BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƢỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2009”
TÊN CÔNG TRÌNH:
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
1
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Bến Tre là một tỉnh còn nghèo nhƣng có tiềm năng rất lớn để phát triển ngành
dừa, đặc biệt là nhu cầu xơ dừa hiện nay đang tăng trên thị trƣờng thế giới. Chỉ xơ dừa
đƣợc xuất sang các nƣớc nhƣ: Ấn Độ, Trung Quốc, các nƣớc châu Âu…Tuy nhiên
trong quá trình thu mua còn nhiều bất cập, phải trải qua nhiều khâu trung gian nên làm
gia tăng chi phí, giảm hiệu quả xuất khẩu do đó cần có các giải pháp hỗ trợ quá trình
này nhằm nâng cao giá trị của lƣới xơ dừa xuất khẩu.
Hiện tại chƣa có nhiều đề tài nghiên cứu nhiều về chỉ xơ dừa, đặc biệt là quá
trình thu mua và sản xuất chỉ xơ dừa ở Bến Tre vì thế nhóm đề tài tập trung nghiên cứu
quá trình này, đánh giá những ƣu điểm và hạn chế từ đó đƣa ra giải pháp hỗ trợ cho các
đối tƣợng tham gia hoạt động, tìm hƣớng nâng cao hiệu quả thu mua, xuất khẩu cho chỉ
xơ dừa ở Bến Tre.
1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động của các đối tƣợng trong quá trình thu mua chỉ xơ
dừa xuất khẩu ở huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, đánh giá những ƣu thế và những
hạn chế từ đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ các đối tƣợng trong chuỗi thu mua xơ dừa,
giúp hoạt động thu mua diễn ra tốt hơn.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quá trình thu mua chỉ xơ dừa, phạm vi
nghiên cứu chủ yếu là các hộ trồng dừa, những ngƣời thu mua dừa và các chủ vựa xơ
dừa ở huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung chính của đề tài là chƣơng 2 phân tích thực trạng hoạt động thu mua
xơ dừa ở huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến Tre đƣợc thực hiện bằng phƣơng pháp thống kê
2
mô tả, phỏng vấn những ngƣời có liên quan trong chuỗi thu mua xơ dừa để phân tích
tình hình thực tế của vấn đề, từ đó lý luận đề xuất các giải pháp.
4. Kết cấu đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về thu mua
Nghiên cứu cơ sở lý luận về thu mua, vai trò của hoạt động thu mua và các yếu
tố ảnh hƣởng đến việc thu mua nông sản.
Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động thu mua xơ dừa ở huyện Mỏ Cày Nam tỉnh
Bến Tre
Giới thiệu tổng quát về cây dừa cũng nhƣ các hiệu quả kinh tế từ cây dừa, tập
trung đi sâu vào phân tích thực trạng hoạt động thu mua xơ dừa ở huyện Mỏ Cày Nam
tỉnh Bến Tre, đánh giá ƣu thế cũng nhƣ những hạn chế trong quá trình thu mua xơ dừa.
Chương 3: Một số giải pháp đề xuất hỗ trợ hoạt động thu mua lưới xơ dừa ở huyện
Mỏ Cày Nam - tỉnh Bến Tre
Từ những tồn tại đặt ra ở chƣơng 3, lý luận đề xuất các giải pháp nhằm hỗ trợ
hoạt động thu mua lƣới xơ dừa ở huyện Mỏ Cày Nam - tỉnh Bến Tre
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài thực hiện sẽ giới thiệu rõ hơn về quá trình thu mua chỉ xơ dừa đang đƣợc
tiến hành ở huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre, phân tích thực trạng, đánh giá hoạt động, lý
luận đƣa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cho việc thu mua chỉ xơ dừa
6. Hƣớng phát triển của đề tài
Hiện nay nhu cầu về chỉ xơ dừa đang tăng trên thị trƣờng. Đề tài nghiên cứu
hoàn thiện quá trình thu mua và chế biến chỉ xơ dừa với số lƣợng lớn từ đó phân loại
theo chất lƣợng để tìm hƣớng đi mới phù hợp cho chỉ xơ dừa. Chỉ xơ dừa lại có giá
3
thành rẻ hơn rất nhiều so với sợi tổng hợp và thân thiện với môi trƣờng, có thể đƣợc
tận dụng để chế biến thành rất nhiều thành phẩm, nếu đƣợc tận dụng tốt chỉ xơ dừa sẽ
góp phần tăng thu nhập cho ngƣời nông dân tỉnh Bến Tre.
4
CHÖÔNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU MUA
1.1
KHÁI NIỆM VỀ THU MUA
Thu mua bao gồm hàng loạt các quá trình, tiếp tục quá trình sản xuất: sơ chế,
bảo quản, vận chuyển và chế biến sản phẩm. Quá trình này làm thay đổi hình thức giá
trị sử dụng và làm tăng giá trị trao đổi.
Vai trò
Trao đổi sản phẩm tiến hành dƣới hình thức mua bán sản phẩm là mối liên hệ
kinh tế chủ yếu giữa những ngƣời sản xuất và tiêu dùng trong xã hội.
Phân loại
Thu mua trực tiếp
Thu mua gián tiếp
5
Tuỳ theo tính chất phức tạp của hàng hoá, có thể có một hay nhiều ngƣời trung
gian làm cầu nối cho việc trao đổi hàng hoá. Số lƣợng ngƣời trung gian càng nhiều thì
giá cả của hàng hoá ngày càng tăng thêm, ảnh hƣởng đến khả năng cạnh tranh của hàng
hoá.
1.2
LIÊN HỆ ĐẾN CÁC THÀNH PHẦN TRONG CHUỖI THU MUA XƠ
DỪA:
Theo những quan sát từ thực tế, hệ thống tiêu thụ dừa tại huyện Mỏ Cày Nam
nói riêng và tỉnh Bến Tre nói chung cũng tƣơng tự nhƣ các vùng trồng dừa khác, nghĩa
là ngƣời nông dân sau khi thu hoạch sẽ bán cho ngƣời thu mua. Ngƣời thu mua đƣa
đến cơ sở chế biến hoặc vựa thu mua lớn hơn và sau đó, lƣợng dừa này mới đến các
công ty sản xuất hoặc xuất khẩu.
