I. VAI TRÒ CỦA HẬU PHƯƠNG ĐỐI VỚI TIỀN TUYẾN
Trong chiến tranh, bên nào có sức mạnh áp đảo thì bên đó giành thắng lợi.
Muốn có sức mạnh thì ngoài yếu tố binh khí, kĩ thuật, tư tưởng, con người... còn
phải kể đến một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của cuộc
chiến tranh. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến là một yếu tố thường
xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, vì hậu phương là nơi xây dựng
và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về cả mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá
và khoa học kĩ thuật, là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh thần cho
tiền tuyến. Muốn đánh thắng địch ở tuyền tuyến thì phải có hậu phương vững
mạnh về mọi mặt. Việc xây dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất chiến
lược và quyết định sống còn đối với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Đó là qui
luật của các loại chiến tranh từ xưa đến nay.
Nắm vững qui luật đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ mọi thời
gian, điều kiện vật chất để chuẩn bị hậu phương cho chiến tranh giải phóng dân
tộc và bảo vệ tổ quốc. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đánh giặc, vừa xây
dựng chế độ mới, xây dựng căn cứ địa hậu phương là một chủ trương chiến lược
đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phản ánh một trong những đặc trưng của cách
mạng Việt Nam. Việc xây dựng, củng cố hậu phương trong hai cuộc chiến tranh
chống Pháp và chống Mỹ luôn luôn được Đảng nhìn nhận một cách đúng đắn và
đặt lên hàng đầu. Đảng đã xây dựng, củng cố hậu phương trong mọi tình huống
của cuộc chiến, làm cho hậu phương có sức sống và phát triển trong hoàn cảnh
gay go, khó khăn nhất, trong khi chính nó cũng phải trực tiếp chiến đấu quyết
liệt với kẻ thù.
Dân tộc ta thắng những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần bởi vì chúng ta có
nhân dân anh hùng, có sự lao động sáng tạo, tài năng và trí tuệ của Đảng, có hậu
phương lớn tập trung sức người, sức của, động viên tinh thần tuyến tuyến lớn
đánh thắng kẻ thù. Do vậy, việc nghiên cứu chủ trương xây dựng hậu phương
của Đảng, để qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, phục vụ cho công cuộc
đổi mới toàn diện của đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn mới, sẽ góp
phần đắc lực vào nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hậu phương hiểu theo nghĩa nghĩa hẹp: “là nơi đối xứng với tiền tuyến, có
sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự,
phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật
lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của lực
lượng vũ trang ngoài tiền tuyến”.
Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp sức
người, sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch ròi với tuyền tuyến về mặt
không gian.
Như vậy, có thể thấy ngay rằng trong các cuộc chiến tranh, hậu phương là
một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua của hai bên
tham chiến. Chiến tranh phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội nào
tách khỏi hậu phương thì không thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể
tồn tại được. Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy
vĩ đại của cách mạng vô sản – Mác, Ăng ghen, Lê-nin đều nhấn mạnh đến vai
trò của hậu phương vững chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Toàn bộ việc tổ
chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ
ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất
liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của cư
dân và của cả kĩ thuật”.
Còn Lê-nin thì cho rằng: “ Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị
hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì
người đó thu được thắng lợi”.
Và: “ Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu
phương có tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành
nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không
được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy động
và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc”.
Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu
phương, Mác và Ăngghen, Lê-nin, đều đã đánh giá cao nhân tố chính trị-tinh
thần, đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin khi bàn đến
sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh đã nói: “lịch sử chiến tranh dạy rằng,
chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát triển và tổ
chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của quân đội, về
tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá trình chiến
tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó”.
