Ưu thế nổi bật của hoạt động tín dụng ngân hàng là không làm tăng khối lượng tiền mặt
trong lưu thông. Với chức năng đi vay, tín dụng ngân hàng “hút” tiền thừa trong lưu thông; và
với chức năng cho vay, tín dụng ngân hàng “đẩy” tiền ra lưu thông, khi lưu thông thiếu tiền.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ
làm cho quan hệ tiền hàng cân đối với nhau. Chính vì lý do này, tín dụng ngân hàng là một
công cụ tổng thể chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh có hiệu quả.
Kiềm chế được lạm phát, giữ chỉ số tăng giá ở mức thấp một cách hợp lý có ý nghĩa tích
cực đối với sức mua của đồng tiền Việt Nam, ổn định tình hình kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng, chẳng những tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, mà còn có lợi cho người tiêu dùng, nhất là đối với người lao động có thu nhập
thấp.
2.3. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di
chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác
Như chúng ta đã biết, trong các ngành sản xuất khác nhau do điều kiện kinh tế, kỹ thuật,
tổ chức quản lý khác nhau; do đó cùng một lượng vốn đầu tư vào các ngành như nhau, nhưng
khối lượng lợi nhuận thu được trong cùng một thời gian lại không bằng nhau. Từ đó dẫn đến dự
cạnh tranh di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận
cao.
Tuy nhiên, việc di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác không phải doanh nghiệp
nào muốn là có thể làm được, vì phải có những điều kiện nhất định. Song điều kiện khó khăn
nhất, có ý nghĩa quyết định nhất là điều kiện đổi mới vốn cố định, tức là loại bỏ thiết bị kỹ
thuật và công nghệ sản xuất mặt hàng cũ, mua sắm thiết bị kỹ thuật và công nghệ mới để sản
xuất mặt hàng mới, cùng với các phương tiện dịch vụ sản xuất mới. Trong trường hợp này,
nhiều doanh nghiệp phải dựa vào sự hỗ trợ nguồn vốn của tín dụng ngân hàng.
3. Chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu
tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng
tín dụng tốt túc là ngân hàng có nhiều khách hàng, uy tín ngân hàng được nâng
cao tạo điều kiện thúc đẩy cho ngân hàng phát triển.
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù
hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, cần tính đến ba nhân tố là NHTM, khách
hàng, và nền kinh tế.
Thứ nhất: Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và
phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả
đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi
nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm
bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và
dài hạn trong nền kinh tế.
Thứ hai: Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng.
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ làm
cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm bảo thoả mãn nhu
cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất lượng là
yêu cầu hàng đầu, vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của
khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với
tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp
phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp.
Thứ ba: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế.
Hoạt động tín dung trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với
những nội dung mới để đạt được sự thống nhất, về nhận thức và tạo điều kiện
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động,
tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả
năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước,
tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Từ những điều trên, ta có thể rút ra:
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh
một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách
hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí
tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ…
- Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy
trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với
nhau vì một mục đích chung, do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần có sự
quản lý.
Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử
dụng nhằm đạt được chất lượng tốt.
Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín
dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Nói cách khác, chất lượng tín
dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín
dụng, phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên
nhân của những tồn tại về chất lượng, sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể
đứng vững trong nền kinh tế hoạt động sôi nổi và có sự cạnh tranh gay gắt.
3.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với các ngân hàng thương mại, cho vay có vai trò quan trọng trong
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhờ có hoạt động tín dụng mà
một ngân hàng có thể mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh, tăng quy mô
nguồn vốn huy động và khả năng cho vay của mình. Nhận thức được tầm quan
trọng của hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng cần phải tìm biện pháp nâng cao
chất lượng đối với các khoản cho vay và cho thuê cuả mình. Thực tế chất lượng
hoạt động tín dụng là một khái niệm tương đối và không có một chỉ tiêu tổng
hợp nào để phản ánh nó một cách chính xác. Trong phạm vi chuyên đề này của
mình, em chỉ xin trình bày các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ xét từ góc độ Ngân hàng.