SƠ ĐỒ THU MUA, XUẤT KHẨU CHỈ XƠ DỪA
1.2.1
Nhà vƣờn:
Nhà vƣờn là xuất phát điểm quan trọng trong quá trình thu mua và sản xuất chỉ
xơ dừa. Đa số ngƣời dân ở tỉnh Bến Tre đều trồng dừa nhƣng việc trồng dừa còn manh
6
mún và họ đều trồng theo kinh nghiệm là chính, không thƣờng xuyên cập nhật các kiến
thức giống cây trồng, kĩ thuật chăm sóc,… Trồng dừa không cần vốn nhiều, chỉ cần có
hai hay ba công đất là có thể trồng dừa. Cứ khoảng 20 ngày hay 1 tháng đến kì thu
hoạch thì nhà vƣờn gọi ngƣời đến mua, bẻ dừa chở đi.
1.2.2
Thƣơng lái
Thƣơng lái là trung gian mua bán giữa nhà vƣờn và các chủ vựa. Vai trò của
thƣơng lái trong việc thu mua nông sản nói chung cũng nhƣ thu mua dừa nói riêng là
rất quan trọng, vì việc trồng dừa manh mún không có quy hoạch rõ ràng nên thƣơng lái
là ngƣời quan trọng góp phần nối kết đầu ra cho cây dừa.
Họ thu mua dừa từ các nhà vƣờn, tập trung dừa tại một địa điểm từ đó vận
chuyển đi bán cho các chủ vựa. Dừa trái đƣợc thƣơng lái đến tận các nhà vƣờn bẻ rồi
vận chuyển về bằng xe đạp, xe cải tiến, xuồng hay ghe. Sau khi tập trung dừa trái từ
các nhà vƣờn, thƣơng lái có thể dùng ghe chở dừa trái đến bán trực tiếp cho chủ vựa,
hoặc là chở đến chỗ chủ vựa lột và bán vỏ cho chủ vựa còn “hột” – trái dừa đã lột vỏ
xơ đi còn gáo dừa, cơm dừa và nƣớc – thì vận chuyển đi bán ở nơi khác.
1.2.3
Vựa thu mua
Cơ sở chế biến có quy mô nhỏ, nằm ngay tại địa phƣơng. Chủ vựa thu mua dừa
trái hoặc vỏ dừa khô từ thƣơng lái, cho vỏ dừa vào máy tƣớc chỉ rồi đem chỉ ra phơi
khô, sau đó gom lại đóng thành từng kiện bán cho các công ty xuất khẩu. Các công ty
xuất khẩu đến tận vựa để thu gom chỉ xơ dừa. Các công ty sẽ tái chế và đóng gói xuất
khẩu hoặc bán cho các doanh nghiệp sản xuất trong nƣớc.
Các vựa tƣớc chỉ thƣờng có một máy tƣớc chỉ làm việc với công suất 1 đến 2
tấn một ngày nếu là chỉ khô, còn chỉ ƣớt thì công suất đƣợc khoảng 4 đến 5 tấn một
ngày.
7
Các vựa tƣớc chỉ là nơi giải quyết phần lớn công việc cho ngƣời dân ở đây, một
vựa thu mua dừa tƣớc chỉ trung bình có khoảng 20 đến 25 nhân công thực hiện các
công đoạn: lột vỏ dừa, đứng máy, bốc vác, phơi chỉ,…
1.2.4
Công ty xuất khẩu
Là đầu mối tiêu thụ sản phẩm, hiện tại việc xuất khẩu chỉ xơ dừa không chỉ có
các công ty Việt Nam mà đã có sự tham gia ngày càng nhiều của các công ty nƣớc
ngoài nhƣ Công ty Chế biến Dừa Phú Hƣng (đơn vị liên doanh giữa Tập đoàn
Silvermill - Sri Lanka và Công ty Treximco- Bến Tre) đặc biệt là các công ty Trung
Quốc, Đài Loan càng gia tăng sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu mua và xuất khẩu
chỉ xơ dừa.
8
CHÖÔNG 2.
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THU MUA
XƠ DỪA Ở HUYỆN MỎ CÀY NAM TỈNH BẾN TRE
2.1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY DỪA
Trên thế giới thì có khá nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có diện tích trồng dừa
tầm cỡ là Philippin, Malayisia, Sri Lanka, Việt Nam, Mexico, Tây Châu Phi…, nhìn
chung cây dừa phổ biến khắp các vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam có hai địa phƣơng trồng
nhiều dừa là: Đồng bằng sông Cửu Long (Bến Tre) và duyên hải miền Trung (Đà nẵng
vào Phan Thiết). Việt Nam có diện tích trồng dừa trên 200.000 ha thì Bến Tre đã chiếm
40 ngàn ha, và là vùng trồng dừa lớn nhất cả nƣớc.
Cây dừa có chu kỳ khai thác kinh tế kéo dài từ 40 đến 50 năm, dễ trồng và thích
nghi với điều kiện sinh thái khác nhau. Hiện tại ở nƣớc ta có 2 nhóm giống dừa chính
đang trồng với các đặc tính khác nhau: nhóm giống dừa cao (dừa ta, dừa dâu, dừa lửa,
dừa giấy...) phát triển nhanh có thể cao 18 đến 20 m, ra trái muộn, trái dùng lấy dầu và
chế biến các sản phẩm có giá trị khác.
Giá trị sản phẩm từ cây dừa:
* Than hoạt tính: Tẩy màu, khử mùi, lọc chất lỏng, lọc khí, lọc vàng, lọc máu nhằm
giảm chất phóng xạ. Giá trị xuất khẩu: 1.000 USD/tấn.
* Cơm dừa nạo sấy: dùng chế biến thực phẩm, có hàm lƣợng chất béo cao, không có
chứa hàm lƣợng Cholesterol (chất gây chứng béo phì và các bệnh về tim mạch). Giá trị
xuất khẩu: 1.000 USD/tấn.
* Xơ dừa: là nguyên liệu sản xuất các loại niệm ngủ, vật liệu trang trí nội thất thân
thiện với môi trƣờng, làm lƣới phủ xanh đồi trọc, bảo vệ các công trình công nghiệp
9
dƣời biển bới độ bền, lâu bị phân huỷ trong môi trƣờng nƣớc nặng, cách âm, cách
nhiệt. Giá trị xuất khẩu: 170 - 185 USD/tấn.
Dừa là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nƣớc ta
trong tháng 4/2007 - chiếm 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây của cả nƣớc.
Dừa Việt Nam tập trung chủ yếu ở 3 nơi: Bến tre, Trà Vinh và Bình Định. Bến
Tre đƣợc biết đến có diện tích dừa lớn nhất Việt Nam, hiện nay khoảng 40.000 ha. Sản
lƣợng dừa cũng cao nhất nƣớc (trên 300 triệu trái/năm). Giá trị xuất khẩu các sản phẩm
dừa năm 2009 dự kiến đạt trên 66 triệu USD trong tổng số 170 triệu USD giá trị xuất
khẩu của toàn tỉnh.
