Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 97 trang )

Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Chương I:
Tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
I. lý luận chung về tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai
chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử
dụng trong thời gian nhất định, đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn
trả theo thời gian đã thoả thuận.
1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại theo những tiêu
thức khác nhau.
1.2.1. Theo thời hạn sử dụng:
Cho vay có kỳ hạn là khoản vay mà thời hạn hoàn trả và thời điểm hoàn
trả được xác định một cách cụ thể ngay từ khi ký hợp đồng tín dụng. Có ba loại:
 Cho vay ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn không quá một năm, dùng để
bổ sung cho phần vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp hay phục vụ tiêu dùng đối với nhu cầu cá nhân.
 Cho vay trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 12 đến 60 tháng.
 Cho vay dài hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 5 năm đến thời hạn được
phép tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp đi vay.
SV: Thái Phương Linh 1 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Cho vay không kỳ hạn là khoản cho vay không quy định thời điểm hoàn
trả cụ thể khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là những điều kiện cụ thể về trả
nợ của người vay và việc thu hồi tiền cho vay của NH. Điều kiện ở đây là người
đi vay sẽ hoàn trả khi không có nhu cầu sử dụng hay khi có nguồn khác bù đắp.
Còn Ngân hàng phải báo trước để người vay tìm nguồn khác trả nợ cho ngân
hàng. Loại hình cho vay này sẽ góp phần tạo điều kiện chủ động cho khách
hàng trong việc sử dụng tiền vay, giảm chi phí còn đối với Ngân hàng sẽ có kế


hoạch điều chỉnh khả năng cho vay, đồng thời tiết kiệm chi phí trong quá trình
xét duyệt.
1.2.2. Theo phương thức bảo đảm
 Cho vay có bảo đảm là các khoản vay mà Ngân hàng sẽ nắm giữ các tài sản
thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay, thuộc tài sản sở hữu người bảo lãnh với
mục đích xử lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay khi người vay vi phạm
HĐTD. Các loại tài sản nói trên thường là bất động sản và động sản, ngoài ra
còn phụ thuộc vào quy định của cho vay.
 Cho vay không có bảo đảm (tín chấp). Ngân hàng không nắm giữ một loại
tài sản nào của người vay để thanh lý tài sản nhằm thu hồi khoản vay, mà thay
vào đó những điều kiện khắt khe:
- Khách hàng không được thiết lập mối quan hệ với bất kỳ một Ngân hàng
khác nhằm giúp Ngân hàng quản lý được mọi biến động trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- NH đã hoặc đang góp một phần vốn với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
SV: Thái Phương Linh 2 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
- Phương án kinh doanh của DN được NH đánh giá có tính khả thi cao, khả
năng đem lại lợi nhuận cao.
1.2.3. Theo ngành kinh tế
Tín dụng được phân cấp thành tín dụng cấp cho ngành công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp dịch vụ.. ..Vì hướng cho vay khác nhau nên điều kiện và
phương thức cho vay rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành mà có
quy định riêng.
1.2.4. Theo thành phần kinh tế
Tín dụng phân cấp cho thành phần kinh tế quốc doanh
Tín dụng phân cấp cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
1.2.5. Theo phương thức trả góp:
 Cho vay trả góp cho tiêu dùng.

 Cho vay hoàn trả một lần khi đến hạn thường áp dụng đối với những khoản
cho vay nhỏ hay ngắn hạn.
 Cho vay từng món được phát sinh khi doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa
thu được tiền không có giấy tờ để chiết khấu hay thấu chi, khi mở rộng chu kỳ
kinh doanh có tính chất nhất thời không vĩnh viễn, có thể xác định được lượng
tiền cần vay và thời hạn sử dụng.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay mà khách hàng và
Ngân hàng thoả thuận xác định lượng tín dụng tối đa theo đó trong một khoảng
thời gian nhất định thì khách hàng có thể toàn quyền được vay trong điều kiện
tổng dư nợ tại thời điểm đó không vượt quá số quy định.
SV: Thái Phương Linh 3 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
 Cho vay hợp vốn là hình thức nhiều tổ chức tín dụng khác nhau đồng tài
trợ cho một đối tượng đi vay. Có ưu điểm là san sẻ rủi ro, song nhược điểm là
lơi lỏng trong việc kiểm soát tiền vay của khách hàng.
1.2.6. Theo nguồn gốc hình thành các khoản cho vay.
 Cho vay trực tiếp là những cơ sở hình thành trực tiếp giữa Ngân hàng và
nguời vay diễn ra ở Ngân hàng hoặc doanh nghiệp. Hiện nay, phần lớn các
khoản cho vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp.
 Cho vay gián tiếp được thực hiện thông qua mua lại những khoản cho vay
của Ngân hàng khác hoặc thông qua mua lại những khoản cho vay của Ngân
hàng khác hoặc thông qua trái phiếu của công ty, chính phủ.
1.2.7. Theo kỹ thuật cung cấp tín dụng được phân thành:
 Bảo lãnh là hình thức Ngân hàng dùng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh
cho người mua trước người bán. Hình thức bảo lãnh rất đa dạng và phong phú
như bảo lãnh ký quỹ dự thầu, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
đối ứng…
 Tín dụng thuê mua là hình thức mà người thuê sau một thời gian sử dụng
tài sản thuê có thể mua lại tài sản đó với mức giá thoả thuận.
 Tín dụng chiết khấu là nghiệp vụ mà theo đó Ngân hàng cấp cho khách