Một tiêu chuẩn quan trọng nữa quyết định sự vững mạnh của hậu phương,
đó là yếu tố kinh tế. Theo đồng chí Lê Duẩn, “một hậu phương vững mạnh là
một hậu phương có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng hậu, có nguồn dự trữ
dồi dào để cung cấp lương thực, súng đạn, sức người, sức của đầy đủ cho tiền
tuyến”. Đồng chí Trường Chinh cũng coi một trong những nhân tố thường
xuyên của thắng lợi trong một cuộc chiến tranh nhân dân ở thời đại của chúng ta
là “hậu phương chiến tranh nhân dân được củng cố, nguồn cung cấp nhân tài,
vật lực cho chiến tranh dồi dào, chỗ dựa của các lực lượng vũ trang vững mạnh”.
Nhìn chung, vai trò của hậu phương đều được các nhà chiến lược, các nhà
quân sự đánh giá cao và yêu cầu những người lãnh đạo quốc gia, những người
cầm quân phải quan tâm thường xuyên trong thời chiến cũng như thời bình. Bởi
lẽ, chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi bên tham chiến, trong đó hết
thảy lực lượng đều bị thử thách, bị tiêu hao, nên đòi hỏi phải được bổ sung, phát
triển, nhằm đè bẹp đối phương để chiến thắng. Cơ sở vật chất của đất nước
mạnh hay yếu, dồi dào hay thiếu thốn là một điều kiện quan trọng, quyết định và
có tác động rất lớn đến thắng hay bại của chiến tranh. Tuy nhiên, sức mạnh của
hậu phương không chỉ dựa trên những chỉ số kinh tế, trên mức sống, trình độ
hiểu biết khoa học kĩ thuật của con người, cũng như vũ khí và trang bị kĩ thuật
của quân đội, mà còn dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nữa. Bởi vì, mặc dù hậu
phương có một vai trò quan trọng trong việc quyết định thắng lợi hay thất bại
của chiến tranh, song so sánh lực lượng hậu phương của hai bên, giải quyết vấn
đề hậu phương, xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương như thế nào, lại
không phải là một vấn đề đơn thuần của số học. Hậu phương có thể chuyển hoá
từ yếu sang mạnh, hoặc ngược lại. Cách huy động lực lượng của hậu phương là
một vấn đề quan trọng. Nó phụ thuộc vào những yếu tố như: tính chất của chiến
tranh, trình độ giác ngộ của con người, năng lực xử lý các vấn đề liên quan đến
chiến tranh... Muốn để hậu phương động viên được sức người, sức của cho
kháng chiến, đồng thời là nguồn cổ vũ mạnh mẽ về chính trị, tinh thần cho các
lực lượng chiến đấu trên chiến trường, phải trải qua một quá trình xây dựng,
từng bước phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành mạnh. Trong quá trình
đó, hậu phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật chất lẫn tinh
thần, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Hậu phương của chiến tranh có những cấp độ và hình thức khác nhau. Có
hậu phương chiến lược, có hậu phương tại chỗ, có những căn cứ du kích, lại còn
có khái niệm hậu phương lòng dân. Dân bao bọc che trở, tạo điều kiện cho cách
mạng xây dựng căn cứ của mình. Nhưng xét trên phương diện tổng quát nhất, thì
lực lượng cách mạng muốn chiến thắng kẻ thù nhất định phải có hậu phương
chiến lược, vì “không có một đội quân nào trên thế giới không có hậu phương
vững chắc lại có thể chiến thắng được”. Điều đó đã trở thành qui luật.
Quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của hậu phương trong
chiến tranh đã khẳng định tầm quan trọng chiến lược của hậu phương. Thực tiễn
đẫ chứng minh điều đó một cách hùng hồn. Trong chiến tranh thế giới thứ hai,
Hồng quân Liên Xô chiến thắng Phát-xít Đức- Nhật trong một điều kiện vô cùng
khó khăn vì họ có hậu phương chiến lược bao gồm các nước cộng hoà trong
Liên bang rộng lớn, được củng cố và xây dựng để đủ sức đáp ứng mọi yêu cầu
của chiến trường.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức coi trọng việc xây dựng hậu phương,
xem đó là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định thắng lợi của cách mạng.