2.2
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ CÂY DỪA BẾN TRE
Vƣờn dừa ĐBSCL tập trung chủ yếu ở Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau,
Vĩnh Long… Trong đó, Bến Tre và Trà Vinh là nơi phát triển mạnh về diện tích lẫn
chế biến xuất khẩu. Tại các huyện Mỏ Cày, Bình Đại, Giồng Trôm (Bến Tre); Càng
Long, Cầu Kè (Trà Vinh). Trung bình mỗi vƣờn dừa (4.000m2) mỗi tháng cho thu
hoạch khoảng 7-8 trăm trái (mỗi trăm bằng 120 trái). Giá dừa bán tại vƣờn hiện nay là
320.000đ/ trăm dừa vào mùa nắng (mùa mƣa giá có sụt đôi chút).
Về giống, theo khảo sát dừa trồng tại Bến Tre chia thành 2 nhóm chính: giống
dừa cao và giống dừa lùn; dừa cao có 3 giống chính: dừa ta chiếm 35% tổng diện tích
dừa của tỉnh, dừa dâu chiếm 4% diện tích vƣờn dừa của tỉnh, dừa lửa chiếm 2% diện
tích vƣờn dừa của tỉnh; dừa lùn chiếm trên 10% diện tích trồng dừa của tỉnh gồm các
giống dừa: dừa xiêm, dừa tam quan, dừa ẻo… Mật độ trồng khoảng 150-180 cây/ha với
giống dừa cao và 200-220 cây đối với giống dừa lùn. Trong khâu chọn giống, qua khảo
sát thực tế 500 hộ trồng dừa trong tỉnh cho thấy: 89% nông dân chọn giống từ vƣờn
nhà; mua giống từ vƣờn khác chiếm 10%; mua giống từ các trung tâm giống chiếm
dƣới 1%. . Hiện tại, đa số diện tích dừa ĐBSCL trồng tự phát quá lâu, giống cũ nên
10
năng suất thấp. Bình quân mỗi cây chỉ cho 30- 35 trái/năm, nơi trúng cũng chỉ đạt 38 -
40 trái/cây/năm. Nếu đƣợc đầu tƣ tốt có thể đạt 70 trái/cây/năm. Viện Nghiên cứu dầu
thực vật vừa lai tạo thành công 2 giống dừa lai JVA 1 và JVA 2 cho năng suất cao, trái
lớn, hàm lƣợng dầu tăng hơn giống địa phƣơng khoảng 65%.
Về doanh thu, dừa trồng chuyên canh đạt lợi nhuận bình quân từ 8,5-11,6 triệu
đồng/ha/năm; nếu dừa đƣợc trồng xen với các loại cây ăn trái khác nhƣ: măng cụt,
bƣởi, chanh, cam sành thì hiệu quả sẽ rất cao, doanh thu đạt bình quân từ 26,5-51
triệu/ha/năm, lợi nhuận bình quân từ 17-41 triệu/ha/năm. Hiện trên toàn tỉnh Bến Tre
có trên 30% vƣờn dừa áp dụng mô hình thâm canh tổng hợp theo 2 vùng ngọt và vùng
lợ; vùng ngọt có mô hình: dừa kết hợp trồng cây đặc sản và nuôi thủy sản, dừa kết hợp
trồng ca cao và nuôi thủy sản, dừa kết hợp trồng dâu; vùng lợ có các mô hình: dừa kết
hợp cây có múi, dừa kết hợp trồng cỏ nuôi bò…
2.3
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THU MUA XƠ DỪA Ở
HUYỆN MỎ CÀY NAM TỈNH BẾN TRE:
2.3.1
Chỉ xơ dừa ở huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến Tre và triển vọng phát triển:
Huyện Mỏ Cày hiện có 200 cơ sở sản xuất chỉ xơ dừa, tập trung ở các xã Đa
Phƣớc Hội, An Thạnh, Khánh Thạnh Tân và Thành Thới B, hàng năm sản xuất khoảng
30.000 tấn chỉ tƣơi, tạo ra giá trị xuất khẩu hơn 60 tỷ đồng, bằng 15% tổng giá trị sản
xuất ngành công nghiệp của huyện.
Làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa ở huyện Mỏ Cày đã thu hút hơn 4.000 lao động
trực tiếp và khoảng 16.000 lao động gián tiếp tham gia các công đoạn nhƣ quay chỉ rối,
kéo chỉ, dệt thảm chỉ xơ dừa, đan đát các sản phẩm thủ công mỹ nghệ chỉ xơ dừa .v.v.
Ngoài việc tạo ra giá trị xuất khẩu lớn cho địa phƣơng, làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa ở
11
huyện Mỏ Cày còn góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ trƣơng xóa đói giảm
nghèo, đồng thời nâng cao thu nhập cho nông dân trồng dừa.
Nhu cầu thị trường
Giá các loại thảm xơ dừa (thảm chùi chân) trên thị trƣờng thế giới dao động từ
12,5 – 37,84 USD/m2, hiện nay giá có khuynh hƣớng giảm với tỷ lệ giảm khoảng
5,6%. Giá chổi xơ dừa và bàn chải xơ dừa hiện khoảng 0,77 USD/chiếc tăng khoảng
14,2% so với giá cùng thời điểm năm trƣớc.
Quý 1/2009, giá chỉ xơ dài khoảng 862 USD/tấn tăng 35,4%, giá chỉ xơ xoắn
khoảng 962USD/tấn tăng 5,25%, giá mụn dừa khoảng 315USD/tấn tăng 11,8% so với
giá quý 1/2008.
Nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa luôn biến đổi. Năm 2008, mụn dừa
chủ yếu đƣợc xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, tiếp theo là EU (các nƣớc Tây Ban
Nha, Hà Lan, Ý, Pháp, Anh Đức, Phần Lan). Các nƣớc Bắc Mỹ (Mỹ, Canada, Mexico)
nhập khẩu mụn dừa. Các nƣớc Châu Mỹ La linh nhƣ Argentina, Ecuador và Chi Lê
cũng nhập khẩu một số lƣợng nhỏ mụn dừa. Ngoài ra, các sản phẩm chỉ xơ dài, chỉ xơ
cứng, chỉ xơ xoắn, nệm xơ dừa cũng đƣợc xuất khẩu sang thị trƣờng Mỹ, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Á Rập Saudi, các nƣớc EU.
