Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Chiến lược phát triển của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.53 KB, 31 trang )

Lời nói đầu
Từ khi thoát khỏi chiến tranh và nhất là sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thì nước ta đã có những
thay đổi mang tầm chiến lược nhằm khôi phục nền kinh tế cũng như văn hóa – xã hội, chính trị, an ninh
– quốc phòng… Đưa nước ta từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, dân trí thấp… cho đến nay
nước ta đã có nhữ,ng thành tựu đáng kể về nhiều mặt và phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa đã có nhiều hiệu quả , để tiến tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được những thành tựu to lớn thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
những mục tiêu chiến lược để nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn về tất cả các mặt.
Vì thế nhóm em làm bài tiểu luận này để phân tích kĩ hơn về những chiến lược, chính sách của nước ta
trong thời gian tới.
Với vốn hiểu biết còn hạn chế và kinh nghiệm còn non kém nên bài viết còn nhiều sai xót, vì thế mong
thầy và các bạn bổ sung để bài viết thêm sâu sắc.
Chúng em xin chân thành cảm ơn./.
1
MỤC LỤC
A. Khái quát Việt Nam
I. Vị trí địa lí
II. Tài nguyên thiên nhiên
III. Văn hóa
1. Phong tục tập quán
2. Tín ngưỡng và tôn giáo
3. Ngôn ngữ
4. Văn học
5. Nghệ thuật
IV. Xã hội
V. Khái quát về con người Việt Nam
1. Nguồn gốc
2. Phân bố
B. Chiến lược phát triển của Việt Nam
I. Nông – Lâm - Ngư nghiệp
1. Nông nghiệp


2. Lâm nghiệp
3. Ngư nghiệp
II. Công nghiệp xây dựng
1. Công nghiệp
a. Thực trạng ngành công nghiệp nước ta thời gian qua
b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển công nghiệp
2. Xây dựng
a. Thực trang ngành xây dựng nước ta thời gian qua
b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển ngành xây dựng
III. Dịch vụ thương mại
1. Dịch vụ
a. Quan điểm phát triển
b. Mục tiêu tổng quát
c. Mục tiêu cụ thể
d. Định hướng chiến lược, phân kì, trọng điểm phát triển và các định hướng cơ bản
. Định hướng chiến lược
. Phân kì, trọng diểm, phát triển
. Định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu đến năm 2020
2. Định hướng phát triển theo vùng lãnh thổ
a. Vùng đồng bằng
b. Vùng trung du miền núi
c. Ven biển và hải đảo
d. Phát triển dịch vụ tại khu vực nông thôn hướng tới xây dựng nông thôn mới
e.Phát triển dịch vụ gắn với phát triển các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng
trưởng có ý nghĩa đối với cả nước
3. Thương mại
IV. Văn hóa xã hội
2
V. Chính trị - an ninh quốc phòng
1. Chính trị

2. An ninh quốc phòng
PHỤ LỤC:
( Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Nxb Sự thật, Hà Nội 1987, tr. 12)
(Nguyễn Thị Kim Ngân (Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội): Nỗ
lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội. Tạp chí Cộng
sản số tháng 7-2008, tr. 18)
(Cơ quan Đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam: Đưa các mục tiêu thiên niên
kỷ đến với người dân. Hà Nội 2002, tr. 17)
(Nguồn: GS.TS. Phạm Xuân Nam
Viện Khoa học xã hội Việt Nam)
A.KHÁI QUÁT VIỆT NAM
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
 Tổng diện tích: 331.212 km
2
 Tổng chiều dài các biên giới trên bộ: 4.639 km
 Đường bờ biển dài: 3.260 km (không tính các đảo)
 Điểm cực Bắc thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang
 Điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Rạch Tàu, huyện Ngọc
Hiển tỉnh Cà Mau
 Điểm cực Tây ở A Pa Chải-Tá Miếu, thuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh
Điện Biên
 Điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Đôi trên bán đảo Hòn
Gốm, vịnh Vân Phong, xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh, Khánh Hòa
 Phía bắc tiếp giáp với Trung Quốc
 Phía nam với phía đông tiếp giáp với biển Đông
 Phía tây tiếp giáp với Lào và Campuchia
II. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN:
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên
nước, tài nguyên biển, tài nguyên rừng, tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản

và tài nguyên du lịch.
 Tài nguyên đất: Việt Nam có trên 39 triệu ha đất tự nhiên
 Tài nguyên nước: mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2.345 con sông có chiều dài
trên 10 km, mật độ trung bình từ 1,5 – 2 km sông/1 km
2
diện tích, cứ đi dọc bờ
biển khoảng 20 km lại gặp một cửa sông
• Tài nguyên biển: Việt Nam có 3260 km bờ biển với vùng lãnh thổ rộng tới
226000 km2
• Tài nguyên rừng: Nước ta có tới 3/4 diện tích là đồi núi và rừng che phủ
hơn 30% diện tích
• Tài nguyên sinh vật: Việt Nam là một quốc gia có sự đa dạng sinh học, hệ
thực vật có khoảng 14.000 loài thực vật bậc cao có mạch; đã xác định
được khoảng 7.000 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm, 600
loài rong biển. Tính đến nay đã xác định được ở nước ta có 275 loài thú,
1.009 loài và phân loài chim, 349 loài bò sát và lưỡng cư, 527 loài cá nước
ngọt, khoảng 2.038 loài cá biển, 12.000 loài côn trùng, 1.600 loài động vật
giáp xác, 350 loài động vật da gai, 700 loài giun nhiều tơ, 2.500 loài động
vật thân mềm, 350 loài sa nhô được biết tên…
3
• Tài nguyên du lịch: Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa
xanh tươi.
• Địa hình có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao
nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới,
nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh
lam thắng cảnh
• Tài nguyên khoáng sản: khoảng 5000 mỏ và điểm quặng, thuộc 60 loại
khoáng sản
III.VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam là văn hóa của 54 dân tộc anh emVà cũng từ đây Văn hóa

Việt Nam ngày càng tiếp tục phát triển với những thành thành tựu rực rỡ.
Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, các thời kì hỗn độn chia cắt
đất nước, thời kì Pháp thuộc, thời kì chiến tranh với Mĩ văn hóa Việt Nam đã có
nhiều nét đổi mới, phát triển.
Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng
thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch
sử mới.Có thể nói xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hoá chồng
lên nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp
văn hoá giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc
văn hoá bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hoá ngoại lai đồng hoá,
trái lại còn biết sử dụng và Việt hoá các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hoá
dân tộc.
Các dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái
riêng, cho nên văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Sau đây là cái
nhìn khái quát về các lĩnh vực văn hoá chủ yếu:
1. Phong tục tập quán
Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Cách thức chế biến món
ăn cũng rất độc đáo giàu tính sáng tạo.
Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái
cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ. Các phong tục
hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã.
Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân. Các tết chính là
tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng
Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng. Ngoài ra là các lễ
hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và hội chùa.
2. Tín ngưỡng và tôn giáo
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: Tín ngưỡng phồn thực,
tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người.
Tín ngưỡng ở Việt Nam rất phát triển với nhiều tôn giáo lớn như : Hồi giáo, Tin
lành, Thiên chúa giáo… và đặc biệt là Phật giáo.

3. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Tiếng Việt phát triển phong phú
đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13
là chữ Nôm. Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có
Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh
để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần
được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hoá quan trọng.
4. Văn học
Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian
và văn học viết.
Về nội dung văn học Việt Nam mang đậm tính dân tộc, tinh thần yêu nước bất
khuất chống giặc ngoại xâm ở mọi thời kỳ. Thêm vào đó phản ánh đời sống nhân
4
dân đặc biệt là thân phận người phụ nữ thông qua những câu hò, điệu hát,…phê
phán những thoái hư tật xấu trong xã hội. Trong nền văn học Việt Nam đã xuất hiện
những nhà văn lớn với những tác phẩm kiệt xuất. Tiếc rằng hiện nay chưa có những
tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và xứng đáng đất nước và thời đại.
5. Nghệ thuật
Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là phổ biến nhất. Thể
loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc:ngâm thơ, hát
ru, quan họ, ca Huế,bài chòi, ca trù. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng,
cải lương. Ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung rất phát triển.
Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát
triển đến trình độ nghệ thuật cao). Văn hoá dân tộc cổ truyền hiện đứng trước sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đứng trước những thách thức gay gắt của
kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá. Nhiều ngành văn hoá nghệ thuật đang có
phần chững lại, tìm đường và tự cách tân. Hơn bao giờ hết đặt ra vấn đề bảo tồn và
phát triển văn hoá dân tộc. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hoá mở. Hiện
đại nhưng không xa rời dân tộc. Công cuộc đổi mới văn hoá đang tiếp tục...
IV.XÃ HỘI

Phát triển xã hội có thể được hiểu là sự vận động, biến đổi theo hướng
tiến bộ, hợp quy luật, thuận lòng người của cơ cấu xã hội, các thiết chế xã hội, việc
giải quyết các nhu cầu của đời sống con người trong xã hội và các mối quan hệ xã
hội của con người.
Hội nhập quốc tế (ở đây là hội nhập trên lĩnh vực xã hội) là tham gia ký kết và
thực hiện các công ước quốc tế về xã hội, vận dụng các tiêu chí của quốc tế để đo
trình độ phát triển xã hội của mình, mở rộng hợp tác quốc tế về lĩnh vực phát triển
xã hội và đóng góp sáng kiến, kinh nghiệm của mình cho việc giải quyết những vấn
đề xã hội chung của cộng đồng quốc tế.
Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80
của thế kỷ trước), do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do những sai lầm mang nặng
tính chủ quan, duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình cũ đã lỗi
thời, cho nên chỉ mấy năm sau khi hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thì đất nước đã lâm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về
những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển.
Nhưng khi công cuộc đổi mới vừa thực hiện được mấy năm, và chỉ mới thu
được một số kết quả bước đầu, khó khăn còn nhiều, thì trên thế giới đã liên tiếp xảy
ra những biến động lớn, với sự sụp đổ của các nước xã hội chủ, gây tác động tiêu
cực về nhiều mặt đến tình hình nước ta. Thêm vào đó, Mỹ vẫn kéo dài cấm vận về
kinh tế chống Việt Nam (cho đến đầu năm 1994), gây khó khăn không nhỏ cho sự
phát triển của đất nước.
Trên cơ sở tổng kết những sáng kiến của quần chúng nhân dân trong nước,
đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tham khảo rộng rãi kinh nghiệm
của thế giới, các Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ 1991 đến
2006) đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới do Đại hội VI khởi
xướng.thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo trong đường lối của Đảng