hàng một số tiền bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu trừ đi một khoản lệ phí
chiết khấu. Khi chứng từ chiết khấu đến hạn Ngân hàng nhận lại toàn bộ số tiền
bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu, chứng từ chiết khấu có thể là kỳ phiếu
thương mại, hối phiếu đã được chấp nhận.
II. Tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
SV: Thái Phương Linh 4 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
1.1. Tín dụng trung – dài hạn
1.1.1 Khái niệm
 Tín dụng Ngân hàng (cho vay) trung- dài hạn là các khoản cho vay của
Ngân hàng có thời hạn trên một năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao
cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay.
 Tín dụng trung – dài hạn còn góp phần đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá
trình sản xuất được liên tục, đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế phát triển cao như hiện nay, thừa thiếu vốn tạm thời
thường xuyên xảy ra tại các doanh nghiệp. Việc phân phối tín dụng trung – dài
hạn đã góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện cho quá trình sản
xuất được diễn ra liên tục, ngoài ra nó còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư
đồng thời là phương tiện đáp ứng vốn cho nhu cầu phát triển.
 Tín dụng trung – dài hạn còn thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất: Hoạt động của Ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử
dụng hiện đang nằm phân tán trong nền kinh tế, trên cơ sở đó cho doanh nghiệp
vay. Tuy nhiên quá trình đầu tư không phải rải đều cho mọi chủ thể mà được
thực hiện một cách tập trung cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy
đây là cách thức buộc các doanh nghiệp phải cố gắng hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách hiệu quả để được Ngân hàng xem xét cho vay vốn.
 Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn: Tín
dụng trung dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của doanh
nghiệp làm kích thích sản xuất phát triển. Khi đó các doanh nghiệp cần nhiều
vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều đó tạo ra thị trường sử

dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao nhu cầu vốn lưu động
SV: Thái Phương Linh 5 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát
triển.
 Tín dụng trung dài hạn góp phần thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá: Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn,
Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng với sự phát triển của ngành này, cũng có thể
hạn chế đối với một số ngành kinh tế khác. Công nghiệp hoá không chỉ đơn
giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà
là cả quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Nhờ có vốn đầu tư tín dụng trung dài hạn mà các doanh nghiệp có thể
nhập khẩu máy móc trang thiết bị công nghệ. Đối với những nước đang phát
triển như Việt Nam thì việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu là một điều tốt,
đây là con đường ngắn nhất để chúng ta đuổi kịp các nước về mặt công nghệ.
Ngoài ra nhờ việc nhập máy móc thiết bị, năng lực sản xuất của doanh nghiệp
được tăng lên, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, mẫu mã đẹp đáp ứng
yêu cầu của thị trường nước ngoài, để có thể tăng khả năng cạnh tranh và xuất
khẩu.
 Tín dụng trung – dài hạn góp phần tiết kiệm được lượng tiền mặt trong lưu
thông, tạo điều kiện cho việc quản lý và điều hoà lưu thông tiền tệ, góp phần
kiểm soát các hoạt động trong nền kinh tế, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng sử
dụng vốn trong hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện
tốt chế độ hạch toán kinh doanh.
 Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách.
Tín dụng trung dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế theo chiều sâu, do đó khi
SV: Thái Phương Linh 6 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính

sản xuất phát triển sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá để tiêu thụ trong nước
cũng như xuất khẩu, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, do đó
trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ với khối lượng lớn, ổn
định sẽ tạo ra nguồn thu cho ngân sách từ thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế sử
dụng tài nguyên. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nhà nước còn
có khoản thu từ thuế thu nhập. Trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được
xuất khẩu sang các nước thì chúng ta sẽ thu được ngoại tệ đảm bảo duy trì cho
nhu cầu nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
 Tín dụng trung – dài hạn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát
triển và ngành kinh tế mũi nhọn: Thông qua hệ thống Ngân hàng, Nhà nước sẽ
tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi
suất thấp, thời gian dài, mức hồi vốn lớn. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tập trung
vốn để tài trợ cho các ngành mũi nhọn, các ngành này phát triển sẽ tạo cơ sở và
lôi cuốn thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo.
 Tín dụng trung – dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với
nước ngoài: Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế một nước luôn gắn liền
với kinh tế thế giới, kinh tế “đóng” nhường bước cho kinh tế “mở” vì vậy tín
dụng trung – dài hạn đã trở thành một phương tiện nối liền các nền kinh tế với
nhau.
 Trong thời gian qua tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng đã có những
đổi mới tích cực, cơ chế lãi suất tín dụng đã bắt đầu chuyển sang cơ chế thị
trường, từ lãi suất thực âm trước đây sang lãi suất thực dương và đang thực hiện
tự do hoá lãi suất, xoá bỏ được sự phân biệt đối với các hình thức sở hữu. Quá
trình đổi mới đó đã chuyển hoạt động của các Ngân hàng thương mại sang chế
độ hạch toán kinh doanh, góp phần quan trọng để kiềm chế và đẩy lùi làm phát,
SV: Thái Phương Linh 7 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
thúc đẩy các doanh nghiệp củng cố lại chế độ hạch toán kinh doanh, sử dụng
vốn có hiệu quả khai thác tối đa tiềm năng về vốn trong nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, bên cạnh các nguồn vốn vật tư,