Ngoài Đức, có 6 quốc gia quan trọng khác ở thị trƣờng EU đang nhập khẩu
thảm lót sàn bằng xơ dừa từ thị trƣờng thế giới là Ai Cập, Netherlands, Tây Ban Nha,
Ý, Anh (UK) và Ba Lan. Thị trƣờng nhộn nhịp nhất theo nhận định là Tây Ban Nha, Ý
và Ba Lan. Ba quốc gia này có tốc độ tăng trƣởng nhập khẩu rất đáng kể là 26,9%,
19,2% và 18,4%/năm trong suốt 5 năm qua. Nhu cầu trung bình hàng năm của các
quốc gia này là 1,6 triệu tấn (Tây Ban Nha), 3,0 triệu tấn (Ý) và 0,3 triệu tấn (Ba Lan).
12
Các quốc gia nhập khẩu ở thị trƣờng EU nhƣ Ai Cập, Netherlands có tỷ lệ tăng trƣởng
giảm với 4,7% và 13,8%/năm tƣơng ứng với lƣợng nhập khẩu trung bình là 0,33 triệu
tấn (Ai Cập) và 0,61 triệu tấn (Netherlands).
Mặc dù có xu hƣớng giảm trong vòng 5 năm qua, nhƣng thị trƣờng EU vẫn là
một trung tâm thị trƣờng nhập khẩu xơ dừa và các bán thành phẩm. Đức vẫn có nhu
cầu cần khoảng 8,7 triệu tấn/năm đối với các sản phẩm xơ dừa nhƣ xơ thảm và xơ cứng
và cũng đã nhập khẩu hàng năm khoảng 0,65 triệu tấn bán thành phẩm từ xơ dừa từ thị
trƣờng thế giới. Netherlands đã nhập khẩu các sản phẩm xơ dừa cùng loại với số lƣợng
lớn hơn của Đức. Nhu cầu nhập khẩu hàng năm trong 5 năm qua là 6,9 triệu tấn (xơ
thô) và 12,8 triệu tấn bán thành phẩm từ xơ. Hai loại sản phẩm này đã mở rộng tỷ lệ
phát triển đến 70,1% và 38,8% tại thị trƣờng Netherlands.
Không giống với các thị trƣờng khác, Ý có nhu cầu nhập khẩu bán thành phẩm
từ xơ dừa hơn là xơ dừa thô. Tỷ lệ phát triển đối với xơ dừa thô đang giảm đến
8,2%/năm trong khi nhu cầu nhập khẩu bán thành phẩm từ xơ lại tăng đến 27,8%/năm.
Các mức giá trung bình đối với mặt hàng xơ dừa thô và bán thành phẩm từ xơ
dừa tại thị trƣờng Châu Âu là 0,36 USD/kg và 0,54 USD/kg. Các mức giá xuất khẩu
đối với cùng loại sản phẩm tại Sri Lanka là 0,24 USD/kg và 0,40 USD/kg.
2.3.2
Thực trạng hoạt động thu mua xơ dừa ở huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến
Tre
2.3.2.1 Nhà vườn
Huyện Mỏ Cày Nam có điều kiện tự nhiên là vùng nƣớc lợ do đó đƣợc xem là
vùng chuyên canh trồng dừa có qui mô tại tỉnh Bến Tre, nƣớc lợ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc trồng dừa năng suất hơn. Trong vùng có nhiều loại dừa: dừa dứa, dừa xiêm,
13
dừa dâu, dừa sáp, dừa khô,… song dừa ta đƣợc trồng nhiều nhất nhằm phục vụ cho nhu
cầu công nghiệp.
Huyện Mỏ Cày Nam gồm 11 xã, trung bình 7 ấp/ xã, trong đó Định Thủy,
Phƣớc Hiệp, Bình Khánh là 3 xã trồng nhiều dừa, tƣơng đƣơng nhau về năng suất, giá
cũng cao hơn so với các vùng khác.
Diện tích còn manh mún, chƣa quy hoạch hợp lý. Trên thực tế, ở huyện Mỏ Cày
Nam hiện nay, số hộ sở hữu 1 ha (10.000m2) vƣờn dừa rất ít. Đại trà là mỗi hộ chỉ 2-3
công đất vƣờn dừa (2.000-3.000m2). Một công đất (1000m2) nếu trồng kỹ thuật sẽ
phải trồng khoảng 19 cây, khoảng cách 8 thƣớc tƣơng đƣơng 2m50 thì dừa sẽ phát
triển tốt nhất tuy nhiên cũng rất ít hộ thực hiện đƣợc điều này, bên cạnh việc trồng dừa
không cần công chăm sóc nhiều, ngƣời nông dân cần có nhiều công việc phụ thêm.
Tuổi thọ cây dừa trung bình là 60 năm, sau lần thu hoạch đầu tiên cứ khoảng 1
tháng - 20 ngày lại thu hoạch, nhƣ vậy 1 năm ngƣời trồng dừa thu hoạch khoảng 10
lần. Về cách thức thu hoạch, chủ vƣờn có thể thuê ngƣời chuyên môn bẻ dừa rồi bán
cho thƣơng lái với giá 32.000VNĐ/ chục hoặc thƣơng lái đến bẻ dừa, đếm rồi mua
luôn, giá hiện tại là 30.000VNĐ/ chục, giảm gần một nửa so với năm trƣớc. Theo cách
khác, trong trƣờng hợp chủ vựa lột dừa bán thẳng cho chủ tàu Trung Quốc để cạnh
tranh họ sẽ liên hệ trực tiếp với nhà vƣờn, nhà vƣờn bẻ sẵn rồi họ tới lấy. Phƣơng tiện
vận chuyển dừa có thể dùng xe đạp (1 xe đạp máng đƣợc 50 trái dừa), xe lôi, xe ba gác,
ghe, xuồng máy…hoặc dùng bè kết dừa thả trôi theo đƣờng nƣớc kênh rạch nếu nhƣ
ghe, xuồng máy không thể vào.Trong quá trình vận chuyển có thể kết hợp nhiều cách
thức, phƣơng tiện vận chuyển bằng đƣờng thủy là phổ biến và hiệu quả nhất vì có thể
tận dụng hệ thống sông ngòi, kênh rạch cùng các con nƣớc lên xuống theo thời gian.
Ngƣời trồng vƣờn chịu nhiều áp lực vì một trái dừa mang lại các giá trị khác
nhau và chỉ cần một trong các yếu tố có vấn đề thì giá dừa sẽ giảm. Nhìn chung giá bấp
14
bênh gây nhiều khó khăn cho ngƣời trồng dừa, cầu thị trƣờng biến động, phụ thuộc
nhiều vào tàu Trung Quốc. Bên cạnh đó, còn các yếu tố cũng gây ảnh hƣởng tới việc
trồng dừa nhƣ thời tiết, sâu bọ, phân bón,…Sâu bọ phá hại nếu xuất hiện ở một cây
trong vƣờn có thể sẽ ăn hết vƣờn gây thiệt hại lớn cho ngƣời trồng. Mức độ phá hại của
chuột không bằng sâu bọ song cũng làm năng suất giảm đáng kể.