thành hệ thống pháp luật, chính sách, chương trình, dự án để đưa vào cuộc sống.
Kết quả là sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam hơn 20 năm qua đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, mà ở đây chỉ
tập trung trình bày những thành tựu về phát triển xã hội, thể hiện ở những điểm
chủ yếu sau:
5
Đời sống nhân dân được cải thiện ,tình trạng suy thoái trì trệ ở thời kì bao cấp
được đẩy lùi, đầu tư cho phát triển xã hội ngày càng tăng lên….Nhà nước thi hành
các chương trình chính sách cho người có công,dân số và kế hoạch hóa gia đình,
tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu ở vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục, phát triển y tế, xây dựng mạng
lưới an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội... Nhận thức
của xã hội về việc làm và giải quyết việc làm đã có sự chuyên biến. Từ 2001 đến
2005, con số người có việc làm tăng lên 1,4 - 1,5 triệu người. Ngoài ra, mỗi năm
Việt Nam còn đưa khoảng 70.000 người đi xuất khẩu lao động tại một số nước
trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập với thế giới về chính sách lao động như: đã
lần lượt ký kết và thực hiện các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng xóa bỏ lao động
cưỡng bức, xóa bỏ phân biệt trong tuyển dụng và nghề nghiệp, xóa bỏ hình thức lao
động trẻ em.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình đào tạo và đang được tiếp tục đổi mới để nâng cao chất lượng dạy và học.
Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số - kế hoạch hóa gia đình thời kỳ
1991-2000 được thực hiện tốt đã đưa tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,1% xuống 1,36%.
Theo đánh giá của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), giá trị chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam có xu hướng tăng đều đặn và liên tục trong mấy
chục năm qua: từ 0,590 năm 1985, lần lượt tăng lên 0,711 năm 2000 và 0,733 năm
2005. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam có xu hướng
phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn so
với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Nhìn chung, sau gần 10 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế

- xã hội nghiêm trọng, và từ năm 1996 đã bước sang giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội nhức nhối do mặt trái của kinh tế thị trường
sinh ra, đặc biệt khi vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, khi việc thực thi kỷ
cương phép nước chưa nghiêm, là tệ tham nhũng, buôn lậu, kể cả buôn bán phụ nữ
và trẻ em, và những tệ nạn xã hội khác như bạo lực gia đình, ma túy, mại dâm, kéo
theo sự lây lan của bệnh HIV/AIDS... vẫn đang diễn biến phức tạp ở nhiều nơi.
Từ những điều nói trên, một câu hỏi có ý nghĩa quan trọng được đặt ra đối với
giới nghiên cứu lý luận và giới hoạt động thực tiễn của Việt Nam hiện nay là cần
phải làm gì và làm thế nào để góp phần phát huy những thành tựu đã đạt được,
khắc phục những yếu kém còn lại của quá trình phát triển xã hội theo hướng tiến bộ,
công bằng và hội nhập với thế giới.
Tóm lại, với những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm quý báu của
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong hơn 20 năm qua, chúng ta hoàn toàn có
cơ sở để tin rằng tương lai phát triển xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong
những năm sắp tới là sáng sủa và Việt Nam sẽ ra khỏi tình trạng kém phát triển vào
năm 2010, tiến tới trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020, sánh vai với các nước bè bạn khắp năm châu, phấn đấu cho hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của cả nhân loại.

III. Khái quát về Con Người Việt Nam
Người Việt là một dân tộc có nguồn gốc tại miền Bắc Việt Nam. Đây là dân tộc
chính, chiếm khoảng gần 90% dân số Việt Nam và được chính thức gọi là dân tộc
Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng
là tiếng Việt.
1. Nguồn gốc
6
Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của
một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ.

2. Phân bố
Người Kinh là dân tộc đa số tại Việt Nam, tuy nhiên tại một số tỉnh miền núi
phía Bắc. Người Kinh sống trên khắp các vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu ở vùng đồng
bằng, gần các con sông, và tại các khu đô thị. Hầu hết các nhóm dân tộc thiểu số
(trừ người Hoa, người Khmer, người Chăm) sống tại các vùng trung du và miền núi.
Người Mường sống chủ yếu trên các vùng đồi núi phía Tây đồng bằng sông Hồng,
tập trung ở Hòa Bình và Thanh Hóa. Người Thái định cư ở bờ phải sông Hồng (Sơn
La, Lai Châu). Người Tày sống ở bờ trái sông Hồng (Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên), người Nùng sống ở Lạng Sơn, Cao Bằng. Các nhóm dân tộc thiểu số khác
không có các lãnh thổ riêng biệt; nhiều nhóm sống hòa trộn với nhau.
B. CHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
I. NÔNG NGHIỆP – LÂM NGHIỆP – NGƯ NGHIỆP
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất nước theo
định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông
thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh
tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Biểu đồ giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản của nước ta từ 1999-2003

