Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Đề văn lớp 11- sưu tầm tham khảo ôn thi kiểm tra, thi học sinh giỏi văn (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.81 KB, 3 trang )

Đề: Phân tích bài thơ “ Câu cá mùa thu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến
-Bài Làm-
Mùa thu – mùa của các thi nhân. Tại sao lại khẳng đònh như vậy? Bởi vì hầu
hết các nhà thơ xưa và nay không ít thì nhiều đều có những bài thơ viết về mùa thu.
Phải chăng mùa thu tiết trời se lạnh, gió thu hắt hiu, cảnh thu mơ màng, trăng thu
huyền ảo, lá thu rơi, đã tạo cho các nhà thơ niềm xúc cảm dạt dào? Chắc là thế! Với
thi nhân, mùa thuxưa nay như người bạn tri ân để gởi gắm nỗi niềm, để tâm tình chia
sẻ. Và nhắc đến thu, ta không thể không nhắc đến Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu:
Thu vònh, Thu điếu, Thu ẩm. Mà trong đó, Thu điếu là một trong những bài thơ hay
nhất trong hệ thống thơ ca viết về mùa thu.
Tuy nhan đề là “Câu cá mùa thu” nhưng bài thơ không lấy việc câu cá làm
chính mà lấy mùa thu làm chính. Việc câu cá chẳng qua là cái cớ , cái hoàn cảnh, cái
chỗ để nói về mùa thu. đây, cảnh thu được tác giả đón nhận từ gần đến cao xa, rồi
từ cao xa trở lại gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao
rồi nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh mùa thu với một không gian thanh bình ở chốn
làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ và chiếc thuyền câu tónh lặng nhẹ tênh
giữa một không khí mùa thu bắt đầu se lạnh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Hai câu thơ trên không chỉ miêu tả không gian mùa thu mà còn miêu tả được cả
không gian của mùa thu. Mùa thu được biểu hiện ở làn nước trong, đã trong mà lại
còn “trong veo”. Ao thu như là một chiếc gương sáng, phản chiếu những nét bình dò
của làng quê Viện Nam. Nay được tác giả đưa vào càng làm cho bài thơ thêm ý vò.
Trong cái lạnh lẽo của mùa thu, một mình tác giả “du ngoạn” trên một chiếc thuyền
câu vốn đã bé lại càng “bé tẻo teo”. Mùa thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua
hai câu thơ này ta lại càng thấy Nguyễn Khuyến rất tài tình khi miêu tả khung cảnh
mùa thu. Và cũng qua hai câu thơ cũng cho ta biết rằng với tính chất “lạnh lẽo nước
trong veo” thì đây khộng phải là môi trương thuận lợi và thích hợp cho việc câu cá.
Từ chiếc thuyền câu, tác giả lại tiếp tục đưa ta vào thế giới cảnh sắc trên ao thu qua
hai câu thơ tiếp theo:


Sóng biếc theo làn hơi gơn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cái tónh như cô đọng hơn trong một không gian ngưng đọng. Sự vật dường như
chuyển động khẽ hơn, chỉ có gió mà lại rất nhẹ, làm cho chiếc thuyền câu “bé tẻo
teo” chỉ hơi chòng chành đủ cho sóng chỉ hơi gơn tí. Khung cảnh mùa thu đượm buồn
như im lìm lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến
từng chi tiết nhỏ. Chỉ việc một từ “khẽ” đã miêu tả được miêu tả được cả âm thanh,
đó là âm thanh tónh chứ không động, tả được cái trạng thái tónh lặng của mùa thu.
Ngay cả từ “vèo” cũng vậy, không chỉ là bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà nó
còn thể hiện được tâm trạng của tác giả, một sự đau buồn trước cảnh đất nước rơi vào
tay bọn thực dân Pháp. Màu “biếc” của sóng và màu “vàng” của lá đã vẽ nên một
bức tranh làng quê thật thanh bình. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo”
trong thơ Nguyễn Khuyễn. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu
thơ vừa ý trong bài thơ “Cảm thu, tiễn thu”:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Ngay cả Xuân Diệu cũng có lời nhận xét: “ Cái thú vò của bài thơ Thu điếu ở các điệu
xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang
của chiếc lá thu rơi ”. Lời bình của Xuân Diệu thật tâm đắc.
Từ việc miêu tả cảnh ao thu, nhà thơ mở rộng không gian lên chiều cao tạo nên
không khí khoáng đạt và không gian như rộng hơn làm cho bức tranh thêm đường nét:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cả trời thucũng được nhà thơ quan sát tỉ mỉ. Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp,
cùng với những đám mây trôi lơ lửng tạo cho ta thêm cảm giác muốn được hòa mình
vào thiên nhiên. đây từ “lơ lửng” còn là tâm trạng của tác giả về một vấn đề gì đó
chưa thể quyết đònh rõ ràng. Từ trời thu, tác giả nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. Không
gian lại trở nên vắng lặng buồn thảm khi mà “khách vắng teo”. Cái vắng lặng, không
khí buồn của mùa thu không dừng ở không gian cái ao mà còn lan tỏa khắp đất trời.
Ngõ xóm trước kia đông đúc người qua lại mà bây giờ cũng “vắng teo”. Con đường
cũng trở nên quanh co. Tất cả mọi sự vật đều vắng lặng trong khung cảnh mùa thu.