Nhà nƣớc ta có qui định trong công việc trồng dừa, một cây một tháng hái đƣợc
6 trái, nếu dừa công nghiệp (hay còn gọi là dừa ta/dừa bị): 10 trái/cây, 1 công dừa 19
cây thì chỉ đƣợc 15 cây thu hoạch. Từ đó ngƣời nông dân có thể so sánh đối chiếu với
kết quả thu hoạch của mình, để có kế hoạch trồng và chăm sóc vƣờn dừa tốt hơn. Các
hộ nông dân trồng dừa sẽ đƣợc tập huấn qua các hội thảo, chƣơng trình do phòng nông
nghiệp của huyện tổ chức. Nếu hộ nào nằm trong vùng dự án sẽ đƣợc tập huấn thƣờng
xuyên hơn, hình thành hợp tác xã, đƣợc hỗ trợ phân bón, tƣ vấn kĩ thuật. Tuy nhiên
miền Nam chƣa có các hợp tác xã, hội nông dân,…đa số nông dân tự phát, chỉ mới ở
Châu Thành có một hội nông dân đi vận động tỉa bớt dừa già, trồng xen ca cao vì loại
cây này phù hợp với bóng râm của dừa, bón phân cho ca cao dừa cũng có thể hấp thụ
đƣợc. Huyện Mỏ Cày Nam đang áp dụng và dần nhân rộng mô hình này song cũng gặp
nhiều khó khăn.
2.3.2.2 Thương lái
Thƣơng lái tới từng nhà dân thu mua dừa khô theo mùa thu hoạch dừa, thông
thƣờng là quanh năm, trung bình một tháng một lần do không có vùng trồng dừa
chuyên canh.
Qui mô trồng của ngƣời dân nhỏ nên ở mỗi hộ thƣơng lái chỉ thu gom đƣợc
khoảng 10-50 trái. Chất lƣợng dừa tùy theo vùng khác nhau có nhiều loại giá khác
nhau. Trung bình 32000VNĐ/12 trái dừa khô. Thƣơng lái thu mua 8-10% ( không tính
công bẻ ) 27000VNĐ/chục (12 trái).
15
Do các vƣờn dừa trồng manh mún nên việc thu mua của thƣơng lái cũng rất đa
dạng: xe đạp, xe tự chế, ghe, xuồng, hoặc là dừa đƣợc kết thành bè thả trôi theo dòng
nƣớc... Nếu dùng xe đạp thu mua thì mỗi xe có thể chở đƣợc 50 trái dừa. Xe ba gác
nhỏ chở dừa mua đƣợc từ các hộ dân đƣợc tập trung tại một địa điểm gần ven sông sau
đó vận chuyển bằng ghe, thuyền dọc theo sông đến tận bãi dừa của các chủ vựa nằm
ven sông.
Giữa thƣơng lái và chủ vựa có mối quan hệ chặt chẽ, tuy không có hợp đồng
nhƣng ràng buộc về vốn (tiền bạc), các thƣơng lái có thể đăng ký với chủ vựa để ứng
trƣớc vốn cho thƣơng lái, thƣơng lái đi mua đâu không cần biết chỉ cần vận chuyển dừa
về đủ cho chủ vựa sơ chế chỉ xơ dừa rồi hƣởng chênh lệch giữa giá mua và bán. Trong
trƣờng hợp có sự ứng vốn nhƣ trên chủ vựa lấy giá thấp hơn thị trƣờng để trừ tiền lãi,
nếu chỉ quen biết làm ăn thông thƣờng chủ vựa sẽ lấy tiền ngang thị trƣờng.
2.3.2.3 Vựa thu mua
Từ Thành Thới B lên tới Mỏ Cày bảy cây số, 200 cơ sở lột dừa lấy vỏ làm tơ xe
sợi. Mỗi cơ sở đều tập trung ở ven sông, có 4 khu riêng, khu lột vỏ dừa ở ngay cạnh
sông, khu tƣớc chỉ xơ dừa, khu sân phơi và kho dự trữ. Nhờ nghề sản xuất chỉ xơ dừa,
mỗi lao động thu nhập thƣờng xuyên trên 50.000 đồng/ngày. Làng nghề này có gần
200 cơ sở, mỗi cơ sở giải quyết việc làm từ 18-20 lao động. Lột dừa khô 1 cò (200 trái)
tiền công là 8.000 đồng, trung bình một ngày một ngƣời lột từ 8-10 cò (1 thiên dừa
1.200 trái). Thảy dừa từ ghe lên bờ tiền công 7.000 đồng/thiên dừa. Đập vỏ dừa (bằng
máy) 50.000 đồng/tấn. Tƣớc chỉ xơ dừa (bằng máy) 120.000 đồng/tấn, bình quân 8
tiếng, 5 ngƣời tƣớc đƣợc ít nhất 2 tấn. Còn công đoạn phơi chỉ xơ dừa tuy nhẹ nhƣng
cực công, nhất là vào mùa mƣa. Nhƣng tiền công phơi 1 tấn chỉ xơ dừa cao, 120.000
đồng/tấn... Các cơ sở sản xuất chỉ xơ dừa hoạt động quanh năm, chỉ nghỉ mấy ngày
16
Tết. Với công suất 2-3 tấn chỉ/ngày, một chủ vựa có thể có thu nhập 400.000
đồng/ngày sau khi trừ hết chi phí.
Các cơ sở sản xuất các sản phẩm từ dừa hiện nay tại Bến Tre đều chƣa hoạt
động hết công suất thiết kế. Qua điều tra 25 cơ sở sản xuất chế biến thì năng suất hoạt
động trung bình của các cơ sở này đều vào khoảng 60%, trong đó cơ sở hoạt động thấp
nhất là 40% và cơ sở hoạt động cao nhất là 70%. Có khoảng 45% cơ sở dự tính sẽ tăng
quy mô hoạt động của mình lên hơn 10%, và 35% cơ sở dự tính tăng hơn 50%, trong
khi số còn lại (khoảng 20%) không có ý định tăng quy mô hoạt động của cơ sở mình.
Điều này cho thấy các cơ sở sản xuất chế biến đang bị động về đầu ra, không có thị
trƣờng tiêu thụ nên việc tổ chức mạng lƣới marketing cho các sản phẩm ngành dừa vô
cùng cấp thiết và quan trọng.