Theo đó, để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của một ngân hàng
thương mại, người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau, nhưng về cơ bản
chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại được đánh giá qua các chỉ
tiêu sau:
3.2.1. Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Tổng dư nợ khi được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm cho
vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay uỷ thác. Chỉ tiêu này được đo bằng số
tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ(một năm)
là bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì chỉ ra rằng
ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị
khách hàng kém, trình độ của đội ngũ nhân viên không cao…Tuy nhiên không
phải bất kỳ thời điểm nào chỉ tiêu này cao cũng là tốt và ngược lại, do vậy khi
xét chỉ tiêu này chúng ta cũng không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng
rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố
tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất có thể thực tế hoạt
động tín dụng cuả ngân hàng trong nền kinh tế.
3.2.2. Chỉ tiêu về nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chỉ tiêu này có thể nói là một chỉ tiêu quan trọng nhất khi xem xét chất
lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại. Đến kỳ trả nợ, nếu người vay
không trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ nợ đến hạn
sang nợ quá hạn và đương nhiên người đi vay phải chịu lãi suất quá hạn thường
là cao gấp rưỡi lãi suất trong hạn, vì thế doanh nghiệp đã khó sẽ càng trở nên
khó khăn hơn trong việc trả nợ.
Tỷ lệ nợ quá hạn quá cao biểu hiện hiện tượng chất lượng tín dụng của
ngân hàng là thấp, rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn
trả đúng hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào
ra, với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả
năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Khi xem xét các chỉ tiêu nợ khó đòi,
người ta thường xem xét cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối.
+ Số tuyệt đối ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập hàng năm của ngân hàng
+ Về số tương đối được xác định bởi tỷ lệ nợ khó đòi:
Tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ khó
đòi
Tổng dư
nợ
Hoặc
Tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ khó
đòi
Nợ quá
hạn
Mục đích của các Ngân hàng thương mại là làm cho các tỷ lệ này càng
nhỏ càng tốt, thông thường tỷ lệ này dưới 4% là chấp nhận được.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay
và đều càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên khác biệt cơ bản của hai tỷ lệ này là tỷ lệ
quá hạn chỉ xem xét đến giá trị của khoản nợ quá hạn, trong khi đó thì tỷ lệ nợ
khó đòi xem xét đến giá trị các khoản nợ khó đòi trong nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân
hàng, một ngân hàng có chính sách tốt phải thiết lập được quĩ dự phòng rủi ro đủ
mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không có khả năng thu hồi để
tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả
năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nếu như ngân hàng thực hiện xóa nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này ở
mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn.
Ngoài ra, người ta còn tính đến một chỉ tiêu gián tiếp là tỷ lệ mất vốn:
Tỷ lệ mất vốn =
Tổng số tiền cho vay được xoá nợ
*100%
Dư nợ bình quân
Các tổ chức tín dụng đều có những khoản cho vay không có khả năng thu
hồi, nhưng một tổ chức tín dụng quản lý tốt là một tổ chức có tỷ lệ này ở mức
thấp nhất. Rất nhiều tổ chức tín dụng vẫn phản đối việc xoá nợ bởi họ tin rằng
những khoản cho vay này vẫn có thể thu hồi được. Một khi món nợ đã được
xoá, các nỗ lực thu hồi vốn vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế.
3.2.3. Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng nhất là lợi nhuận. Chỉ tiêu
này sẽ chỉ ra trong tổng thu nhập của ngân hàng thì phần đóng góp là bao nhiêu.
Lợi nhuận thu từ hoạt động tín dụng lớn sẽ khẳng định chất lượng của các khoản
vay là tốt.
Tất nhiên khi xem xét chất lượng của một hoặc một số hoạt động tín dụng
đặc thù thì chúng ta sẽ dựa trên những chỉ tiêu chung này để vận dụng cho phù
hợp, đồng thời những chỉ số cũng được xem xét trong cả một thời kỳ dài để thấy
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khuynh hướng biến động của nó phù hợp với thực tiễn không, nhằm giúp cho
các đánh giá được chính xác hơn.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Như ta đã biết, chất lượng tín dụng là chỉ tiêu để đánh giá tình hình hoạt
động tín dụng của một ngân hàng và có ý nghĩa lớn đến sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay
vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng
thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để có thể thực hiện được
mục tiêu hoạt động của mình là tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chức năng nhiệm vụ
của ngân hàng, cụ thể ở đây là hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng phải làm sao
để nâng cao được chất lượng tín dụng. Để thực hiện được điều này ta cần nghiên
cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, đó là 3 nhóm
nhân tố sau đây:
4.1. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn
tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo
được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Bao gồm các nhân tố như: Chính sách tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ,
quy mô vốn của ngân hàng, thông tin tín dụng, quy trình nghiệp vụ tín dụng...