Từ biểu đồ trên ta có thể thấy ở nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất có giá trị
rất cao trong cơ cấu nông-lâm-ngư
1, Nông nghiệp:
Việt Nam là một nước đang phát triển, nông nghiệp mới bắt đầu có sự chuyển
dịch từ sản xuất tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hóa. Đúc kết kinh nghiệm trong nửa
sau của thế kỷ 20 và tham khảo kinh nghiệm một số nước trong khu vực và thế giới,
chúng ta có thể khẳng định con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam từ ở thế kỷ
21 là: nông nghiệp sản xuất hàng hoá trên cơ sở CNH-HĐH với mức độ phù hợp
yêu cầu của nông nghiệp bền vững.
Từ định hướng trên Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách, chiến lược

trọng tâm như sau:
7
Các vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn phải giải quyết đồng bộ gắn với công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải
phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai,
rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế;
phát huy cao nội lực, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội; ứng
dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao dân trí nông dân.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Phát triển phải vững bền cả về tự nhiên và xã hội. Đảm bảo
môi trường sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong sạch; thực phẩm vệ sinh; tài
nguyên sinh học đa dạng; giảm thiểu rủi ro do bệnh tật, thiên tai và quá trình biến
đổi khí hậu gây ra; thu hẹp khoảng cách về cơ hội phát triển giữa đô thị và nông
thôn, giữa các nhóm cư dân nông thôn; hỗ trợ người nghèo, những nhóm đối tượng
khó khăn trong quá trình phát triển Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng
hiện đại hoá, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; nâng cao sức mạnh của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công
nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững bảo đảm thực hiện thành công sự
nghiệp CNH-HĐH theo định hướng XHCN
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, hài hoà giữa các

vùng, đặc biệt tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông
dân có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản
lĩnh chính trị giữ vai trò làm chủ nông thôn mới. Tăng cường công tác xóa đói giảm
nghèo.
Nông nghiệp Việt Nam đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, đủ nguyên liệu
cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 8-9 tỷ USD/năm.
Đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, nhanh chóng ứng dụng rộng rãi
những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Khoa học
công nghệ phải phục vụ mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững, nâng cao
năng xuất , chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng
mới, quý hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh
Bổ sung, hoàn thiện các chính sách về tăng cường nguồn lực cho nông nghiệp,
nông thôn. Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông
nghiệp và xây dựng nông thôn.
Đảm bảo tiến độ các công trình xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp,
phòng chống thiên tai.Tăng cường công tác dự báo thông tin, giá cả thị trường,
khuyến nông,... để hướng dẫn nông dân áp dụng các qui trình kỹ thuật, sử dụng tiết
8
kiệm giống, phân bón, nước, thuốc trừ sâu, an toàn dịch bệnh,... giảm chi phí đầu
vào; chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng hiệu quả
Để đạt tới mục tiêu đưa nước ta tới năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp phát triển theo hướng hiện đại thì ta cần thực hiện tốt các chủ trương, chính
sách đề ra, phải nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức với những giải pháp linh
hoạt, sáng tạo, hợp lý và đồng bộ và còn rất nhiều vấn đề cần phấn đấu trong nông
nghiệp.
2. Lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tât cả các hoạt động
gắn liền với sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như gây trồng, khai thác, vận
chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và cung câp các dịch vụ môi trường có liên
quan đến rừng; ngành Lâm nghiệp có vai trò rât quan trọng trong việc bảo vệ môi

trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miên
núi, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng.
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33,12 triệu ha. Như vậy ngành lâm nghiệp đã
và đang thực hiện hoạt động quản lý và sản xuất trên diện tích đât lớn nhất trong
các ngành kinh tế quốc dân. Diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu trên các vùng
đồi núi của cả nước, đây cũng là nơi sinh sống của 25 triệu đồng bào dân tộc ít
người, có trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tê chậm phát
triển và đời sống còn nhiều khó khăn.
Xuất phát từ những lý do trên, cần phải xây dựng Chiến lược phát triển lâm
nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 làm căn cứ định hướng cho phát triển ngành
lâu dài.
Sau đây là những định hướng, quan điểm, chính sách của nước ta về phát triển
lâm nghiệp:
Nâng cao nhận thức toàn diện và sâu sắc về vai trò, vị trí của lâm nghiệp trong
quá trình hội nhập quốc tế hiện nay cho các cấp các ngành
Bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, chủ trương xã hội hóa nghề rừng và
cơ chế thị trường, cơ chế chính sách mới đầu tư cho phát triến sản xuất và chế biến
lâm sản tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển
Nâng cao số lượng, năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lí, cán bộ
khoa học kỹ thuật… Bố trí lực lượng cán bộ cân đối giữa khâu bảo vệ và phát triển
rừng làm tăng hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lí
Xây dựng tuyến giao thông xuyên Á và hành lang kinh tế nối vùng Bắc Việt Nam
với Tây Nam Trung Quôc sẽ tạo nhiều cơ hội cho phát triển sản xuất nông, lâm
nghiệp
Tham gia và thực hiện các cam kết, công ước quốc tế liên quan đến lâm nghiệp như
Công ước vê buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy câp (CITES),
Công ước RAMSA vê các vùng đất ngập nước quan trọng, Công ước đa dạng sinh
học (CBD), Công ước của Liên Hợp Quốc về chống sa mạc hoá (UNCCD)…
Phát triển lâm nghiệp đồng bộ từ quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng hợp lý tài
nguyên, từ trồng rừng, cải tạo rừng đến khai thác chế biến lâm sản, dịch vụ môi

trường, du lịch sinh thái…
Phát triển lâm nghiệp phải đóng góp ngày càng tăng vào tăng trưởng kinh tế, xoá
đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Phát triển lâm nghiệp phải phù hợp với
đường lối phát triển kinh tê – xã hội quốc gia, theo cơ chế thị trường; sớm chuyển
lâm nghiệp thành một ngành sản xuất hàng hoá, hiệu quả và bền vững đáp ứng yêu
cầu đổi mới và hội nhập; khai thác hợp lý lợi ích tổng hợp của rừng, chú trọng năng
suất, chất lượng, hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt các dịch
vụ môi trường rừng.
9
Các hoạt động sản xuất lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng quản lý bền vững
thông qua quy hoạch, kế hoạch bảo vệ phát triển rừng. Phải kết hợp bảo vệ, bảo tồn
và phát triển với khai thác sử dụng rừng hợp lý; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng,
khoanh nuôi tái sinh phục hồi rừng, cải tạo, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng
hiện có; kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp, ngư nghiệp và các ngành nghề nông
thôn đẩy mạnh trồng rừng kinh tế đa mục đích Thực hiện đa thành phần trong sử
dụng tài nguyên rừng (kể cả rừng đặc dụng,phòng hộ); đa sở hữu trong quản lý, sử
dụng rừng sản xuất và các cơ sở chế biến lâm sản. Từng bước áp dụng rộng rãi
hình thức cổ phần hoá các cơ sở sản xuất lâm nghiệp, chế biến gắn với vùng
nguyên liệu.
Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha
đât được quy hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 47% vào nam 2020;
đảm bảo có sự tham gia rộng rãi hơn của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội
vào các hoạt động lâm nghiệp nhằm đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, cung
cấp các dịch vụ môi trường,xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân
nông thôn miền núi và
góp phần giữ vững an ninh quôc phòng.
Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 3 lọai rừng.
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp (bao gồm cả công
nghiệp chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường) từ 4 đến 5%/năm phấn đấu đến