Theo các số liệu nghiên cứu, chỉ có khoảng 5% các cơ sở sản xuất chế biến của
ngành dừa có máy móc tiên tiến, còn 62% có máy móc trung bình, trong khi 33% cơ sở
đang trong tình trạng sản xuất với các thiết bị máy móc lạc hậu, kho bãi còn hạn chế,
chƣa có hệ thống bảo quản đạt tiêu chuẩn, do đó chỉ thƣờng bị hao hụt, độ ẩm không
đạt chuẩn, không thể dự trữ lâu đƣợc. Điều này dẫn đến bị động cho các chủ vựa trong
việc tiêu thụ, họ phải tìm ngƣời tiêu thụ ngay trong 1 – 2 ngày sau khi chỉ đƣợc đóng
kiện.
Trƣớc đây khi công ty Trúc Giang hay công ty 26/8 của Bến Tre còn hoạt đông
kinh doanh trong lĩnh vực thu mua chỉ xơ dừa, tình hình khả quan hơn cho các chủ vựa
vì công ty thực hiện chế độ bao tiêu có nghĩa là bao giá dù thị trƣờng biến động, do đó
các vựa thu mua đỡ bị lỗ.
Năm 2005-2006 là thời hoàng kim của ngành sản xuất chỉ xơ dừa ở Bến Tre.
Hàng sản xuất ra luôn không đáp ứng đủ nhu cầu đặt hàng từ nƣớc ngoài. Giá chỉ xơ
dừa xuất khẩu tăng vọt từ 220USD/tấn vào năm 2003 lên đến 350USD/tấn năm 2006.
17
Còn giá vỏ dừa từ 200-250/cái có lúc lên đến 1.000-1.500 đồng/cái, nhƣng các cơ sở
cũng phải tranh mua vỏ dừa để sản xuất. Cả nông dân trồng dừa và ngƣời sản xuất chỉ
xơ dừa đều phấn khởi với những sợi “chỉ vàng” từ xơ dừa.
Nhƣng bƣớc vào đầu năm 2007 đến nay, giá chỉ xơ dừa xuất khẩu bắt đầu rớt
dài và hiện nay chỉ còn trên dƣới 200 USD/tấn. Trƣớc đây, các nƣớc trong khu vực có
nhiều dừa nhƣ: Indonesia, Malaysia, Philippines, Sri Lanka... chỉ chú trọng sản xuất
các sản phẩm từ cơm dừa nhƣ: cơm dừa nạo sấy, sữa dừa... Còn phần vỏ dừa đƣợc xem
là phế phẩm, không ai mua. Trong khi tại Bến Tre, vỏ dừa đƣợc tận dụng tối đa để sản
xuất chỉ xơ dừa. Đến khi Trung Quốc, Đài Loan... có nhu cầu nhập chỉ xơ dừa với số
lƣợng lớn để làm nệm ô tô, nệm lót giƣờng ngủ, ghế sa lông... thì ngành sản xuất chỉ
xơ dừa của Bến Tre bắt đầu phát đạt. Nệm bằng nguyên liệu chỉ xơ dừa có ƣu điểm rất
thoáng hơi và không gây ô nhiễm môi trƣờng khi không sử dụng (chỉ xơ dừa rất dễ
phân hủy). Tại Trung Quốc, Đài Loan, hầu hết các doanh trại quân đội đều sử dụng
nệm làm từ chỉ xơ dừa... Vào mùa đông, nhu cầu nệm bán ra thị trƣờng tăng mạnh, nên
thƣờng từ tháng 7 âm lịch đến cuối năm, các nƣớc này có nhu cầu nhập chỉ xơ dừa rất
lớn.
Để khắc phục tình trạng lệ thuộc nguồn cung chỉ xơ dừa độc quyền của Việt
Nam, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã đƣa ngƣời đến Bến Tre “tham quan” quy
trình sản xuất chỉ xơ dừa. Tất cả máy móc phục vụ các công đoạn sản xuất chỉ xơ dừa
do ngƣời dân Bến Tre tự chế đƣợc họ đặt hàng sản xuất và đƣa về Trung Quốc làm
hàng mẫu để sản xuất lại. Ngay sau đó, những loại máy móc này đƣợc Trung Quốc đƣa
đến những nƣớc có nhiều dừa nhƣng chƣa biết tận dụng vỏ dừa để sản xuất chỉ xơ dừa
nhƣ ở Bến Tre. Vì vậy, giá xuất khẩu chỉ xơ dừa trên thị trƣờng bị kéo xuống. Thêm
vào đó, những nƣớc mới tham gia sản xuất chỉ xơ dừa đã chủ động khống chế độ ẩm
đúng tiêu chuẩn của nhà nhập khẩu, để cạnh tranh với nguồn hàng từ Việt Nam.
18
Lợi thế của chỉ xơ dừa sản xuất tại Bến Tre là trắng, mịn (một phần do trái to),
đƣợc khách hàng ƣa chuộng. Tuy nhiên, ngành sản xuất chỉ xơ dừa Bến Tre đang bị
thất thế do không giữ chất lƣợng từ đầu; lợi thế độc quyền không còn. Mặt khác, do chỉ
chú trọng xuất khẩu nguyên liệu nên các cơ sở sản xuất đang bị lệ thuộc vào đầu mối
tiêu thụ, các chủ vựa tƣớc chỉ đang bị các công ty Trung Quốc ép giá thu mua.
2.4
NHỮNG ƢU THẾ VÀ TỒN TẠI
2.4.1
Ƣu thế
Bến Tre có lợi thế sản xuất dừa so với các tỉnh khác trong đồng bằng sông Cửu
Long cũng nhƣ các tỉnh khác trong cả nƣớc nếu xét về sản lƣợng. Dừa là cây công
nghiệp thế mạnh trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Bến Tre. Hiện nay, diện tích
dừa đang thu hoạch ổn định.
Ngoài sản phẩm chính là chế biến dầu dừa, chỉ xơ dừa, các sản phẩm khác từ
dừa đang đƣợc thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế ƣa chuộng. Tỉnh có chủ trƣơng phát
triển diện tích dừa gắn liền với các cơ sở công nghiệp chế biến nhƣ tập trung cho dự án
xây dựng nhà máy than hoạt tính, các cơ sở chế biến chỉ, thảm xơ dừa có chất lƣợng
cao... nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Quý 1/2009, kim
ngạch xuất khẩu đạt 21,7 triệu USD, tăng 12,5% so với kim ngạch xuất khẩu cùng kỳ
năm trƣớc. Theo UBND tỉnh Bến Tre, giá trị xuất khẩu các sản phẩm dừa năm 2009 dự
kiến đạt trên 66 triệu USD trong tổng số 170 triệu USD giá trị xuất khẩu của toàn tỉnh.