kỹ thuật, đất đai, lao động, tri thức khoa học, tín dụng trung – dài hạn là một
kênh vốn quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH –
HĐH. Trước hết đó là công cụ đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế
hàng hoá, hình thành góp phần giữ ổn định nền kinh tế thị trường.
1.2. Tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(DNNQD)
1.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1.1. Khái niệm:
Xét về hình thức sở hữu thì doanh nghiệp nước ta chia thành 2 loại:
Doanh nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu của Nhà nước, còn doanh nghiệp ngoài
quốc doanh mang hình thức sở hữu phi nhà nước. Trước năm 1986 kinh tế
ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể
về tư liệu sản xuất. Từ sau năm 1986 nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích mở rộng các doanh
nghiệp có tính chất tư hữu bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác xã.
1.2.1.2. Phân loại:
- Doanh nghiệp tư nhân:
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
SV: Thái Phương Linh 8 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
- Công ty hợp danh
- Hợp tác xã
1.2.1.3.Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất đa dạng và phong phú
với nhiều ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ là một Ngân hàng,
chúng ta nhìn nhận đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này trên một số giác
độ sau:
• Hình thức sở hữu:

Hình thức sở hữu của các DNNQD là sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp.
Song chủ yếu là sở hữu hỗn hợp với các loại hình chủ yếu sau: Công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu
chủ, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó, tư cách
pháp lý của loại hình doanh nghiệp này là:
Đối với các doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp FDI chịu trách nhiệm trên phần vốn góp vào
công ty, tức là chịu trách nhiệm hữu hạn.
Đối với các doanh nghiệp: Công ty tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ, công
ty hợp danh thì phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của công ty
bằng toàn bộ tài sản của mình, tức là chịu trách nhiệm vô hạn.
• Ngành nghề kinh doanh:
Các DNNQD phần lớn tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm
kinh tế xã hội. Phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự phát,
SV: Thái Phương Linh 9 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
không có sự chỉ định của chính quyền. Đa số họ hoạt động trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ, khách sạn; lĩnh vực công nghiệp thường chiếm tỷ trọng
nhỏ hơn; lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác và phân phối điện, tài chính
Ngân hàng … chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Sở dĩ có sự mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp này
đối với nền kinh tế là họ thượng ưa thích đầu tư vào nhứng ngành nghề có khả
năng quay vòng vốn nhanh, vốn đầu tư ít như thương mại, dịch vụ… Bởi vì như
thế là phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của họ. Các lĩnh vực
khác như xây dựng, tài chính, Ngân hàng … yêu cầu về vốn và trình độ quản lý
rất cao, trong khi đó, việc quay vòng vốn lại lâu gây khó khăn cho họ, chỉ
những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về kinh tế thì mới có đủ điều kiện đầu tư.
• Môi trường kinh doanh
Trước hết là về thông tin thị trường. Đây là khối kinh tế năng động, phản
ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường, nhưng đối với những nước đang

phát triển còn thiếu nhiều yếu tố của một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh.
Chính vì vậy, họ thường gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nắm bắt thông tin thị
trường về giá cả, sản phẩm đối thủ cạnh tranh … Đây là những khó khăn chung
mà doanh nghiệp phải gánh chịu trong nền kinh tế chưa hoàn chỉnh. Những
thông tin như vậy chỉ có thể có một cách đầy đủ tại nhứng nước phát triển
• Vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là một vấn đề đang được các DNNQD rất quan tâm. Trước hết là
vốn chủ sở hữu. Phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ
hẹp. Nguồn vốn này lại được tập trung chủ yếu vào đầu tư cơ sở hạ tầng và
SV: Thái Phương Linh 10 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
trang thiết bị, bao gồm cả mặt bằng kinh doanh. Từ đó, khả năng thanh toán
ngắn hạn của vốn chủ sở hữu còn nhiều hạn chế.
Nguồn vốn này có khả năng tăng lên trong quá trình kinh doanh từ việc
trích một phần lợi nhuận hoặc huy động thông qua phát hành cổ phiếu. Song
việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu từ việc trích lợi nhuận để lại phải mất một
thời gian tương đối dài mới hình thành lượng vốn lớn. Với vốn sở hữu nhỏ như
vậy, sẽ gây nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh vì ít có khả năng cạnh
tranh.
Ngoài vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn
khác nhau. Đối với huy động thông qua vay mượn bạn bè, người thân hoặc
thông qua tín dụng thương mại, đây là những khoản vay hoặc là nhỏ hoặc là
ngắn hạn không đủ đáp ứng về quy mô, thời gian và các mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp. Nguồn vốn Ngân hàng được coi là nguồn vốn chủ yếu của các
doanh nghiệp. Nhưng do quy mô vốn chủ sở hữu thường nhỏ, các DNNQD khó
tiếp cận được với nguồn vốn lớn của các NHTM và các tổ chức tài chính khác
bởi các tổ chức này thường có quy định về tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhất định trong
các dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy đang tồn tại sự bất
bình đẳng giữa các DNNN và DNNQD trong việc tiếp cận nguốn vốn tín dụng
Ngân hàng. Đây chính là nhân tố dẫn đến họ thường bị thiệt thòi khi trực tiếp