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc khuyếch trương tín
dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng thương mại đó.
Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công
hay thất bại của mỗi ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách
hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ
chấp hành đúng luật pháp và đường lối của ngân hàng nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội.
Bất kỳ một ngân hàng nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách
tín dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng nhiều rủi ro. Khi ngân hàng
gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính sách tín dụng, các nhà hoạch định luôn
coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt được, nên ta có thể nói rằng: Chất lượng tín dụng của
một ngân hàng có tốt hay không còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng ngân
hàng có đúng đắn, phù hợp không.
* Công tác tổ chức ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng thì cần có sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết từ trên xuống, từ ban lãnh đạo
đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa là công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện
tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác
này, ngân hàng đã làm cho guồng máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt.
Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động ngân hàng nên luôn chú trọng công tác này để ngày
càng phát triển và hoàn thiện hơn.
* Thông tin tín dụng
Cho vay không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào
cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh,
mạo nhận là DN để cho vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho
ngân hàng. Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống
thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là
điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng
những rủi ro có thể xẩy ra trong các hoạt động của ngân hàng.
* Chất lượng đào tạo cán bộ ngân hàng
Chất lượng cán bộ là "cơ sở vật chất" để thực hiện những kế hoạch kinh doanh trong cơ
chế thị trường thường xuyên thay đổi và có nhiều biến động như hiện nay. Do vậy trong quá
trình tuyển chọn cán bộ ngân hàng cần phải ưu đãi những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi
chuyên môn nghiệp vụ, năng động sáng tạo. Trong quá trình hoạt động thường xuyên tiến hành
đào tạo và đào tạo lại cán bộ để nâng cao chất lượng cán bộ, đảm bảo quá trình thực thi nhiệm
vụ được nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xẩy ra.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ được đào tạo với chất lượng, trình độ chuyên môn
giỏi thì việc quản lý thực hiện các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng nói riêng và các nghiệp vụ
ngân hàng nói chung sẽ trở nên quy củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn
giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro có thể xẩy ra.
* Những vấn đề thuộc về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến rủi ro, bất
chắc có thể xẩy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi ngân hàng.
Một trong những hoạt động có mục đích cho ngân hàng tránh được những rủi ro đó
là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện đối với
khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay) mà còn được thực hiện đối với
bản thân ngân hàng (như quy trình thực hiện cho vay, quá trình quản lý vốn vay, loại trừ
cán bộ mất phẩm chất có hiện tượng tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy
tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng cũng đồng thời là ngân hàng phải kịp phát hiện và ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Muốn vậy,
việc đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ và trách nhiệm thực hiện công tác kiểm tra,
thanh tra, kiểm soát là một vấn đề mà không ngân hàng nào coi nhẹ.
4.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp
với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ
tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tín
dụng.
Khách hàng vừa là đại diện cho bên cung ứng vốn tín dụng, vừa là đại diện cho bên cầu
vốn tín dụng. Với tư cách là người cung ứng vốn tín dụng, họ mong muốn nhận được từ ngân
hàng một khoản lãi vay từ tiền gửi hay các dịch vụ thanh toán tiện lợi, do đó sự tín nhiệm của
ngân hàng đối với khách hàng sẽ tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động. Với tư cách
là người vay, họ mong muốn được đáp ứng đầy đủ vốn phù hợp với yêu cầu kinh doanh có thời
hạn vay và lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhanh chóng.
* Yếu tố con người
Nhân tố con người: bao gồm đạo đức của khách hàng, mục tiêu kinh doanh, nhiệm vụ,
động cơ của người vay...
Những thông tin sai trái về người vay là một dấu hiệu nguy hiểm ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả của người vay.
Một nhân tố khác không kém phần quan trọng là tính quyết tâm trong kinh doanh của
khách hàng. Một người vay có tính quyết tâm cao sẽ là một điều kiện giúp cho phương án kinh
doanh có thể thắng lợi từ đó có nguồn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ, chất lượng tín
dụng của ngân hàng sẽ được đảm bảo và uy tín của ngân hàng được nâng cao.
Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng cũng là một dấu hiệu cho khả năng đảm
bảo chất lượng tín dụng của ngân hàng. Một nhà quản trị kinh doanh tốt là một người quản lý
tốt đồng tiền vào ra của DN, kiểm soát được các chi phí, nhận biết các cơ hội kiếm lời và đưa ra
các quyết định kinh doanh chính xác, từ đó kiếm được lợi nhuận, có nguồn để trả nợ cho ngân
hàng.
* Uy tín và khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng
Ngân hàng sẽ chỉ đồng ý cho vay nếu khách hàng chứng tỏ được khả năng tài chính và
khả năng trả nợ của mình đối với ngân hàng. Ngân hàng không dám mạo hiểm cho vay đối với
khách hàng nào mà uy tín bị giảm sút, khả năng tài chính đang có vấn đề. Vì vậy tài sản đảm
bảo là một đòi hỏi của ngân hàng để đáp ứng cho nguồn trả nợ thứ hai bổ sung cho món vay.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Giá trị tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng được vay, vì ngân hàng căn cứ
vào giá trị tài sản đảm bảo để xác định số tiền cho vay tối đa chỉ được 70% giá trị tài sản đảm
bảo (nếu như không có quy định khác).
* Tính khả thi của dự án vay vốn
Khi dự án có khả thi thì các cán bộ sẽ dựa vào đó để quyết định cho vay, quy mô tín
dụng sẽ được mở rộng. Đây còn là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng món vay, ảnh hưởng tới
chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Mặt khác, nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay ngắn
hạn cho đầu tư sản xuất cố định hoặc kinh doanh bất động sản thì sẽ không thu hồi kịp vốn để
hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động tín dụng.
4.3. Những nhân tố khách quan
* Môi trường kinh tế
Để ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn mở rộng hoạt động tín dụng phục vụ cho
việc phát triển kinh tế thì cần có một nền kinh tế ổn định. Một nền kinh tế phát triển ổn định, sẽ
giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình, làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định,
tránh được tình trạng lạm phát hoặc giảm phát...
Ngân hàng sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn định, chu kỳ kinh tế có tác
động không nhỏ đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường bị
suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị thu hẹp thì nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn
tín dụng đã được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hay khó có thể trả nợ đúng
hạn cho ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh SXKD được mở rộng dẫn đến
nhu cầu về vốn tăng, từ đó chất lượng tín dụng được nâng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng. Như
vậy, chu kỳ kinh tế ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của các khoản vốn tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách và sự điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi ngành,
mỗi vùng đều có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Môi trường Xã hội - Chính trị
Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai
bên. Vì vậy sự tín nhiệm là cầu nối mỗi quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Uy tín của
ngân hàng trên thị trường ngày càng cao thì sẽ thu hút được lượng khách hàng ngày càng
đông. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không
kém phần quan trọng quyết định tới quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi ngân hàng, đặc
biệt là trong hoạt động tín dụng.
Nhân tố chính trị cũng có ảnh hưởng khá nhiều tới hoạt động tín dụng. Thật vậy, một
quốc gia không có sự biến động về chính trị hay không xảy ra chiến tranh là điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm đến lợi
nhuận mà còn chú trọng tới an toàn của vốn đầu tư. Tình hình kinh tế chính trị ổn định là điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đất nước. Riêng đối với ngân hàng, nó có ảnh hưởng
tới việc huy động, cho vay và đầu tư vốn của ngân hàng. Điều đó có ý nghĩa là nhân tố này ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Môi trường pháp lý
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất
lượng tín dụng nói riêng.
Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ một nền kinh tế nào. Không có pháp
luật hoặc các chính sách ban hành không phù hợp sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới
luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các ban ngành, các đơn
vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động SXKD của các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Nó còn là
cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Các DN cũng như ngân
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hàng phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được
đảm bảo. Môi trường pháp luật này luôn được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hơn để nó ngày
càng phù hợp hơn với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng.