Hiện các doanh nghiệp trong tỉnh đang tập trung XK khoảng 23 loại sản phẩm khác
nhau từ cây dừa, trong đó nhiều nhất là cơm dừa nạo sấy và chỉ xơ dừa. Bến Tre có
diện tích trồng dừa lớn nhất nƣớc với hơn 40.000 ha, sản lƣợng trên 300 triệu trái dừa
mỗi năm.
19
2.4.2
Tồn tại
2.4.2.1 Nhà vườn
Mùa vụ không ổn định
Đôi ba tháng dừa treo trong năm cũng là mặt hạn chế khách quan về sản lƣợng
chung của trái dừa Bến Tre. Trong năm, nếu vào thời điểm mùa khô mà dừa ra bông,
kết trái thì trái non sẽ rụng rất nhiều so với dừa ra bông khi trời sa mƣa.
Dừa từ kết trái đến khi trở thành dừa khô khoảng 8 tháng. Nhƣ vậy, nếu dừa ra bông
vào tháng 3 (mùa khô) thì vào tháng 11, trái dừa còn lại trên cây để trở thành dừa khô
rất ít, nông dân gọi đó là “dừa treo”.
Hiện tại, các nhà khoa học, nhà vƣờn có thể cho cây chôm chôm, sầu riêng… ra
trái mùa nghịch nhƣng với cây dừa, khắc phục yếu tố tự nhiên để cây dừa cho trái đều
đặn quanh năm thì chƣa thể đƣợc. Bến Tre hiện có khoảng 37.500 ha dừa, tổng sản
lƣợng khoảng 230 triệu trái/năm. Nhƣ vậy ƣớc tính, mùa dừa treo trong năm đã làm
Bến Tre mất đi không dƣới 50 triệu trái. Do đó đề ra các giải pháp nhằm hạn chế đƣợc
“nhƣợc điểm” này hiện đang là nhu cầu cấp thiết.
Diện tích manh mún chưa quy hoạch,
Số hộ sở hữu 1 ha (10.000m2) vƣờn dừa rất ít, đại trà là mỗi hộ chỉ 2-3 công đất
vƣờn dừa (2.000-3.000m2) và ngƣời trồng dừa cũng không quan tâm nhiều đến kĩ thuật
trồng dừa sao cho có năng suất tốt. Nhƣ vậy gây khó khăn trong công tác qui hoạch,
tập huấn cũng nhƣ việc thu mua, vận chuyển, tập trung về nơi sản xuất chế biến.
Thông tin thị trường không ổn định ảnh hưởng đến tâm lý nhà vườn
Trong khi ngƣời nông dân phải mất khoảng 5 năm để có thể thu hoạch đƣợc dừa
thì khi giá dừa sụt giảm, ngƣời trồng dừa phải chặt bỏ hàng dừa để trồng loại cây khác
20
trong một thời gian ngắn. Việc phá bỏ dừa hàng loạt đã dẫn đến những bất ổn trong đời
sống của ngƣời dân từ trƣớc đến nay vẫn quen canh tác dừa. Hậu quả của việc chặt phá
dừa không chỉ giới hạn ở sức khoẻ kinh tế của hộ trồng dừa nữa mà ảnh hƣởng mạnh
đến cơ cấu sản xuất và sức khoẻ kinh tế của cả một tỉnh, của các cụm tiểu thủ công
nghiệp và vấn đề giải quyết công ăn việc làm tại các tỉnh trồng dừa và các tỉnh lân cận.
Nhà vườn chưa được hỗ trợ kỹ thuật trồng dừa
Miền Nam chƣa có các hợp tác xã, hội nông dân,…đa số nông dân tự phát, chỉ
mới có ở Châu Thành có 1 hội nông dân đi vận động tỉa bớt dừa già, trồng xen ca cao,
ca cao phù hợp bóng râm của dừa, bón phân cho ca cao. Nếu có chƣơng trình tập huấn
về kĩ thuật trồng dừa chỉ có trƣởng ấp, phó ấp đƣợc mời sau đó mới phổ biến lại cho
các hộ nông dân.
2.4.2.2 Thương lái
Tổ chức hệ thống thu mua dừa của các thƣơng lái hiện nay tuy có nhiều thay đổi
nhƣng năng lực kinh doanh và tổ chức phối hợp còn bộc lộ nhiều yếu kém. Các thƣơng
lái kinh doanh lấy công làm lời là chính, chƣa có đầu tƣ đầy đủ vào phƣơng tiện vận
chuyển để làm cho việc thu mua trở nên chuyên nghiệp. Giữa các thƣơng lái với nhau
chƣa có sự phối hợp, thu mua không hiệu quả, tình trạng lƣu thông chồng chéo, tranh
mua tranh bán gây tổn hại đến lợi ích chung của ngƣời trồng dừa.
Các thƣơng lái chƣa đƣợc hỗ trợ vốn để thu mua dừa, họ thƣờng phải vay mƣợn
vốn từ các chủ vựa cho nên thu nhập bấp bênh.
2.4.2.3 Vựa thu mua
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu:
Kho bãi dự trữ:
21
Các cơ sở chế biến và các vựa thu mua do hạn chế về vốn và kho tàng bảo quản
nên họ chỉ thu mua đủ với khả năng của mình, hoặc vận chuyển thẳng từ nơi thu mua
đến cảng xuất khẩu, nên thời gian bảo quản của các cơ sở này từ 15-20 ngày. Tuy vậy,
hệ thống kho và các phƣơng tiện bảo quản dừa đang trong tình trạng vừa thiếu, vừa lạc
hậu, điều này ảnh hƣởng rất lớn đến chất lƣợng xơ dừa, tăng độ ẩm hay hao hụt làm
giảm doanh thu cho các vựa thu mua.
Nguồn điện chưa ổn định, chưa đủ cung cấp
Mỗi ngày một cơ sở tƣớc chỉ chỉ đƣợc chạy máy 4 tiếng đồng hồ theo ca đã
đƣợc điện lực huyện phân sẵn. Việc này làm giảm công suất hoạt động của vựa, cũng
nhƣ khiến cho vựa bị động về thời gian sản xuất đặc biệt vào những lúc cao điểm, dừa
về nhiều nhƣng phải đợi đến ca mới đƣợc chạy máy.