phải cạnh tranh với các DNNN.
Nhiều doanh nghiệp thành lập cũng có nghĩa là số vốn doanh nghiệp cần
để đầu tư sản xuất, do đó nhu cầu tín dụng của những doanh nghiệp này cũng
tăng lên, tuy nhiên do một số hạn chế của mình khiến nhiều Ngân hàng vẫn còn
e ngại trong việc cho những doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay. Những hạn
chế và ưu điểm gồm những điểm như sau:
SV: Thái Phương Linh 11 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
1.2.2. ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
1.2.2.1. Ưu thế:
 Có khả năng hướng tới lợi nhuận cao nhất: Đây là điều dễ nhận thấy do các
DNNQD có tính tư hữu cao. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp luôn gắn với
lợi ích của người lao động và quyền lợi của chủ sở hữu. mặt khác, họ phải trực
tiếp cạnh tranh với DNNN vốn có thế mạnh do được Nhà nước bảo trợ. Chính
vì vậy, họ luôn phải tập trung, tìm cách tận dụng tối đa những thế mạnh, nhất là
yếu tố nguồn lực để đẩy mạnh sản xuất nhằm đạt ưu thế nhất định về thương
hiệu như tài chính.
 Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNQD cao: Do các doanh nghiệp này
thường đầu tư vào những ngành nghề có vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn
nhanh, có lợi nhuận tương đối cao như ngành thương mại du lịch … có vốn đầu
tư ban đầu là rất ít. Cũng chính vì quy mô nhỏ nên cũng có thể coi đây là một
lợi thế vì nó dễ dang thay đổi chiến lược kinh doanh thích ứng với sự thay đổi
của thị trường, cơ chế chính sách của Nhà nước.
 DNNQD có khả năng tận dụng triệt để lợi thế để kinh doanh: Xuất phát từ
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các thành phần này lại không được sự hỗ trợ về
tài chính của Nhà nước hoặc tổ chức khác. Nguồn lao động là nguồn được khai
thác triệt để nhất vì đây là nguồn lực dồi dào, họ lại áp dụng cách thức quản lý
rất chặt chẽ theo khu vực, địa phương, gia đình. Nguồn khoa học công nghệ
cũng được tận rất cao. Dù rằng trình độ khoa học công nghệ không được đánh
giá cao như DNNN, song họ biết tận dụng một cách tối đa khả năng của các loại

thiết bị máy móc hiện có để phát triển sản xuất.
SV: Thái Phương Linh 12 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
 Các DNNQD thường có bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh gọn nhẹ: Xuất
phát từ ngành nghề kinh doanh thường là những ngành đơn giản, dễ quản lý, có
chu kỳ kinh doanh ngắn. Mặt khác, nguồn vốn kinh doanh bắt đầu thường thất
điều đó dẫn tới bộ máy quản lý gọn nhẹ. Vì vậy, các quyết định về quản lý hoặc
kinh doanh được thực hiện nhanh chóng. Công tác kiểm tra được thực hiện trực
tiếp đã góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí quản lý doanh nghiệp.
 Các DNNQD có tính linh động cao, có khả năng chuyển hướng kinh doanh
nhanh chóng, dễ dàng. Đó là vì họ có cơ cấu vốn thấp và thường chủ yếu là vốn
tự có, lại kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Họ có thể
dễ dàng chuyển hướng kinh doanh sang mặt hàng khác khi thấy cần thiết và có
lợi. Ngoài ra, các DNNQD cũng có thể dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu được
những tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới giúp họ có thể tiến nhanh trong quá trình
phát triển, đón đầu những công nghệ mới.
1.2.2.2. Hạn chế:
Tuy có nhiều ưu thế như đã trình bày ở trên. Song các DNNQD cũng còn
nhiều hạn chế khó tránh khỏi sau:
 Về quy mô vốn đầu tư thường là nhỏ, tuy đây cũng là một ưu thế song đây
cũng là một hạn chế lớn cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, việc tìm nguồn tài trợ của các doanh nghiệp này thường là khó khăn hơn
so với các DNNN bởi uy tín của họ dường như chưa có gì. hơn nữa do vốn bé
trong khi dự án đầu tư lại yêu cầu vốn phải đủ lớn nên không đáp ứng được yêu
cầu về tỷ lệ tài trợ vốn tối thiểu của Ngân hàng khi vay. Tiếp cận được nguồn
vốn Ngân hàng đã khó. để có được nguồn vốn đủ cho phương án sản xuất kinh
doanh thì lại càng khó hơn. Đây cũng chính là vấn đề nan giải nhất hiện nay mà
hầu hết các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính hết sức quan tâm.
SV: Thái Phương Linh 13 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính

 Một hạn chế dễ nhận thấy là thiết bị công nghệ cho sản xuất kinh doanh
của một bộ phận doanh nghiệp còn yếu và lạc hậu. Xuất phát từ nguyên nhân là
vốn kinh doanh ít, lại tập trung chủ yếu vào những ngành nghề đòi hỏi ít vốn,
khả năng thu hồi vốn nhanh, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Do đó, nhiều
doanh nghiệp đã cố gắng tận dụng những thiết bị máy móc cũ để sản xuất nhằm
giảm chi phí đầu tư vào công nghệ mới đắt tiền.
 Có nhiều doanh nghiệp có chất lượng lao động còn thấp, trình độ tay nghề
của các lao động chưa cao, đặc biệt là trình độ quản lý nói chung còn hạn chế
do ít được đào tạo căn bản. Vì thế, nó chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
nền kinh tế. Điều này cũng lý giải vì sao một số doanh nghiệp trong thị trường
khi làm ăn nhỏ thì có hiểu quả và rất phát đạt, nhưng khi chuyển sang kinh
doanh lớn, mở rộng sản xuất thì lại thua lỗ, thậm chí dẫn đến hậu quả phá sản.
Bởi khi đã chuyển sang làm ăn lớn thì đòi hỏi về trình độ quản lý rất cao và chặt
chẽ, không thể áp dụng như cũ, trình độ quản lý phải tương đương với trình độ
phát triển của doanh nghiệp thì mới tồn tại được.
 Từ hàng loạt những hạn chế trên dẫn đến một hạn chế tất yếu nữa là khả
năng cạnh tranh của nhiểu DNNQD thấp, bị nhiều hạn chế, thường bị động
trong các quan hệ thị trường. Đặc biệt là khi phải trực tiếp cạnh tranh với các
DNNN có vốn lớn, trình độ quản lý tương đối hiện đại. Mặt khác, khả năng tiếp
thị của doanh nghiệp này lại yếu do trình độ chưa đạt yêu cầu và thiếu kinh phí
đầu tư, nguy cơ phá sản cao.
 Hiện tượng các DNNQD vi phạm pháp luật như trốn thuế, lậu thuế, lừa đảo
… còn diễn ra phổ biến. Bởi đây là các doanh nghiệp này thành lập chủ yếu là
tự phát và thiếu sự điểu chỉnh của các cấp quản lý. Ngoài ra, đa số các doanh
SV: Thái Phương Linh 14 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
nghiệp còn chưa được thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về an toàn
lao động và đóng bảo hiểm cho người lao động.
Qua phân tích trên, ta có thể nhìn một cách tổng thể về bức tranh của các
DNNQD. Nó còn rất nhiều ưu điểm, song cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là các

hạn chế của bản thân doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp này lại đang
phải hoạt động kinh doanh trong một môi truờng kinh tế bất bình đẳng trên cả
giác độ chính sách, pháp luật của Nhà nước và quan niệm cũng như cách đối xử
của các thành phần kinh tế khác. Vậy thì khó khăn đó có thể giải quyết được
hay không còn xem xét từ nhiều phía. Song sự cần thiết đầu tiên là phải có sự
hỗ trợ của Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách về thuế, công nghệ và đặc
biệt là vốn. Có thể thấy, với những đặc điểm và hạn chế như đã phân tích trên,
việc tự thu hút các nguồn vốn bên ngoài của các doanh nghiệp này là rất khó
khăn. Việc tự thu hút các nguồn vốn bên ngoài thông qua phát hành cổ phiếu
hay trái phiếu này lại càng khó, trừ những doanh nghiệp cổ phần mà có nguồn
gốc từ các DNNN, vì cần phải đáp ứng các điều kiện gắt gao về quy mô vốn,
trình độ quản lý … Do đó, nguồn vốn chính mà các DNNQD luôn mong đợi là
nguồn vốn vay từ Ngân hàng thương mại.
1.2.3. Lý do hình thành và phát triển hoạt động tín dụng trung – dài hạn đối
với doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Hoạt động cho vay của NHTM và DNNQD được hình thành từ 2 phía:
Doanh nghiệp và Ngân hàng. Chính vì thế, lý do hình thành và phát triển hoạt
động này là từ 2 phía: từ nhu cầu của Ngân hàng và nhu cầu của doanh nghiệp.
• Xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp
SV: Thái Phương Linh 15 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, vốn là yếu tố không thể thiếu được
trong quá trình thành lập cũng như tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp cần có một số vốn nhất định để mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu,
thuê lao động. Khi tiến hành sản xuất, doanh nghiệp cần vốn để duy trì hoạt
động sản xuất kinh doanh một cách liên tục.
Tuy nhiên nhu cầu vốn của doanh nghiệp thay đổi trong các thời kỳ khác
nhau. Những thay đổi của môi trường kinh doanh cũng như chính sách tài
chính, chu kỳ kinh tế, thay đổi thời vụ … cũng ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu
vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa trong điều kiện kinh tế ngày nay, trước những