* Các nhân tố khác:
Ngoài những nhân tố nêu trên, hiệu quả của công tác cho vay của ngân hàng còn chịu
ảnh hưởng nhiều của nhân tố chủ quan, khách quan khác như: Thái độ phục vụ khách hàng, đạo
đức xã hội, trang thiết bị phục vụ hoạt động hay những yếu tố môi trường như thời tiết, bệnh
dịch..., và các biện pháp trong bảo vệ môi trường sinh thái.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHNO & PTNT TÂY HÀ NỘI
I. KHÁI QUÁT VỀ NHNN&PTNT TÂY HÀ NỘI
1. Bối cảnh ra đời
Với mục tiêu phát triển bền vững, từng bước củng cố nâng cao vị thế và vai trò của
NHNo&PTNT Việt Nam đối với sự nghiệp hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước. Từ đầu
năm 2000, NHNo&PTNT Việt Nam có những bước chuyển biến rất rõ nét trong việc xác định
chiến lược kinh doanh, xác định thị trường, thị phần. Quá trình xây dựng và thực thi chiến lược
kinh doanh tại các đô thị loại I nhằm thu hút nguồn vốn, hiện đại hoá công nghệ, triển khai ứng
dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã cho thấy với định hướng đúng, giải pháp phù hợp,
NHNo&PTNT Việt Nam đã thu được những kết quả khả quan, tạo nên sức mạnh mới, vị thế
mới trong hoạt động ngân hàng trong nước và quốc tế. Trong khi đó, khu vực phía tây Hà nội là
nơi phát triển các khu công nghiệp, thu hút nhiều doanh nghiệp có tiềm năng lớn như: Tổng
công ty vật tư nông nghiệp, Tổng công ty cà phê, Công ty xây dựng số 3…Ngoài ra còn có các
doanh nghiệp làm kinh tế của Quân đội đang chiếm tỷ lệ đáng kể trên địa bàn. Nhìn chung các
nhà máy, xí nghiệp đang có xu hướng chuyển dần sang khu vực ven đô phía tây. Để đáp ứng
cho yêu cầu phát triển kinh tế của thủ đô nói chung và nhu cầu phát triển kinh doanh của các
thành phần kinh tế trên địa bàn nói riêng, đòi hỏi hoạt động của các Ngân hàng thương mại
phải đa dạng, phong phú cả về vốn và các dịch vụ tiên tiến của ngân hàng hiện đại. Trong bối
cảnh đó NHNo&PTNT Tây Hà Nội được thành lập và đưa vào hoạt động để khai thác tiềm
năng kinh tế tại chỗ, thực hiện chức năng trung gian tín dụng, cung cấp các dịch vụ tiên tiến
hiện đại cho các thành phần kinh tế xã hội trong khu vực nói riêng và Hà nội nói chung.
Ngày 05/06/2003 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội được
thành lập theo quyết định số: 126/QĐ- HĐQT-TCCB của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động ngày
21/07/2003.
NHNo&PTNT Tây Hà Nội là chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHNo&PTNT
Việt Nam - một ngân hàng thương mại hàng đầu có vốn điều lệ lớn nhất, hệ
thống mạng lưới rộng khắp Việt Nam.
*Địa chỉ liên hệ:
Trụ sở chính: 115 Nguyễn Lương Bằng, Phường Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội.
ĐT: 04.5332243; FAX: 04-5332242
2. Chức năng và nhiệm vụ
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Theo Pháp lệnh Ngân hàng và điêù lệ hoạt động của NHNo&PTNT Tây Hà
Nội, NHNo&PTNT Tây Hà Nội có những chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau:
1- Huy động vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với nhiều hình thức: mở tài
khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, kì phiếu, trái phiếu…
2- Đầu tư vốn tín dụng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các thành phần
kinh tế.
3- Làm đại lý và dịch vụ uỷ thác cho các tổ chức Tài chính, Tín dụng và cá
nhân trong và ngoài nước như tiếp nhận và triển khai các dự án, dịch vụ giải
ngân cho các dự án, thanh toán thẻ Tín dụng, séc du lịch…
4- Thực hiện thanh toán bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ như: chuyển tiền điện
tử trong nước, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT…
5- Chi trả kiều hối, mua bán ngoại tệ, chiết khấu, cho vay cầm cố các chứng từ
có giá.
6- Bảo lãnh bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ dưới nhiều hình thức khác nhau
trong và ngoài nước.