Chưa được hỗ trợ vốn
Từ trƣớc đến nay ở Việt Nam ít quan tâm đến các biện pháp đầu tƣ và tín dụng
cho khâu bảo quản nông sản nói chung và các sản phẩm của cây dừa nói riêng mà chỉ
chú ý đến công đoạn sản xuất. Các cơ sở thu mua rất cần thêm vốn để đầu tƣ nâng cấp
cơ sở vật chất để nâng cao chất lƣợng sản phẩm.
Trình độ quản lý của các cơ sở còn yếu kém
Trình độ quản lý của các chủ vựa thu mua chƣa cao, chủ yếu làm việc dựa trên
tập quán, kinh nghiệm, chứ không có đủ kiến thức kinh tế.
Mụn dừa gây ô nhiễm môi trường chưa được giải quyết triệt để
Thống kê sơ bộ, tỉnh Bến Tre có hơn 300 cơ sở sản xuất chỉ xơ dừa thì Mỏ Cày
có tới hơn 240 cơ sở, mỗi ngày xả xuống kênh rạch trên 500 tấn phế phẩm mụn dừa.
Sản xuất chỉ xơ thải ra lƣợng mụn dừa giao động từ 300-500 tấn/ngày, tập trung nhiều
22
nhất vào khoảng tháng 4-9 hằng năm. Phần lớn mụn dừa không có bãi chứa hoặc có bãi
chứa khi quá tải thì chủ cơ sở thải đổ trực tiếp xuống sông Thom gây ô nhiễm môi
trƣờng và lan rộng ra các nhánh của sông Thom, ảnh hƣởng đến chất lƣợng nƣớc sinh
hoạt của ngƣời dân và huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sinh vật.
Hiện tại ở Bến Tre có một số công ty sử dụng mụn dừa để chế biến nhƣ Công ty
Covina (Hàn Quốc) xây dựng nhà máy ép mụn dừa xuất khẩu, công ty Công ty TNHH
SX TM Phú Hoà sử dụng mụn dừa để sản xuất bao bì... Tuy nhiên tại Bến Tre chƣa có
nhiều doanh nghiệp đầu tƣ chế biến mụn dừa, dù nguồn phế phẩm này rất lớn. Đa số
ngƣời dân phải dùng ghe chở mụn lên thành phố Hồ Chí Minh bán cho các cơ sở sản
xuất đất sạch ở Bình Chánh, giá bán không cao nhƣng lại tốn công chuyên chở. Mỗi
ngày các cơ sở sản xuất chỉ xơ dừa của tỉnh thải ra gần 500 tấn mụn dừa nhƣng chỉ có
một vài cơ sở ép mụn dừa xuất khẩu, công suất nhỏ.
Thị trường không ổn định
Giá dừa khô không ổn định
Giá dừa khô giảm mạnh vào thời điểm nghịch mùa, cho thấy sự bất ổn về giá do
đầu ra của trái dừa đang còn phụ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung
Quốc dƣới dạng chỉ xơ dừa thô, không để lâu đƣợc.
Thông tin về thị trường chưa đầy đủ
Thông tin về giá cả, dự báo về khả năng cung cầu của tỉnh còn chƣa đƣợc quan
tâm và khai thác đúng mức. Các vựa thu mua chỉ mua bán chỉ xơ dừa theo mối quen
chứ chƣa chủ động đƣợc về nhu cầu mở rộng mạng lƣới tiêu thụ.
Chưa sản xuất dừa thành thành phẩm cũng như chưa xây dựng được thương
hiệu cho các sản phẩm từ chỉ xơ dừa
23
Chúng ta chỉ tập trung vào sản xuất, xuất khẩu nguyên liệu thô mà chƣa chú
trọng đến việc sản xuất chế biến thành thành phẩm. Hiện nay, chỉ xơ dừa chủ yếu đƣợc
xuất khẩu thô sang Trung Quốc vẫn còn rất ít các công ty sản xuất và xuất khẩu đƣợc
các sản phẩm từ xơ dừa nhƣ thảm, nệm,…
24
CHÖÔNG 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT HỖ TRỢ HOẠT
ĐỘNG THU MUA LƢỚI XƠ DỪA Ở HUYỆN MỎ CÀY NAM –
TỈNH BẾN TRE
3.1
NHÀ VƢỜN
Hỗ trợ giống dừa mới năng suất hơn, hƣớng dẫn cho nông dân cách ƣơm giống
đúng kĩ thuật hiệu quả hơn thay vì chỉ tiến hành lựa chọn trong vƣờn cây nào tốt, giống
tốt để ƣơm dừa con theo cảm tính. Trồng dừa con xen trƣớc khi thấy dừa gần già, năng
suất yếu để dừa trƣởng thành ổn định rồi đốn những cây già, đảm bảo luôn luôn có dừa,
tiết kiệm thời gian và thu hoạch quanh năm.
Hiện tại thu nhập của nông dân Bến Tre là 5 triệu đồng/ ngƣời hƣởng từ sản
phẩm nông nghiệp mà đa số là dừa. Cần có chính sách trợ giá cây giống ca cao cho các
hộ trồng dừa ở huyện Mỏ Cày Nam, hƣớng dẫn nông dân trồng xen ca cao với dừa
nhằm đạt kết quả nhiều hơn, tăng thêm thu nhập cho ngƣời dân từ các sản phẩm nông
nghiệp, nhân rộng mô hình này ra toàn huyện nói riêng và toàn tỉnh nói chung nhằm
mục tiêu tăng trƣởng kinh tế, nâng cao đời sống nông dân.
3.1.1
Quy hoạch vƣờn dừa
Trƣớc hết cần đề ra các vùng dự án của huyện, nhóm nghiên cứu xin đề xuất ba
xã có năng suất trồng dừa cao trong huyện là xã Định Thủy, xã Phƣớc Hiệp, xã Bình
Khánh, ba xã sẽ đƣợc tập huấn thƣờng xuyên hơn, hình thành hợp tác xã, đƣợc hỗ trợ
phân bón, tƣ vấn kĩ thuật trồng và chăm sóc dừa. Đa số mỗi hộ chỉ có 2-3 công đất
vƣờn dừa (2.000-3.000m2), khi tập họp lại trong một hợp tác xã sẽ có cách chăm sóc
thống nhất và thƣờng xuyên mang lại số lƣợng dừa lớn với chất lƣợng tốt, đồng nhất.
Từ đó giúp cho việc thu mua dừa của thƣơng lái tiến hành nhanh hơn, tiết kiệm hơn,
thậm chí hợp tác xã có thể liên hệ trực tiếp với chủ vựa đến lấy dừa vào các thời điểm