năm 2020, GDP của ngành lâm nghiệp đạt khoảng 2 - 3% GDP quốc gia
Trồng cây phân tán: 200 triệu cây/năm.
Sản lượng gỗ khai thác trong nước 20 - 24 triệu m
3
/năm, đáp ứng về cơ bản nhu
cầu nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến lâm sản, bột giấy và xuất khấu
Khai thác củi dùng cho khu vực nông thôn duy trì ở mực 25 - 26 trieu M
3
/ năm
Xuất khẩu lâm sản đạt trên 7,8 tỷ USD
Nâng cao nguồn thu từ các giá trị môi trường rừng thông qua cơ chế phát triển
sạch (CDM), du lịch sinh thái, phòng hộ chống xói mòn, bảo vệ nguồn nước... đạt 2
tỷ USD vào năm 2020.
Cải thiện sinh kế của người làm nghề rừng thông qua xã hội hoá và đa
dạng hoá các hoạt động lâm nghiệp; tạo công ăn việc làm, nâng cao nhận
thức, năng lực và mức sống của người dân; đặc biệt chú ý đồng bào các dân tộc ít
người, các hộ nghèo và phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa để từng bước tạo cho người
dân làm nghề rừng có thể sống được bằng nghề rừng, góp phần xoá đói, giảm
nghèo và giữ vững an ninh quốc phòng
Cải thiện sinh kế của người làm nghề rừng thông qua xã hội hoá và đa dạng hoá
các hoạt động lâm nghiệp; tạo công ăn việc làm, nâng cao nhận thức, năng lực và
mức sống của người dân; đặc biệt chú ý đồng bào các dân tộc ít người, các hộ
nghèo và phụ nữ vùng sâu, vùng xa
Bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm thực hiện có hiệu
quả chức năng phòng hộ của ngành lâm nghiệp để đóng góp cho nền kinh tế đất
nước
Nâng độ che phủ rừng lên 47% vào năm 2020
Rà soát và bố trí lại hệ thống, sắp xếp hợp lí các dự án rừng
3. Ngư nghiệp
Ở phía đông nước ta giáp với biển Đông nên có rất nhiều thuận lợi để phát triển

ngành thủy sản.
Chiến lược phát triển thủy sản nước ta đến năm 2020 chỉ rõ định hướng phát
triển thủy sản theo 4 lĩnh vực:
10
• Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
• Nuôi trồng thủy sản;
• Chế biến và tiêu thụ thủy sản;
• Cơ khí đóng sửa tàu thuyền và dịch vụ hậu cần nghề cá.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đưa ra định hướng phát triển thủy sản ở 5 vùng
trên lãnh thổ nước ta là vùng đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung bộ và duyên hải
miền Trung; vùng Đông Nam bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng miền núi,
trung du phía Bắc và Tây Nguyên.
Tổng kinh phí dự kiến 57.400 tỷ đồng thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản
nước ta đến năm 2020 sẽ được huy động từ ngân sách nhà nước, các doanh
nghiệp, người dân, vốn ODA, FDI và các nguồn khác.
Cùng với việc phát triển đánh bắt xa bờ, tập trung đầu tư phát triển bền vững
ngành nuôi trồng thuỷ sản như: tôm, cá, cua,… và các loại đặc sản
II. CÔNG NGHIỆP – XÂY DỰNG
1. Công nghiệp:
a. Thực trạng ngành công nghiệp nước ta thời gian qua:
Nhìn một cách tổng quát, trong những năm đổi mới vừa qua, đi đôi với tăng
trưởng và ổn định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Xu
hướng của quá trình này là công nghiệp tăng nhanh và nền kinh tế được hiện đại hóa.
Nếu năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) cả nước là 8,15% thì năm 2007 ước
đạt 8,44%, trong đó, ứng với thời gian trên, khu vực nông - lâm - thủy sản là 4,3% và
3,0%, khu vực công nghiệp - xây dựng là 12,6% và 10,4%; khu vực dịch vụ là 7,14% và
8,5%.
Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự
phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một sốngành
trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả

năng xuất khẩu. Từng bước phát triển các ngành khai thác các nguồn lực của
nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu và một số hàng công nghiệp nặng cần thiết. Các sản phẩm công nghiệp
quan trọng đều tăng khá như điện, thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than… Sự phát
triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng GDP tính
theo giá thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 23,2% năm 1996
lên 41,0% năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt 41,7% (năm 2007
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức khoảng 20,9% và khu vực
dịch vụ tăng
lên khoảng 37,6%). Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP
tăng dần thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân (năm 2007
chỉ tính riêng khu vực công
nghiệp chiếm khoảng 34,6%). Đây là năm thứ ba liên
tiếp ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp
bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn 1997-2007. Về giá trị sản xuất công
nghiệp (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2007 ước tăng 17,1% so với năm
2006, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,3%; khu vực ngoài nhà nước tăng
20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Cơ cấu nội bộ ngành công
nghiệp cũng chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến
từ 83,9% năm 2006 lên khoảng 84,4% năm 2007. Đối với nhóm ngành chế biến
11
nông, lâm, thủy, hải sản, nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp quan
trọng vào cơ cấu chế biến với tỷ trọng là 21,0% năm 2006 và khoảng 21,3% năm
2007.
Lợi thế so sánh trong các ngành chế biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động đã
được khai thác với ưu thế của ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu so với các
sản phẩm xuất khẩu thô. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những thay đổi cơ
bản, theo hướng vừa không ngừng nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm,
tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp không
chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế như điện, than, phân bón, sắt

thép… mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng
cao (76,3%) như: mặt
hàng nhựa, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính, thủ công mỹ
nghệ… Tăng
trưởng xuất khẩu của khu vực này chủ yếu do một số ngành công nghiệp nhẹ;
chẳng hạn, năm 2007, ngành dệt may đã chuyển từ sản xuất theo kiểu gia công
xuất khẩu (có tỷ lệ lãi khoảng từ 3-6%) sang sản xuất theo phương thức mua đứt,
bán đoạn (có tỷ lệ lãi khoảng từ 5-8%); kim ngạch xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD tăng
khoảng 30% so với năm 2006.
Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép lần đầu tiên đạt trên
10 tỷ USD, dẫn đầu trong các ngành hàng tham gia xuất khẩu. Đặc biệt, các sản
phẩm cơ khí xuất khẩu cũng là lần đầu tiên được bổ sung vào danh sách 10 nhóm
hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD (năm 2007 sản phẩm cơ khí
tăng trưởng trên 120% so với năm 2006, đem lại kim ngạch xuất khẩu trên 2,2 tỷ
USD). Đứng đầu danh sách nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ
USD phải kể đến là dầu thô (trên 8,4 tỷ USD); tiếp theo là dệt may (7,7 tỷ USD);
giày dép (3,9 tỷ USD)...
Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một
số
ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một
số lọai sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp ôtô,
xe máy, đồ điện tử, đường, xi măng… đã cung cấp cho thị trường nội địa, vốn cần
thiết cho đời sống kinh tế -xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất lượng cao
đã chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Mặt khác, khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) trong nền kinh tế nước ta phát triển với
tốc độ cao. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, tập trung vào nhóm
ngành chế biến thực phẩm và dầu khí, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất
khẩu của nước ta và có vị trí chủ yếu trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Khu
vực này đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, xây dựng mô hình tiên tiến,
phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác tiềm năng và huy động các nguồn lực

tốt hơn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây được coi là một trong những
yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH…
Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trong khu vực công nghiệp trong
thời gian qua là do: một là, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện
hệ thống luật pháp và chính sách thương mại, thông qua mối quan hệ giữa các
chính sách thuế và các
chính sách khác như trợ cấp, đầu tư… và trên thực tế đã
cải thiện rõ môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp nâng
12

×