thách thức của thị trường, doanh nghiệp cần có những bước táo bạo trong kinh
doanh, do đó nhu cầu vốn đầu tư rất lớn.
Thực tế cho thấy, để huy động vốn, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều
hình thức khác nhau như: tín dụng thương mại, huy động vốn từ dân cư (qua
con đường phát hành chứng khoán), hay từ các trung gian tài chính mà điển
hình là Ngân hàng thương mại. Ngày nay, ở nước ta con đường tín dụng Ngân
hàng là sự lựa chọn của khá nhiều doanh nghiệp vì con đường này linh hoạt và
nhiều trường hợp vay vốn tại Ngân hàng là sự lựa chọn tốt nhất của doanh
nghiệp.
Trong xu thế mở rộng và phát triển DNNQD, số lượng các doanh nghiệp
vừa và nhỏ không ngừng tăng lên, Nhà nước khuyến khích kinh tế ngoài quốc
doanh phát triển và tạo điều kiện cho các DNNQD có môi trương kinh doanh
bình đẳng với DNNN. Hơn nữa chủ trương cổ phần hoá DNNN, chuyển một bộ
phận các DNNN sang DNNQD. Chính vì thế nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất
của doanh nghiệp này không ngừng tăng lên, tạo điều kiện để phát triển hoạt
động cho vay của Ngân hàng đối với doanh nghiệp này.
SV: Thái Phương Linh 16 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
• Xuất phát từ nhu cầu của Ngân hàng
Mở rộng hoạt động kinh doanh là yêu cầu tất yếu của bất cứ Ngân hàng
nao để đáp ứng nhu cầu thay đổi của môi trường kinh doanh. Trong môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt, các Ngân hàng không ngừng mở rộng các khoản
vay về đối tượng khách hàng và loại hình cho vay. Trong đó, DNNQD chính là
đối tượng khách hàng quan trọng cần phải chú ý đến.
Hơn nữa bản chất của Ngân hàng là nhận tiền gửi để cho vay. Ngân hàng
sau khi huy động vốn cần thực hiện hoạt động cho vay để tạo thu nhập, bù đắp
chi phí trả lãi và chi phí khác phát sinh trong quá trình huy động vốn. Do đó,
cho vay đối với DNNQD để thực hiện mục tiêu sinh lợi của Ngân hàng.
Tóm lại, việc hình thành và phát triển các khoản vay của NHTM đối với
nhu cầu của cả hai bên, Ngân hàng cần đặt ra các điều kiện nhất định đối với

đối tượng này trên nguyên tắc cả hai bên cùng có lợi.
1.2.4. Các hình thức tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh:
Tín dụng trung dài hạn là một trong nhứng nghiệp vụ của các NHTM.
Thực chất tín dụng trung dài hạn là khoản vốn đầu tư mà đối tượng chủ yếu là
những chi phí cho việc xây dựng mới, đầu tư vào tài sản ccó định. Nghiệp vụ
tín dụng trung dài hạn của NHTM trong những năm gần đây được triển khai
theo các hình thức sau:
1.2.4.1. Cho vay trực tiếp theo dự án:
Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở dự án sau khi thẩm định
khẳng định tính hiệu quả, khả thi của dự án. Khi khách hàng có nhu cầu vay,
SV: Thái Phương Linh 17 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
khách hàng được hướng dẫn để lập hồ sơ vay thông qua những yêu cầu về tình
hình tài chính của đơn vị, ngành nghề kinh doanh … thông qua đó Ngân hàng
sẽ thẩm định, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, đánh giá khả năng sử
dụng vốn vay có hiệu quả hay không để từ đó quyết định cấp hay không cấp tín
dụng cho doanh nghiệp.
1.2.4.2. Cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính thực chất là hoạt động tín dụng trung dài hạn thông
qua việc thuê máy móc thiết bị và các động sản khác để sử dụng theo hợp đồng.
ở Việt nam mới được công nhận từ năm 1995, bằng thể lệ tín dụng thuê mua
được ban hành kèm theo quyết định số 149/ QĐ - NH5 ngày 27/ 05/ 1995 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Đến ngày 29 tháng 10 năm 1996 công ty thuê
mua tài chính quốc tế Việt nam (VILC) ra đời. Đây là công ty liên doanh đầu
tiên ở Việt nam bao gồm các thành viên: Ngân hàng Công thương Việt nam,
công ty Tài chính quốc tế, Ngân hàng tín dụng Nhật bản, Ngân hàng Ngoại
thương Pháp, công ty cho thuê Chi nhánh Hàn Quốc. Đến cuối năm 1996 VILC
chính thức đi vào hoạt động. Hiện nay bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước ta
là Ngân hàng Công thương Việt nam, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam,

Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn Việt nam đều có công ty cho thuê tài chính. Điều đó đã tạo một kênh dẫn
vốn trung – dài hạn cho nền kinh tế, giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ,
nâng cao năng lực sản xuất và góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
1.2.5. Đặc điểm tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh:
SV: Thái Phương Linh 18 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Về thời hạn tín dụng: tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh có thời hạn tương đối dài, từ một năm trở lên, được xác định căn cứ
vào yêu cầu của dự án, khả năng trả nợ của người vay và tính chất nguồn vốn
của Ngân hàng. Thời hạn vay tính từ khi bên đi vay nhận được khoản vốn đầu
tiên cho đến khi họ hoàn trả khoản nợ cuối cùng. Thông thường Ngân hàng căn
cứ vào thời gian khấu hao để xác định thời hạn cho vay, thời hạn cho vay ngắn
hoặc dài hơn thời gian khấu hao đều ảnh hưởng tới quá trình trả nợ của khách
hàng, vì nguồn vốn khấu hao là một trong những nguồn chủ yếu để trả nợ cho
Ngân hàng.
Về mục đích sử dụng vốn: Khác với tín dụng ngắn hạn là loại hình tín
dụng được sử dụng chủ yếu bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp. Tín dụng
trung – dài hạn của doanh nghiệp nói chung và DNNQD nói riêng có mục đích
đầu tư vào các dự án có thời gian tương đối dài như các dự án xây dựng nhà
xưởng, cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới kỹ thuật và
ứng dụng khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai của
đơn vị. Với mục đích này, đối tượng cho vay của tín dụng trung – dài hạn cho
doanh nghiệp nói chung và đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng là
chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án bao gồm giá trị vật tư, máy
móc thiết bị, công nghệ, chi phí nhân công, giá thuế và chuyển nhượng đất đai,
chi phí mua bảo hiểm, giá thuê mua các tài sản và chi phí khác. Mức cho vay
của một dự án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu tư trừ đi vốn tự có đầu tư cho dự