Trong những ngày đầu trứng nước vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái
Quốc đã chú trọng xây dựng cơ sở trong dân- xây dựng cơ sở cách mạng trong
cộng đồng những người Việt Nam ở Pháp, Thái Lan, đặc biệt là ở Trung Quốc.
Những cơ sở bước đầu này thực sự là hậu phương của cách mạng, là chỗ dựa,
sức mạnh giúp Đảng vượt qua khủng bố của kẻ thù, đứng vững, phát triển và
hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử của mình.
Đầu năm 1941, khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt tay xây dựng Cao Bằng thành căn cứ địa của
cách mạng Việt Nam. Người nói: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn
cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới,
lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát
triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc
được. Có nối được phong trào với Thái Nguyên, với toàn quốc thì khi phát động
đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thế tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”.
Thực hiện theo tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, căn cứ địa cách mạng được
mở rộng và phát triển thành khu giải phóng rộng lớn gồm 6 tỉnh thuộc Việt Bắc.
Đây là nơi Đảng và Quốc dân Đại hội quyết định những vấn đề chiến lược của
cách mạng, mà bước đi quan trọng, quyết định nhất là phát động Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
một phần lớn là nhờ có căn cứ địa vững chắc, bao gồm: căn cứ Việt Bắc, các căn
cứ ở các khu, các tỉnh, các cơ sở ở các địa phương trong toàn quốc.
Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Việt Bắc lại trở thành căn cứ địa.
Ngoài ra, ta còn có một hậu phương rộng lớn, bao gồm các khu du kích, các
vùng tự do ở khu III, khu IV, khu V, Nam Bộ...tạo thành thế liên hoàn, vừa bao
vây kẻ thù, vừa cung cấp sức người, sức của cho tuyền tuyến, động viên ý chí
niềm tin cho những người lính trên chiến trường.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã có thể kế thừa những kinh
nghiệm xây dựng hậu phương trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến
chống Pháp. Hơn bao giờ hết, trong cuộc kháng chiến lần này, Đảng đã đặc biệt
chú ý đến vai trò quan trọng của hậu phương, bởi vì với một cuộc chiến không
cân sức, phải đối đầu với một kẻ thù nguy hiểm, có tiềm lực kinh tế, quân sự,
quốc phòng mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thì việc tổ chức, huy động sức mạnh của
toàn dân tộc và “phải có một hậu phương vững chắc” như Lênin đã từng nói, là
hoàn toàn cần thiết. Hậu phương đó là miền Bắc XHCN. Tuy nhiên, xây dựng
hậu phương trong kháng chiến chống Mỹ có sự phát triển về chất so với xây
dựng hậu phương trong kháng chiến chống Pháp. Bởi vì, lúc đó chúng ta đã có
một nửa nước hoà bình đi lên CNXH, có khả năng dốc toàn bộ sức mạnh của
mình cho chiến tranh. Đồng thời, ta cũng có hậu phương tại chỗ ở miền Nam là
những căn cứ du kích hoặc vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp. Hơn nữa,
bên cạnh ta lại có các nước XHCN anh em và lực lượng hoà bình tiến bộ trên thế
giới ủng hộ, chia sẻ.
Tuân thủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tầm quan trọng
của hậu phương trong chiến tranh cách mạng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát huy kinh nghiệm xây dựng hậu phương
trong kháng chiến chống Pháp, Đảng đã tập trung xây dựng miền Bắc thành hậu
phương lớn cho tuyền tuyến lớn miền Nam, “Tiến hành cách mạng XHCN ở
miền Bắc tức là xây dựng cuộc sống mới, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền
Bắc, đồng thời là củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc về mọi mặt cho việc
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống
nhất nước nhà”.
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh và Đảng ta về xây dựng hậu phương đã
thực sự có ý nghĩa trong quá trình xây dựng miền Bắc theo hướng xây dựng hậu
phương chiến lược trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Xây dựng
CNXH ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho chiến tranh giải