Bài thơ cho đến đây, đã hết sáu câu, vẫn chưa thấy xuất hiện con người. Đến hai
câu cuối của bài thơ, con người hay là chính tác giả mới xuất hiện. Trong bức tranh
thu, con người dường như ẩn kín sau cảnh vật, hòa mình vào thiên nhiên, đất nước. Sự
xuất hiện này có tạo nên cho bài thơ những bất ngờ gì không? Bất ngờ thì có bất ngờ,
nhưng tranh thu không vì thế mà thay đổi, vẫn cái vắng vẻ, tónh lặng ấy.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Thông qua miêu tả việc tựa gối câu cá thì hình ảnh con người mới hiện lên rõ nét.
Tư thế “tựa gối” một phần vì tiết thu, nhưng một phần còn bởi lòng người câu cá. Ta
thường biết, khi câu cá thì con người ta cảm thấy thoải mái nhất. Nhưng ở đây người
câu cá không cảm thấy như vậy, dường như đang suy nghó một điều gì đó. Phải chăng
tác giả cũng đang trăn trở, trầm ngâm như vậy. Ngư, tiều, canh, mục là những đề tài
tượng trưng cho cuộc sống của các ẩn só trong văn học truyền thống phương Đông xưa.
Nguyễn Khuyến rút lui khỏi chốn quan trường về quê đònh làm một ẩn só giữa thời
buổi đất nước đang bò giặc Pháp xâm lược, nhưng ông không thể ung dung đi câu như
một ẩn só thực thụ. Tiếng động nhỏ của cá đớp dưới chân bèo, tiếng động duy nhất
của toàn bài thơ đã phá tan không gian vắng vẻ của cảnh thu. Chòu sự tác động của
thời cuộc, lòng ông vẫn giữ những lớp sóng mà xôn xao, khuấy động. Qua bài thơ, tác
giả đã thể hiện tình yêu, sự gắn bó tha thiết của tác giả với quê hương đồng thời thể
hiện tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc.
Nghệ thuật sử dụng tiếng Việt của tác giả đã đạt đến sự tinh tế, điêu luyện. Bài
thơ không dùng điển tích, điển cố hoặc từ ngữ khó hiểu. Các từ được khai thác để
diễn đạt các xảm giác khác nhau về mùa thu khơi gợi kinh nghiệm nơi người đọc.
Mùa thu hiện lên qua các giác quan. Mắt nhìn thấy: màu vàng của lá thu, màu xanh
ngắt của trời thu, nước trong veo, làn sóng xanh biếc, con ngõ quanh co, vắng vẻ. Tai
nghe thấy tiếng bay vào của lá vàng trước gió, tiếng ca đớp động dưới bèo. Các từ
ngữ cho thấy không chỉ sự quan sát mà còn cả sự cảm nhận tinh tế của tác giả đối với
cảnh thu, không gian thu. Tiêu biểu là việc dùng vần “eo” rất có sức gợi hình, gợi
cảm. Cac từ láy sử dụng trong bài thơ góp phần tạo nên ấn tượng nhẹ nhàng, chậm
chạp, yên tónh, vắng vẻ của cảnh thu: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng, cảnh thu ở bài thơ

không rơi vào công thức mà có tính sáng tạo độc đáo bao gồm những cảnh hiện thực,
rất tiêu biểu cho cảnh thu của vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Phải là người gắn
bó, yêu mến những cảnh vật ấy thì chúng mới đi vào thơ một cách tự nhiên như vậy.
Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu
cảnh sắc làng quê với tất cả tấm lòng mình. Đọc “Thu điếu”, chúng ta càng thêm yêu
quêâ hương, đất nước. Đúng như Lê Trí Viễn đã nhận xét thơ Nguyễn Khuyến: “Hãy
đọc thơ Nguyễn Khuyến cho tim mình rung động với quê hương, đồng cảm với thi só ngày nào,
để có thêm những rung động mới, những cảm xúc mới cần thiết cho ngày nay và cho mai sau

×