án của bên đi vay, nhưng mức tối đa chỉ bằng 70% giá trì tài sản thế chấp, cầm
cố.
Về mức độ rủi ro và tài sản đảm bảo: nguồn vốn cho vay lớn, thời hạn
cho vay dài, nên cho vay trung dài hạn thường tiểm ẩn rủi ro cao, nhất là khi
cấp tín dụng trung – dài hạn cho DNNQD, với đặc điểm của DNNQD như đã
SV: Thái Phương Linh 19 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
trình bày ở trên nên nhiều Ngân hàng rất lo ngại khi cho DNNQD vay mà
không có tài sản đảm bảo. Hơn thế nữa do nhiều yếu tố tác động đến trong
khoảng thời gian đó nên tình hình hoạt động doanh nghiệp cũng khó tránh khỏi
bị tác động, từ đó mà ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Chính
vì thế mà tín dụng trung – dài hạn thường đòi hỏi tài sản đảm bảo. Thời hạn cho
vay càng dài thì xác suất xảy ra các biến động càng lớn và do đó rủi ro tiềm ẩn
càng cao.
Lãi suất cho vay: Lãi suất trong tín dụng trung- dài hạn: Một hệ quả nữa
của tính chất rủi ro cao đó là lãi suất cho vay trung – dài hạn cao hơn lãi suất
cho vay ngắn hạn. Điều này là hợp lý bởi một khoản cho vay tiềm ẩn nhiều rủi
ro thì cần phải trả lãi cao hơn để có thể bù đắp rủi ro nếu xảy ra. Đó là chưa kể
đến việc Ngân hàng sẽ mất cơ hội sử dụng khoản cho vay một cách linh hoạt
trong khoảng thời gian dài. Hiện nay nhiều Ngân hàng đang có chính sách thu
hút cho vay đối với DNNQD cho nên chính sách cho vay với DNNQD thông
qua lãi suất cũng rất linh hoạt.
III. Chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1. Chất lượng tín dụng:
1.1.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như kết quả
kinh doanh, tỷ trọng nợ quá hạn...Mặt khác, chất lượng hoạt động tín dụng được
đánh giá thông qua khả năng thu hút khách hàng trong nền kinh tế, uy tín của
Ngân hàng trong khu vực... Chất lượng hoạt động tín dụng có quan hệ đến các
nhân tố chủ quan như: Năng lực quản lí, trình độ của cán bộ, chính sách tín

SV: Thái Phương Linh 20 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
dụng, kiểm soát nội bộ...Và các nhân tố khách quan như sự thay đổi của chính
sách nhà nước, xu thế phát triển của nền kinh tế sự thay đổi của giá cả thị
trường, môi trường pháp lý...
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, thể hiện năng lực của Ngân
hàng trong quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trường, để phản ánh trình độ,
năng lực của một Ngân hàng, chất lượng hoạt động tín dụng được xem xét qua
nhiều mặt: Đầu tư tín dụng có hiệu quả, thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh
chóng, mức độ an toàn vốn tín dụng ...
Chất lượng tín dụng là kết quả của một sự kết hợp hài hoà giữa con người
trong một tổ chức, giữa những tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Vì vậy,
muốn có chất lượng tín dụng phải có một sự quản lý chặt chẽ phù hợp với sự
phát triển của nền kinh tế.
1.1.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
1.1.2.1. Cơ cấu cho vay:
Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM ở
Việt nam hiện nay, mang lại tới 70% - 80% nguồn thu nhập của các NHTM.
Trong thực tế hiện nay khối lượng cho vay của các NHTM ngày càng
tăng nhanh với các loại hình, phương thức cho vay đa dạng. Hiện nay ở nước ta
cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn cho vay trung - dài hạn. Một cơ
cấu cho vay phù hợp là cơ cấu cho vay mà ở đó tỷ trọng giữa các khoản nợ ngắn
hạn phù hợp với các khoản nợ trung, dài hạn. Cơ cấu này thay đổi theo từng
giai đoạn mà nhân tố ảnh hưởng lớn nhất là cơ cấu, nhịp độ phát triển nền kinh
tế và khả năng huy động nguồn vốn của từng NHTM.
SV: Thái Phương Linh 21 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Hiện nay, NHNN đã cho phép các NHTM được chuyển tối đa 40%
nguồn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn, thay vì tỷ lệ 30% và 20% theo
QĐ 381/ 2003/ QĐ - NHNN trước đây. Điều này đã cho phép các NHTM cho