7- Thực hiện các dịch vụ khác.
3. Cơ cấu tổ chức
NHNo&PTNT Tây Hà Nội được tổ chức bao gồm 8 phòng, ban- với các
chức năng và nhiệm vụ cụ thể phục vụ
3.1. Ban lãnh đạo ngân hàng
3.2. Phòng Hành chính- Nhân sự
3.3. Phòng kế toán ngân quỹ
3.4. Phòng thẩm định
3.5. Phòng Thanh toán quốc tế
3.6. Tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
3.7. Phòng Nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp
3.8. Phòng Tín Dụng
4. Mô hình tổ chức màng lưới
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ việc xây dựng hướng đi, mặc dù hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
nhưng Ngân hàng đang có xu hướng phát triển lấy các Doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh vừa và nhỏ, các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm đối tượng phục
vụ nhất là lấy khách hàng là mục tiêu phục vụ chủ yếu.
Mỗi thành công mà Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Tây Hà Nội đạt
được cần phải kể đến vai trò của bộ máy quản lý Ngân hàng trong việc bố trí
người lao động để phát huy tối đa năng lực của từng người. Muốn hiểu rõ hơn
nữa ta sẽ tìm hiểu về cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Tây Hà Nội:
Khi mới thành lập, Chi nhánh chỉ có 39 cán bộ và 04 phòng nghiệp vụ,
ban giám đốc. Cho đến nay Chi nhánh đã có 95 cán bộ trong biên chế với 84
cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chi nhánh, có 03 chi nhánh cấp II
tương ứng.
- Chi nhánh Nhân Chính
- Chi nhánh Hùng Vương ( Linh Đàm )
- Chi nhánh Trường Chinh
Và 05 phòng giao dịch:
- Phòng giao dịch Bùi Thị Xuân
- Phòng giao dịch Hàng Trống
- Phòng giao dịch Hàng Lược
- Phòng giao dịch Hoàng Văn Thái
- Phòng giao dịch Nguyễn Du
Cho đến nay các phòng giao dịch và Chi nhánh hoạt động kinh doanh
bước đầu đã có hiệu quả. Đồng thời các phòng đều có qui định chức năng nhiệm
vụ, qui chế hoạt động rõ ràng, bổ nhiệm các chức danh điều hành gồm các
trưởng phòng, phó phòng phù hợp với trình độ nghiệp vụ khả năng đáp ứng
công việc của từng người tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành công việc
chung.
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
1.1. Thuận lợi.
- Nền kinh tế thủ đô tiếp tục phát triển và ổn định, các thành phần kinh tế
trên địa bàn thủ đô đang tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường… Một số
chính sách của Nhà nước và của Thành phố đã thông thoáng hơn có tác dụng
tích cực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho
ngân hàng hoạt động.
- Trong lĩnh vực ngân hàng: Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có nhiều
chủ trương, chính sách mới theo hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các ngân hàng thương mại.
- Có sự quan tâm chỉ đạo của Tổng Giám đốc và Ban nghiệp vụ NHNo&PTNT
Việt Nam.
- Sự đoàn kết nhất trí trong Chi bộ và Ban Giám đốc NHNo&PTNT Tây Hà
Nội cùng với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể cán bộ CNV toàn chi nhánh.
1.2. Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi trên, chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội
cũng gặp không ít những khó khăn, đó là:
- Về môi trường kinh doanh: Trên địa bàn có nhiều chi nhánh NHTM
hoạt động, cạnh tranh gay gắt, khách hàng có uy tín đều có quan hệ chặt chẽ với
một tổ chức tín dụng nào đó. Do đó, chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong
việc tìm kiếm và tiếp cận khách hàng.
- Do sự biến động về giá cả các mặt hàng tiêu dùng và các mặt hàng thiết
yếu khác đã làm cho người dân không tin tưởng vào sự ổn định của đồng tiền,
do vậy ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn của chi nhánh.
- Là chi nhánh mới thành lập nên cơ cấu nguồn chưa hợp lý, vốn dài hạn
chiếm tỷ trọng thấp, lãi suất đầu vào còn cao, không ổn định. Đây là một khó
khăn lớn nhất của chi nhánh.
2. Tình hình hoạt động kinh doanh
Lê Quốc Ninh - Lớp: Tài chính công 44
25