vay trung – dài hạn cao hơn, cải thiện cơ cấu cho vay ngắn hạn quá cao như
hiện nay.
1.1.2.2. Dư nợ cho vay tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh:
Đây là chỉ tiêu mang tính chất thời điểm phản ánh số tiền trung – dài hạn
đối với DNNQD mà Ngân hàng giải ngân nhưng chưa thu hồi do khoản vay
chưa đến hạn thanh toán hoặc khoản vay đang bị nợ quá hạn.
Mặc dù bao gồm cả những khoản vay quá hạn nhưng chỉ tiêu dư nợ nói
chung và dư nợ tín dụng trung – dài hạn đối với DNNQD nói riêng được các
NHTM rất quan tâm. Chỉ tiêu này cho biết quy mô tín dụng trung – dài hạn đối
với DNNQD của một Ngân hàng và thông qua việc so sánh giữa các thời kỳ
khác nhau Ngân hàng sẽ đánh giá được tốc độ phát triển. Trên cơ sở quy trình
tín dụng trung – dài hạn có tính ổn định cao thì sự tăng lên hay giảm đi của dư
nợ tín dụng trung – dài hạn phần nào cho biết chất lượng tín dụng của Ngân
hàng đang có chiều hướng đi lên hay đi xuống.
Từ chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung – dài hạn đối với DNNQD, ta có thể tính
toán đánh giá chất lượng tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng thông qua chỉ
tiêu khác là
Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung – dài hạn đối với DNNQD =
* 100%
SV: Thái Phương Linh 22 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Chỉ tiêu này cho biết vị trí và vai trò của tín dụng trung – dài hạn trong
tổng thể hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao cho biết tín
dụng trung – dài hạn chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt động của
Ngân hàng, và để được điều đó thì chưa chắc hẳn chất lượng tín dụng trung –
dài hạn của Ngân hàng ngày càng cao.
1.1.2.3. Đóng góp của tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng trung – dài hạn đối với

DNNQD phát triển tốt. Chất lượng tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng sẽ tỷ
lệ thuận với chỉ tiêu này. Cũng từ chỉ tiêu này cho phép tính toán thêm một chỉ
tiêu khác, đó là:
Đóng góp của tín dụng trung – dài hạn đối với DNNQD = *100%
Rõ ràng khi chất lượng tín dụng và quy mô tăng trưởng tín dụng trung –
dài hạn đối với DNNQD ngày càng cao thì lợi nhuận thu được càng lớn
1.1.2.4.Dư nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Bản chất tín dụng là một sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng hoàn
trả của người vay) là một yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín
dụng. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết mà
không có lý do chính đáng thì nó được chuyển sang nợ quá hạn (NQH), với lãi
suất cao hơn lãi suất bình thường (hiện nay ở Việt nam lãi suất nợ quá hạn
bằng 150 % lãi suất trong hạn theo quy định của NHNN).
SV: Thái Phương Linh 23 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Phần lớn các khoản nợ quá hạn là những khoản nợ kém an toàn. Rủi ro
trong cơ chế thị trường là khách quan do đó nợ quá hạn của các NHTM là tất
yếu không thể tránh khỏi.
Để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM người ta thường dùng tỷ
lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn = *100%
Theo Quyết định 493/QĐ - NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng
của tổ chức tín dụng có quy định về các loại nợ quá hạn theo thời gian :
 Nợ cần chú ý: bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày
 Nợ dưới tiêu chuẩn: bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90- 180 ngày
 Nợ nghi ngờ: bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 – 360 ngày
 Nợ có khả năng mất vốn: bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
Và những khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trong hạn, dưới 90 ngày, từ 90 ngày đến
180 ngày, từ 180 ngày đến 360 ngày đã được cơ cấu lại.

1.1.2.5. Nợ sử dụng sai mục đích, nợ không thu được lãi đúng hạn:
Tỷ lệ nợ sử dụng sai mục đích =
* 100%
Có thể xem phần dư nợ này là cả dư nợ mà Ngân hàng không thu được
lãi hàng tháng đầy đủ kịp thời, phải hạch toán lãi không thu được trên tài khoản
ngoại bảng. Thông thường chỉ tiêu này được tính chung với tỷ lệ NQH bởi vì
SV: Thái Phương Linh 24 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
những khoản nợ này tuy còn trong hạn nhưng nó rất gần với việc khách hàng
vay không trả được đúng hạn, ví dụ như cho vay đảo nợ thực chất là nợ đã đến
hạn nhưng Ngân hàng đã tiếp tục cho thêm một kỳ hạn vay mới bằng hình thức
cho vay mới , thu hồi nợ cũ nên chưa quá hạn. Như vậy, tính toán chỉ tiêu này
chúng ta sẽ dự đoán được chất lượng tín dụng của NHTM và cần có biện pháp
ngăn ngừa phát sinh nợ quá hạn.
1.1.2.6. Chỉ tiêu đánh giá năng lực khách hàng vay:
Tuy nhiên để mà đánh giá chất lượng tín dụng trung – dài hạn của doanh
nghiệp chỉ thông qua những chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung – dài hạn đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay chỉ tiêu nợ quá hạn thôi thì chưa đủ phản
ánh được chất lượng của khoản nợ xấu mà khách hàng đang sử dụng, tức là
khoản nợ đó đang được sử dụng không hiệu quả, hoặc thậm chí là còn được sử
dụng sai mục đích. Do đó chỉ tiêu về năng lực của khách hàng vay là chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá chất lượng khoản tín dụng cấp cho khách hàng.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn tín dụng của các doanh nghiệp thể hiện
ở các mặt sau:
Về năng lực tài chính của DNNQD xin vay: Chỉ tiêu này được thể hiện
thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Điều
kiện tín dụng thường quy định một tỷ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong
tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn đầu tư tự có tương ứng với khối lượng
vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án vay vốn.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều

kiện tín dụng của Ngân hàng càng lớn.
SV: Thái Phương Linh 25 TCDN – 44D

×